Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Đổi mới đồng bộ giữa kinh tế và chính trị, sự vận dụng mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị ở Việt Nam thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.27 KB, 16 trang )

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG....................................................................................2
Chương I. Cơ sở lý luận giữa kinh tế và chính trị.......................................2
1. Khái niệm kinh tế và chính trị.................................................................2
1.1 Khái niệm kinh tế..................................................................................2
1.2 Khái niệm chính trị................................................................................2
2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin về kinh tế và chính trị.............2
2.1 Vai trị quyết định của kinh tế đối với chính trị.....................................3
2.2 Tính độc lập tương đối của chính trị so với kinh tế...............................5
Chương II. Sự vận dụng mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị ở Việt
Nam thời kỳ đổi mới, thực trạng tại địa phương.................................................7
1. Sự vận dụng mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị ở việt nam thời kỳ
đổi mới.................................................................................................................7
1.1 Đổi mới kinh tế ở Việt Nam..................................................................7
1.2 Đổi mới chính trị ở Việt Nam................................................................7
1.3. Mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam....9
2. Thực trạng trên địa bàn tỉnh Tây Ninh hiện nay...................................10
Chương III. Giải pháp, kiến nghị..............................................................12
PHẦN KẾT LUẬN..................................................................................14
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................15


PHẦN MỞ ĐẦU
Trong sự phát triển của xã hội, chính trị với kinh tế là mối quan hệ cơ
bản nhất, quyết định nhất tới sự vận động và phát triển của mọi xã hội. Điều
đó, đặt ra sự cần thiết phải nhận thức đầy đủ cả về lý luận và những kinh
nghiệm lịch sử về sự tác động của chính trị vào phát triển kinh tế nhằm rút ra
những giải pháp thiết thực cho cơng cuộc đổi mới tồn diện theo định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta.


Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế; chính trị khơng thể khơng
chiếm vị trí ưu tiên so với kinh tế. Trong sự phát triển của xã hội, kinh tế giữ
vai trị quyết định nhưng kinh tế khơng phải là yếu tố duy nhất.
Trong quá trình đổi mới, Đảng ta đã nhận thức và giải quyết đúng đắn
mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế, giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính
trị. Để thực hiện thành cơng sự nghiệp đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội,
chúng ta cần giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh
tế thị trường, tiếp tục đẩy mạnh đổi mới hệ thống chính trị, thực hiện dân chủ
hố xã hội, xây dựng và hồn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa;
đồng thời, đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng.
Sau hơn 30 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, cách
mạng Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh vực: kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội… Điều đó đã chứng minh sự vận dụng, phát triển
phép biện chứng duy vật một cách sáng tạo, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh
đất nước trong những năm vừa qua, góp phần to lớn vào thắng lợi của cách
mạng Việt Nam nhằm mục đích bảo vệ và phát triển chủ nghĩa xã hội cả về lý
luận nhận thức và hoạt động thực tiễn. Những thành tựu đó tạo tiền đề quan
trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới;
khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu
thế phát triển của lịch sử.
Vì vậy, cá nhân quyết định chọn nội dung “vấn đề đổi mới đồng bộ
giữa kinh tế và chính trị, sự vận dụng mối quan hệ giữa kinh tế với chính
trị ở Việt Nam thời kỳ đổi mới và thực trạng trên địa bàn tỉnh Tây ninh
hiện nay” làm bài thu hoạch kết thúc môn học “Triết học Mác- Lênin”. Trong
khuôn khổ đề tài đặt ra khơng tránh khỏi những thiếu sót nhất định, rất mong
nhận được sự hướng dẫn và góp ý từ q thầy cơ để hồn thiện hơn. Xin chân
thành cảm ơn!



2

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ
1. Khái niệm kinh tế và chính trị
1.1 Khái niệm kinh tế: Về phương diện hoạt động, kinh tế là toàn bộ
quan hệ giữa người và người trong sản xuất, phân phối, tiêu dùng những sản
phẩm do lao động làm ra tập trung ở ba quan hệ cơ bản của quan hệ sản xuất
là sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối sản phẩm.
Về phương diện vật chất, kinh tế là toàn bộ những sản phẩm lao động
của con người, nhằm trao đổi và tiêu dùng để thỏa mãn nhu cầu của con
người, là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của xã hội.
1.2 Khái niệm chính trị: chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, giữa
các dân tộc, giữa các quốc gia có liên quan tới vấn đề ngành, giữ và sử dụng
chính quyền Nhà nước. Hoặc cũng có thể được hiểu, chính trị là hoạt động
chính trị thực tiễn của các giai cấp, đảng phái, nhà nước để hiện thực hóa lợi
ích cơ bản của mình trong mối tương quan với các chủ thể chính trị khác.
Chính trị, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, có những điểm
chủ yếu như sau: (1) chính trị là quan hệ giai cấp, là đấu tranh giai cấp, là
quan hệ lợi ích trước hết là lợi ích giai cấp; (2) yếu tố quan trọng nhất của
chính trị là việc tổ chức chính quyền nhà nước, thực hiện nhiệm vụ của nhà
nước; (3) chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, là việc xây dựng nhà
nước về kinh tế; (4) chính trị là lĩnh vực phức tạp nhất, nhạy cảm nhất, liên
quan đến lợi ích nhiều người.
Chính trị có thể được tiêp cận dưới những góc độ khác nhau như sau:
Một là, chính trị với tính cách là chế độ chính trị. Thuật ngữ chế độ
chính trị được hiểu là nội dung phương thức tổ chức và hoạt động của tổ chức
chính trị quốc gia mà trung tâm là Nhà nước.
Hai là, chính trị với tư cách là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng
hay còn gọi là kiến trúc thượng tầng chính trị.

