TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
MƠN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH CƠ SỞ KHÁCH QUAN HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH VÀ CHỈ RA TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN GIỮ VAI TRÒ QUYẾT
ĐỊNH TRONG VIỆC HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH.
Giảng viên: Vũ Thị Thu Hà
Mã LHP: 2199HCMI0111
Nhóm thực hiện: Nhóm 3
HÀ NỘI – 2021
1
2
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1.
Lý do chọn đề tài:
Việt Nam đã được độc lập tự do và chúng ta đang sống trong kỷ ngun tồn
cầu hóa với sự phát triển mạnh mẽ như vũ bão của nền kinh tế tri thức cùng cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ. Từ đâu mà chúng ta có được điều kiện phát
triển tuyệt vời đó? Chính là nhờ cơng lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh
tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, Người ta vạch ra con đường cứu nước đúng đắn,
không chỉ khai thông bế tắc trong đường lối giải phóng dân tộc mà cịn giải quyết
đúng đắn, sáng tạo và lãnh đạo thực hiện thắng lợi các vấn đề trọng yếu nhất của
cách mạng nước ta. Chính đường lối cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội của Người đã tạo nên sức mạnh tổng hợp và phát huy tác dụng, đưa tới
những thắng lợi rực rỡ của cách mạng nước ta.
Vận dụng triệt để Tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và nhân dân ta đã hoàn thành
sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ. Tư tưởng Hồ Chí Minh là di sản tinh thần vô
giá sẽ mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng, cho công cuộc xây dựng và
phát triển đất nước của Đảng ta, của nhân dân ta. Sau 35 năm đổi mới, nước ta đã
chuyển sang thời kỳ phát triển mới, thế và lực lượng nâng cao. Tuy nhiên, những
thành tựu đạt được vẫn chưa tương xứng với tiềm năng vốn có. Vì vậy, tồn Đảng,
tồn dân cần tiếp tục nghiên cứu và quán triệt sâu sắc, vận dụng một cách đúng đắn
và sáng tạo Tư tưởng Hồ Chí Minh, ln kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, nắm vững quy luật độc lập dân tộc gắn liền với dựng nước và giữ
nước, thực hiện chính sách đối ngoại khơn khéo, hịa bình, tự chủ, hợp tác và phát
triển, góp phần hình thành một trật tự thế giới mới công bằng và bình đẳng.
Để có thể vận dụng đúng đắn Tư tưởng Hồ Chí Minh vào cơng cuộc đổi mới
và phát triển này, chúng ta cần phải hiểu rõ về cơ sở khách quan hình thành Tư
tưởng Hồ Chí Minh, cũng như cần xác định được đâu là tiền đề lý luận giữ vai trò
3
quyết định trong việc hình thành, phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh tránh việc hiểu
sai, làm sai, thậm chí là biến tấu tư tưởng này.
2.
Mục đích:
Giúp mọi người nắm vững và nhận thức rõ cơ sở khách quan và giá trị cốt lõi
hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó vận dụng phù hợp vào từng giai đoạn phát
triển của đất nước; hoàn thiện phẩm chất, đạo đức con người và nâng cao chất
lượng cuộc sống của toàn dân tộc.
3.
Đối tượng nghiên cứu:
Cơ sở khách quan hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tiền đề lý luận giữ vai trị quyết định trong việc hình thành, phát triển Tư
tưởng Hồ Chí Minh.
4.
Phương pháp nghiên cứu:
Kết hợp phương pháp logic với so sánh, tổng hợp, phân tích, chứng minh...
5.
Phạm vi nghiên cứu:
Những tài liệu lịch sử cụ thể cùng hệ thống tư liệu về tư tưởng Hồ Chí Minh.
6.
Kết cấu đề tài:
Đề tài bao gồm phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tham khảo và nội dung
được trình bày theo 3 phần:
I.
II.
III.
Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
Cơ sở khách quan hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
Tiền đề lý luận giữ vai trị quyết định trong việc hình
thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh – Chủ nghĩa Mác- Lênin
4
B. PHẦN NỘI DUNG
I. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 2011)
nêu khái niệm “Tư tưởng Hồ Chí Minh” như sau:
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và
phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân
loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi
soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”.
Khái niệm trên đây chỉ rõ nội hàm cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh, cơ sở
hình thành cũng như ý nghĩa của tư tưởng đó. Cụ thể:
Một là, khái niệm này đã nêu rõ bản chất khoa học và cách mạng cũng như nội
dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là hệ thống quan điểm tồn diện và sâu
sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ đó phản ánh những vấn đề
có tính quy luật của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan
điểm tồn diện và sâu sắc về mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hịa bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng
thế giới. Để đạt mục tiêu đó, con đường phát triển của dân tộc Việt Nam là độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu và con đường này đúng theo lý luận
Mác-Lênin; khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quản lý
của Nhà nước cách mạng; xác định lực lượng cách mạng là toàn thể nhân dân Việt
Nam yêu nước, xây dựng con người Việt Nam có năng lực và phẩm chất đạo đức
cách mạng; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại trên cơ sở quan hệ
5
quốc tế hịa bình, hợp tác, hữu nghị cùng phát triển; với phương pháp cách mạng phù
hợp...
Hai là, nêu lên cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa Mác Lênin – giá trị cơ bản nhất trong quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng đó;
đồng thời tư tưởng Hồ Chí Minh cịn bắt nguồn từ việc Hồ Chí Minh tiếp thu các giá
trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại.
Ba là, khái niệm đó đã nêu lên ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh, khẳng định
tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân
tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Cùng với chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một bộ phận cấu thành làm nên nền tảng
tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam.
II. Cơ sở khách quan hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
1. Cơ sở thực tiễn
1.1.
Thực tiễn Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX
Từ năm 1858, để quốc Pháp bắt đầu tiến hành xâm lược Việt Nam. Triều đình
nhà Nguyễn lần lượt ký kết các hiệp ước đầu hàng, từng bước trở thành