Ba là, chính trị với trị cách là một hệ thống hợp pháp trong một chế độ
xã hội nhất định được gọi là hệ thống chính trị.
2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lênin về quan hệ giữa kinh tế
và chính trị
2.1 Vai trị quyết định của kinh tế đối với chính trị.
Trong lý luận hình thái kinh tế - xã hội, Mác và Ăngghen đã nghiên cứu
một cách sâu sắc mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Các ông cho rằng, cơ sở hạ tầng bao giờ cũng là nhân tố cơ bản quyết định


3

kiến trúc thượng tầng, nhân tố quyết định trong lịch sử, xét đến cùng, là sự
sản xuất và sự tái sản xuất ra đời sống hiện thực, và khi "cơ sở kinh tế thay
đổi thì tất cả cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều, nhanh
chóng".
Thực chất mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là
quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Kinh tế, nếu hiểu theo nghĩa là toàn bộ các
quan hệ sản xuất hợp thành kết cấu kinh tế - xã hội của một giai đoạn lịch sử
thì nó là một hệ thống. Nó tác động đến chính trị với tư cách là một hệ thống
chứ khơng phải tác động với tư cách là từng nhân tố rời rạc. Trong hệ thống
này, lực lượng kinh tế nào giữ vai trò thống trị sẽ quyết định kiến trúc thượng
tầng kể cả tư tưởng lẫn thiết chế tương ứng. Trong Hệ tư tưởng Đức, C.Mác
và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: "Trong mọi thời đại, những tư tưởng của giai cấp
thống trị là những tư tưởng thống trị" và “Những tư tưởng thống trị khơng
phải là cái gì khác mà chỉ là sự biểu hiện tinh thần của những quan hệ vật chất
thống trị, chúng là những quan hệ vật chất thống trị được biểu hiện dưới hình
thức tư tưởng”; do đó, là sự biểu hiện của chính ngay những quan hệ làm cho
một giai cấp trở thành giai cấp thống trị; đó là những tư tưởng của sự thống trị
của giai cấp ấy.

Điều đó có nghĩa là quan hệ sản xuất thống trị là cơ cở để tạo ra giai
cấp thống trị và tư tưởng chính trị. Khi nói kinh tế quyết định chính trị, chủ
nghĩa Mác khơng bao giờ xem kinh tế là yếu tố duy nhất. Xã hội, theo quan
điểm của chủ nghĩa Mác, là sản phẩm tổng hợp các mối quan hệ giữa người
và người. Trong xã hội, ngồi các yếu tố vật chất cịn các yếu tố tinh thần. Tất
cả các yếu tố này đều nằm trong một chỉnh thể và thường xuyên tác động qua
lại với nhau tạo nên sự vận động và biến đổi của xã hội.
Ăngghen viết: “theo quan điểm duy vật lịch sử; nhân tố quyết định
trong lịch sử, xét đến cùng, là sự sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện
thực. Cả Mác lẫn tôi chưa bao giờ khẳng định gì hơn thế. Do đó, nếu có ai
xun tạc câu đó khiến cho nó có nghĩa là nhân tố kinh tế là nhân tố quyết
định duy nhất thì như vậy là họ đã biến câu đó thành một câu trống rỗng, trừu
tượng, vô nghĩa” (1).
Trong tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà
nước, Ăngghen đã nêu rõ sự hình thành của ba nhà nước khác nhau: nhà nước
Aten, nhà nước La Mã và nhà nước Giécmanh.
Xét về cơ sở kinh tế, cả ba nhà nước đều hình thành khi chế độ tư hữu
đầu tiên đã xuất hiện trong lịch sử loài người. Những điều kiện cụ thể để hình
(1)

C.Mác và Ph.Ăngghen, Tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1984, t.IV, tr.726.


4

thành nhà nước khác nhau nên các hình thức tổ chức của các nhà nước cũng
khác nhau. Và như vậy, những mâu thuẫn xã hội đã trực tiếp quyết định hình
thức tổ chức của bộ máy nhà nước, làm thay đổi cả nội dung hoạt động cơ bản
của nó.
Vậy, nếu chỉ nhìn thuần túy vào yếu tố kinh tế khơng thể giải thích

được các hiện tượng phức tạp trên. Ngồi những tiền đề, điều kiện kinh tế,
chính trị - xã hội, thể chế chính trị và đặc biệt là hệ thống chính trị cịn chịu
ảnh hưởng đáng kể của các yếu tố truyền thống của dân tộc.
Khi nói về nhà nước vô sản, Lênin khẳng định: “Tất cả các dân tộc đều
sẽ đi đến chủ nghĩa xã hội, đó là điều không tránh khỏi, nhưng tất cả các dân
tộc đều tiến tới chủ nghĩa xã hội không phải một cách hoàn toàn giống nhau;
mỗi dân tộc sẽ đưa đặc điểm của mình vào hình thức này hay hình thức khác
của chế độ dân chủ, vào loại này hay loại khác của chun chính vơ sản, vào
nhịp độ này hay nhịp độ khác nhau của việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với
các mặt khác nhau của đời sống xã hội (2).
Như vậy, để xem xét một thể chế chính trị phải xem xét một cách toàn
diện. Nếu tuyệt đối hóa một mặt nào đó đều là phiến diện, một chiều sẽ không
tránh khỏi sai lầm. Từ việc nghiên cứu sâu sắc quan hệ biện chứng giữa kinh
tế và chính trị đã từng diễn ra trong lịch sử, chủ nghĩa Mác - Lênin nêu lên hai
luận điểm nền tảng:
Một là, chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế;
Hai là, chính trị khơng thể khơng chiếm vị trí ưu tiên so với kinh tế.
Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế - điều đó có nghĩa là, so với
kinh tế, chính trị là sự phản ánh, là "tính thứ hai"; khơng có quan hệ chính trị
và quy luật chính trị độc lập tuyệt đối với các quan hệ và quy luật kinh tế. Tuy
nhiên, từ luận điểm trên cũng cần lưu ý rằng chính trị khơng phải là cái gương
soi đối với đời sống kinh tế, mà là sự biểu hiện tập trung của kinh tế. Nó phản
ánh mang tầm khái quát, làm bộc lộ cái bản chất nhất của đời sống kinh tế, cái
cơ bản nhất, cái mang tính chi phối đời sống kinh tế. Cho nên, khơng phải
kinh tế có kết cấu đa dạng như thế nào thì chính trị cũng có sự đa dạng tương
ứng như thế.
Khi nói đến kinh tế quyết định chính trị, chủ nghĩa Mác khơng bao giờ
xem kinh tế là yếu tố duy nhất. Bởi vì trong một xã hội cụ thể nhất định,
ngoài các yếu tố trong lĩnh vực vật chất cịn có các yếu tố trong lĩnh vực tinh
thần. Tất cả các yếu tố này đều nằm trong một chỉnh thể và thường xuyên tác

(2)

V.I.Lênin: Toàn tâp, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, t.30,tr.160


5

động qua lại với nhau tạo nên sự vận động và biến đổi của xã hội, và xét đến
cùng chịu sự tác động quyết định của lực lượng sản xuất.
2.2. Tính độc lập tương đối của chính trị so với kinh tế
Hồn tồn khơng phải kinh tế là ngun nhân duy nhất chủ động cịn
mọi thứ khác chỉ có tác dụng thụ động. Trái lại, các nhân tố khác có tác động
qua lại trên cơ sở tính tất yếu kinh tế. Xét toàn bộ, sự vận động kinh tế tiến
triển theo con đường của nó, nhưng nó cũng phải chịu những tác động ngược
lại của sự vận động chính trị được bản thân nó đặt ra và ban cho một tính độc
lập tương đối.
* Chính trị có quy luật vận động “riêng”. “Chính trị có lơgic khách
quan của nó, khơng phụ thuộc vào những dự tính của cá nhân này hay cá nhân
khác, của đảng này hay đảng khác” (3).. Mặt khác, chính trị là nguồn động lực
đối với phát triển kinh tế. “Bạo lực - nghĩa là quyền lực nhà nước - cũng là
một tiềm lực kinh tế (4).
* Chính trị tác động trở lại kinh tế. Chính trị là nhân tố lãnh đạo kinh
tế, vạch hướng đi cho kinh tế, tạo những điều kiện chính trị, xã hội cho kinh tế
phát triển. Do đó, “Chính trị khơng thể không giữ địa vị hàng đầu so với kinh
tế”, không thể không ưu tiên hơn, so với kinh tế, không có một lập trường
chính trị đúng thì một giai cấp nhất định nào đó khơng thể nào giữ được thống
trị của mình, và do đó, cũng khơng thể hồn thành được nhiệm vụ của mình
trong lĩnh vực sản xuất.
"Chính trị khơng thể khơng chiếm vị trí ưu tiên so với kinh tế" là luận
điểm nói lên vai trị năng động, tính độc lập tương đối, sự tác động trở lại của

chính trị đối với kinh tế. Quan điểm đó có tiền đề phương pháp luận xuất phát
của mình từ tính năng động của ý thức đối với vật chất, của ý thức xã hội đối
với tồn tại xã hội (khi xét chính trị từ phương diện "ý thức chính trị", bao gồm
cả quan điểm chính trị, đường lối chính trị, tâm lý và tình cảm chính trị, chủ
trương, chính sách...) của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng (khi xét
chính trị là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng).
Lịch sử chứng minh, khơng có nền kinh tế nào trong xã hội có giai cấp
mà lại khơng chịu sự chi phối điều tiết của chính trị, khơng trực tiếp thì cũng
gián tiếp, khơng biểu hiện bên ngồi thì cũng ẩn dấu ở bên trong. Điều khác
nhau chỉ là nền chính trị nào? nhà nước thuộc về ai?...Khi nói kinh tế có trước
chính trị, quyết định chính trị có nghĩa là phải tìm nguồn gốc ngun nhân của
chính trị trong kinh tế. Và khi nói chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế,
(3)
(4)

V.I.Lênin: Toàn tâp, T14.TB.M, 1901, tr.246; t16, tr.68
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Hà Nội, 1984, t.6, tr.739


6

chính trị ưu tiên so với kinh tế, chính trị khơng thể khơng chiếm vị trí hàng
đầu là nói đến tác động tích cực của chính trị khi giải quyết nhiệm vụ kinh tế.
Bởi vì, một giai cấp muốn giải quyết vấn đề kinh tế của mình phải nâng lên
quy mô giai cấp mà giải quyết chứ không phải là ở từng cá nhân và tất yếu
phải nắm quyền lực nhà nước để giải quyết lợi ích của giai cấp mình. Đây là
điều kiện, là tiền đề để giải quyết các vấn đề kinh tế. Ở đây chính trị đã được
"thiết chế hoá" thành hệ thống của các bộ máy mà biểu hiện tập trung là nhà
nước. Nó tác động trở lại kinh tế như là sức mạnh kinh tế. Trong thực tiễn, sự
tác động này có thể theo các hướng:

Một là, cùng chiều với sự phát triển kinh tế, khi đó, chính trị có vai trị
tích cực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Hai là, ngược chiều với sự phát triển kinh tế, khi đó, chính trị là một
vật cản, kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội.
Ba là, chính trị có khả năng hạn chế phần nào phạm vi tác động những
khuynh hướng phát triển này, hoặc có thể đẩy mạnh tác dụng của những
khuynh hướng phát triển khác trong một chế độ kinh tế nhất định.
Ngày nay, chúng ta xây dựng nền kinh tế thị trường nhằm giải phóng và
phát huy các năng lực sản xuất, tăng nhanh năng suất lao động, tạo ra nhiều của
cải vật chất cho xã hội. Cho nên sự tác động có tính định hướng của Nhà nước,
của chính trị cần thiết phải chú ý đúng mức đến vai trị của chính trị đối với nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
Trong những giai đoạn lịch sử nhất định, chính trị là nhân tố quyết
định sự phát triển của các giai đoạn. Đó là những thời kỳ đặc biệt, thời kỳ
chiến tranh, cách mạng. Trọng tâm của giai đoạn này là vấn đề chính trị: vấn
đề giành, giữ chính quyền là hàng đầu. Kinh tế lúc này chỉ là nhân tố phục vụ
mục tiêu chính trị. Luận điểm quan trọng này đặt ra vấn đề khi chuyển đổi
giai đoạn từ chiến tranh sang thời kỳ hịa bình xây dựng, phải thay đổi nội
dung giữa chính trị và kinh tế. Ngày nay chúng ta xây dựng nền kinh tế thị
trường, ngay từ buổi đầu đã có sự tác động định hướng của Nhà nước, của
chính trị. Bởi vì:
Một là, “Nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở nước ta… vừa vận
dụng theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa được dẫn dắt, chi phối
bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”.
Hai là, Chính trị hướng kinh tế góp phần duy trì và củng cố quyền lực
chính trị và kinh tế của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng.


7


Ba là, Mối liên hệ giữa nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và sự
định hướng xã hội chủ nghĩa mang tính nội tại khách quan tất yếu của quá
trình phát triển đất nước ta hiện nay.
CHƯƠNG 2: SỰ VẬN DỤNG QUAN HỆ GIỮA KINH TẾ VÀ
CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI, THỰC TRẠNG TẠI
ĐỊA PHƯƠNG HIỆN NAY
1. Sự vận dụng quan hệ giữa kinh tế và chính trị ở Việt Nam thời kỳ
đổi mới
1.1 Đổi mới kinh tế ở Việt Nam
Đổi mới kinh tế được hiểu là quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế
tập trung bao cấp, căn bản dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và tập thể sang
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là bước chuyển từ nền kinh tế cơ bản là
khép kín sang nền kinh tế "mở" đối với khu vực và thế giới, kết hợp tăng
trưởng kinh tế với công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái và từng
bước đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Đại hội VI của Đảng ta đã xác định, nền kinh tế Việt Nam bắt đầu
chuyển sang vận hành theo cơ chế mới từ năm 1986.
Đến Đại hội IX (4-2001) đã khẳng định, mơ hình kinh tế tổng quát là:
“nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”1
Đại hội XIII của Đảng bổ sung nhận thức về nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,
trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác
không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan
trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi được khuyến khích phát triển phù hợp
với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội2.
Đổi mới kinh tế còn là nhằm hội nhập kinh tế thế giới, Đảng Cộng sản
Việt Nam chủ trương đa phương hóa, đâ dạng hóa các quan hệ quốc tế. Mở

cửa nền kinh tế với khu vực và thế giới để giải phóng sức sản xuất xã hội.
Tại Đại hội lần thứ VII (năm 1991), Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra
phương châm “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng
11

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001, tr. 86.
22
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia - Sự thật,
Hà Nội, 2021, tr. 128-129.


8

quốc tế, phấn đấu vì hồ bình, độc lập và phát triển”, đánh dấu cột mốc quan
trọng khởi đầu của Việt Nam tham gia hội nhập kinh tế quốc tế trong thời kỳ
mới.
Đến nay, với sự đan xen lợi ích rộng lớn chưa từng có với 27 đối tác
chiến lược và tồn diện (trong đó có tất cả các nước P5 như Mỹ, Nga, Trung
Quốc, Pháp, Anh) cùng 59 đối tác FTA và trên 70 nước công nhận Việt Nam
là nền kinh tế thị trường đã góp phần khơng ngừng được vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế, góp phần tích cực vào sự nghiệp hịa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
1.2 Đổi mới chính trị ở Việt Nam
Đảng ta xác định: đổi mới chính trị khơng phải thay đổi định hướng xã
hội chủ nghĩa; mà thực chất đổi mới chính trị là trở lại nhận thức và hành
động đúng quy luật vận động của chính trị một cách tổng thể, trước hết và
trực tiếp trong việc giải quyết vấn đề trung tâm là lợi ích và chung quanh lợi
ích một cách tổng hòa, cụ thể từng cá nhân, giai cấp, tầng lớp, v.v.. tới quốc
gia, dân tộc và với các nước trên tầm quốc tế mang tính thống nhất, chỉnh thể

và đa dạng.
Từ Đại hội VII, Đảng ta chủ trương tiến hành đổi mới chính trị mà thực
chất là tập trung vào đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống
chính trị.
Cơng việc đầu tiên trong đổi mới hệ thống chính trị là xác định rõ vị trí,
chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức và mối liên hệ lẫn nhau của các tổ chức
đó trong một thiết chế chung thống nhất, khắc phục tình trạng trùng lắp, lấn
sân hoặc đùn đẩy lẫn nhau, không thực hiện đủ và đúng trách nhiệm của
mình.
Trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị trong những năm đầu đổi mới
là tập trung đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các bộ phận cấu
thành hệ thống. Khắc phục tình trạng bộ máy cồng kềnh, chồng chéo, nhiều
tầng nấc trung gian không cần thiết gây trở ngại cho sản xuất và quản lý xã
hội.
Nhiệm vụ hiện nay của đổi mới chính trị là tập trung giải quyết những vấn
đề: cải cách hành chính; thực hiện quy chế dân chủ cơ sở; đổi mới công tác
cán bộ; làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên…
Đại hội Đảng lần thứ IX khẳng định: “Kiên trì và quyết liệt thực hiện đổi
mới. Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích
hợp, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp


9

quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với
tăng cường kỷ luật, kỷ cương để thúc đẩy đổi mới toàn diện và phát huy sức
mạnh tổng hợp của tồn dân tộc vì mục tiêu xây dựng nước Việt nam xã hội
chủ nghĩa dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
Văn kiện Đại hội XIII tiếp tục chủ trương đó đã khẳng định: “Tiếp tục

đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị tinh gọn,
hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đồng bộ với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội,
con người…, đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của
Đảng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa”
1.3. Mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt
Nam
Thời kỳ trước đổi mới (1986), Việt Nam thực hiện mơ hình kinh tế kế
hoạch hóa, tập trung, bao cấp, chính trị can thiệp quá sâu vào kinh tế bằng
những mệnh lệnh hành chính chủ quan. Điều này dẫn đến việc vi phạm các quy
luật kinh tế khách quan, cản trở kinh tế phát triển; kinh tế rơi vào trì trệ, khủng
hoảng.
Từ khi đổi mới (từ 1986) đến nay, Đảng chủ trương đổi mới toàn diện và
triệt để trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt, đổi mới cả kinh tế
lẫn đổi mới chính trị. Đảng chủ trương kết hợp ngay từ đầu đổi mới kinh tế với
đổi mới chính trị. Thời kỳ đầu lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, từng bước đổi
mới chính trị.
Tại Đại hội XI, XII, nội dung đổi mới đồng bộ giữa kinh tế và chính trị
là một trong các mối quan hệ cơ bản cần phải giải quyết. Văn kiện Đại hội
XIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “xây dựng đồng bộ thể chế phát triển, bảo
đảm hài hoà giữa kiên định và đổi mới, kế thừa và phát triển; giữa đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị, văn hóa, xã hội”3.
Từ thực tiễn đổi mới kinh tế và chính trị chúng ta cần tuân thủ một số
nguyên tắc sau:
Một là, cần nhận thức đúng vấn đề có tính quy luật là kinh tế xét đến
cùng quyết định chính trị, mọi sự biến đổi của chính trị đều là sự phản ánh
của biến đổi kinh tế, do kinh tế quyết định. Vì vậy, phải từ đổi mới kinh tế mà
đổi mới chính trị và từ thực tiễn xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa để xem xét đổi mới chính trị cho phù hợp. Đồng thời, chính
trị có vai trị định hướng, dẫn dắt đối với kinh tế nên phải đổi mới chính trị.

3

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội, 2021, tr. 97.


10

Tuy nhiên, chính trị là lĩnh vực nhạy cảm và phức tạp nên đổi mới chính trị
phải thận trọng, có bước đi phù hợp, tiến hành từng bước.
Hai là, đặt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong
xu thế phát triển của thời đại và với các mối quan hệ khác của công cuộc đổi
mới. Theo đó, ở nước ta hiện nay giải quyết quan hệ giữa đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị theo hướng thiết lập và hoàn thiện thể chế kinh tế - chính trị
- xã hội thống nhất, hài hòa; xây dựng kinh tế thị trường hiện đại - chính trị
dân chủ - xã hội cơng bằng, văn minh.
Ba là, cần nắm vững những quan điểm có tính chỉ đạo, những yêu cầu về
sự thay đổi tương thích cần có giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị để có
sự lựa chọn và vận dụng các phương pháp khoa học trong việc giải quyết mối
quan hệ giữa chúng.
2. Thực trạng trên địa bàn tỉnh Tây Ninh hiện nay
Tây Ninh là tỉnh nằm ở miền Đông Nam bộ, phía Đơng giáp các tỉnh
Bình Dương và Bình Phước, phía Nam giáp Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh
Long An, phía Tây và phía Bắc giáp Vương quốc Campuchia với đường biên
giới dài 240km, với 02 cửa khẩu quốc tế là Mộc Bài và Xa Mát cùng 4 cửa
khẩu chính, 10 cửa khẩu phụ. Tỉnh có 02 trục lộ giao thông quan trọng là
quốc lộ 22 và quốc lộ 22B. Tây Ninh có 08 huyện và 01 thành phố thuộc tỉnh,
tổng diện tích tự nhiên 404.125,3 ha. Nằm ở vị trí tiếp giáp với các địa
phương có nền kinh tế phát triển nhanh, năng động, nhất là Thành phố Hồ Chí
Minh - đầu tàu kinh tế phía Nam và tỉnh Bình Dương, Tây Ninh được xem là

một tỉnh giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển của vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam. Bên cạnh đó, Tây Ninh là cửa ngõ giao thông đường bộ quan
trọng sang Campuchia và các nước ASEAN. Do vậy, đây không chỉ là một
đầu mối giao thương, trung chuyển hàng hoá, dịch vụ, du lịch, thương mại
giữa các nước trong tiểu vùng sông Mê Kơng, mà cịn là một vị trí chiến lược
về quốc phịng an ninh.
Với những lợi thế về vị trí địa lý nêu trên. Năm 2020, mặc dù gặp nhiều
khó khăn, thách thức do tác động của đại dịch COVID-19, nhưng với sự nỗ
lực, quyết tâm cao của Đảng bộ, chính quyền, đồn thể và Nhân dân trong
tỉnh; sự phối hợp tốt với các tỉnh, thành trong Vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam, các tập đồn kinh tế; sự linh hoạt, nhạy bén trong quản lý, điều hành
của các cấp chính quyền, tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Tây Ninh đã có những
chuyển biến tích cực, đạt được kết quả khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực
với nhiều dấu ấn nổi bật.


11

Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) tăng 3,9% so với cùng kỳ, tuy
không đạt Nghị quyết đề ra (tăng 8% trở lên) nhưng là kết quả cao nhất mà
tỉnh có thể đạt được và cao hơn so với mức tăng trưởng bình quân chung của
cả nước; tổng thu ngân sách nhà nước ước thực hiện 10.050 tỷ đồng, đạt
100,5% dự toán, tăng 4,6% so với cùng kỳ; vốn đầu tư phát triển toàn xã hội
so với GRDP đạt 40,1%, vượt chỉ tiêu Nghị quyết đề ra. Giải ngân vốn đầu tư
cơng có chuyển biến tích cực, uớc đạt 98,63% kế hoạch. Tỷ lệ hộ nghèo ước
giảm 0,7%, Tây Ninh khơng cịn hộ nghèo chuẩn Trung ương, là 1 trong 5
tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo thấp nhất so với cả nước.
Cùng với đó, hạ tầng - nhất là hạ tầng giao thông - được quan tâm đầu tư
đồng bộ, kết nối nội tỉnh phục vụ phát triển nông nghiệp, công nghiệp, đô thị
và du lịch. Đặc biệt, Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý cho Tây Ninh triển khai

dự án đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Mộc Bài, dự án đường cao tốc
Gò Dầu - Thành phố Tây Ninh - Xa Mát; quy hoạch trung tâm Logistics,
đường thuỷ nội địa, cảng cạn ICD... trên địa bàn tỉnh. Các dự án này khi triển
khai thực hiện sẽ góp phần tháo gỡ nút thắt về hạ tầng giao thông kiềm chế sự
phát triển của tỉnh Tây Ninh trong thời gian qua cũng như tạo động lực thúc
đẩy phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh và cả vùng Đông Nam Bộ.
Công tác phát triển đô thị trên địa bàn tỉnh, trong đó thành phố Tây Ninh
cơ bản đạt tiêu chí đơ thị loại II; huyện Trảng Bàng và huyện Hịa Thành được
cơng nhận là đơ thị loại IV và trở thành thị xã; thị trấn thuộc các huyện cịn lại
đạt tiêu chí đơ thị loại V, đưa tỷ lệ đơ thị hóa của Tây Ninh đạt 41,8%, tăng
gấp 02 lần so với giai đoạn 2010-2015. Đây là dấu mốc quan trọng trong phát
triển đô thị của tỉnh.
Đồng thời, Tây Ninh cịn tổ chức thành cơng Hội nghị liên kết phát triển
du lịch vùng Đơng Nam Bộ, góp phần quảng bá tiềm năng, cơ hội đầu tư và
mở rộng thị trường du lịch của tỉnh. Trước đó, Tây Ninh đã mời gọi thành
cơng Tập đồn Sun Group đầu tư vào Khu du lịch quốc gia Núi Bà Đen, xây
dựng tuyến cáp treo lên đỉnh núi được Guinness World Records công nhận kỷ
lục “Nhà ga cáp treo lớn nhất thế giới”; Tập đoàn Vingroup đầu tư Trung tâm
thương mại Shophouse và khách sạn 5 sao Vinpearl. Vườn Quốc gia Lò Gò Xa Mát được vinh danh là Di sản ASEAN... Đây là những “cú hích” lớn, tạo
động lực mạnh mẽ để hiện thực hoá mục tiêu đến năm 2030 Du lịch trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh; phối hợp tổ chức thành công Hội thảo “Khu
kinh tế Mộc Bài - Lựa chọn mơ hình và định hướng phát triển”. Đây là nỗ lực
lớn của tỉnh để nghiên cứu tìm ra động lực mới phát triển Khu Kinh tế Cửa
khẩu Mộc Bài tương xứng với tiềm năng, lợi thế, bắt kịp xu hướng phát triển


12

công nghiệp, thương mại, đầu tư trong thời kỳ nước ta mở rộng hội nhập quốc
tế sâu rộng, đưa nơi đây trở thành cực tăng trưởng cao của tỉnh trong tương

lai.
Trong năm 2020, tỉnh Tây Ninh đã đưa vào hoạt động Trung tâm giám
sát - điều hành đô thị thông minh, giúp hỗ trợ tích cực cơng tác quản lý, lãnh
đạo, điều hành các hoạt động của đô thị thông minh, cung cấp các công cụ hỗ
trợ người dân một cách tập trung, nhanh chóng, hiệu quả, góp phần vào việc
giảm ùn tắc giao thông, tai nạn giao thông, giảm thiệt hại khi có sự cố cháy,
giữ gìn an ninh trật tự xã hội. Đây là sự kiện đánh dấu bước phát triển mới
trong q trình xây dựng chính quyền điện tử, chuyển đổi số của Tây Ninh.
Đồng thời, đưa vào hoạt động hai bệnh viện đa khoa tư nhân (giai đoạn
1) với quy mô 600 giường bệnh (Bệnh viện đa khoa tư nhân Hồng Hưng,
Bệnh viện đa khoa tư nhân Xuyên Á), góp phần quan trọng vào việc nâng cao
năng lực ngành Y tế tỉnh nhà và cung cấp thêm các dịch vụ tiện ích chất lượng
cao trong chăm sóc sức khỏe Nhân dân.
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ
Qua nghiên cứu triết học Mác-Lênin và sự vận dụng của Đảng cũng như
thực trạng của tỉnh Tây Ninh hiện nay. Bản thân đề xuất một số giải pháp,
kiến nghị như sau:
Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây
dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực,
hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước.
Đẩy mạnh cơng tác phịng chống quan liêu, tham nhũng để tạo được
niềm tin cho quần chúng nhân dân nhất là tham nhũng vặt của một bộ phận
cán bộ công chức cấp sơ sở gây ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của nhân
dân.
Cải cách thể chế nhất là hệ thống pháp luật để việc áp dụng pháp luật
mang tính đồng bộ. Tạo sự sang tạo cho người áp dụng pháp luật tránh việc
áp dụng cứng nhắc, máy móc, rập khn.
Cần có cơ chế, chính sách đãi ngộ tốt hơn nữa để giữ chân những nhân
tài của đất nước, tránh việc nhân tài của nước nhà phục vụ cho các tập đồn,
cơng ty lớn của nước ngồi.

Phát huy tốt hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức
chính trị xã hội để người dân có thể thơng qua các tổ chức này nói lên tâm tư,
nguyện vọng của mình.


13

Nâng cao vai trò của người đứng đầu cấp Uỷ nhất là trong công tác tiếp
công dân bằng các cuộc tổ chức đối thoại trực tiếp hàng quí, hàng tháng để
lắng nghe ý kiến tâm tư nguyện vọng của người dân để tránh tinh trạng bức
xúc, khiếu kiện kéo của người dân.

PHẦN KẾT LUẬN
Trong quá trình nghiên cứu vấn đề đổi mới đồng bộ giữa kinh tế và
chính trị ở nước ta hiện nay cho chúng ta thấy được việc đổi mới là thật sự rất
cần thiết
Hiện nay, công cuộc đổi mới về kinh tế và đổi mới về chính trị nói chung
đang thực sự bước vào một giai đoạn mới, địi hỏi phải có những đột phá mới.
Mặc dầu những tư tưởng, quan điểm được các Đại hội tiếp theo của Đảng nêu
ra có tính chất bước ngoặt, phá vỡ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, xóa bỏ bao
cấp, bước đầu chấp nhận kinh tế thị trường và sở hữu cá thể, nhưng tính chất
đồng bộ, tồn diện và triệt để của những quan điểm mới vẫn còn bị hạn chế.
Đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị hiện nay sẽ khơng cịn đầy đủ và triệt để,
sẽ khơng đồng bộ và tồn diện, nếu chỉ dừng lại ở việc đa dạng hố các hình
thức sở hữu, các khu vực kinh tế, xoá bỏ bao cấp và thay thế cơ chế kế hoạch


14

hoá tập trung, mệnh lệnh, bao cấp bằng cơ chế kinh tế thị trường chưa phát

triển đầy đủ và đồng bộ. Thực tiễn đời sống xã hội đang đòi hỏi phải đổi mới
mạnh mẽ hơn nữa trong các lĩnh vực, như phân phối, quản lý và điều hành
nền sản xuất, xã hội. Đòi hỏi này được thể hiện bằng hàng loạt những vấn đề
đang được đặt ra một cách cấp thiết trên bình diện xã hội: cải cách chế độ tiền
lương, thực hiện công bằng xã hội, đổi mới phương thức quản lý đời sống
kinh tế, xã hội.
Như vậy, với việc kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi
mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới
chính trị, chúng ta vừa thúc đẩy được nền kinh tế của đất nước phát triển theo
quy luật khách quan, vừa tạo nên sự năng động, tích cực trong tư duy, tư
tưởng và đời sống tinh thần nói chung của xã hội, làm cho con người được
thực sự tự do và có điều kiện phát huy tính chủ động, sáng tạo của mình. Hai
q trình đó có quan hệ biện chứng với nhau, tạo nên sức mạnh giúp chúng ta
có cơ sở thực hiện thành cơng sự nghiệp đổi mới tồn diện đất nước.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học Mác - Lênin, NXB Lý luận chính trị.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, NXB Chính trị Quốc gia H.1996
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ
IX, NXB Chính trị Quốc gia H.2004
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ
XI, NXB Chính trị Quốc gia H.2011
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ
XII, NXB Chính trị Quốc gia H.2016
6. Website Tạp chí Cộng sản: www.tapchicongsan.org.vn
7. C.Mác và Ph.Ăngghen, Tồn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1995, t.3.



15



×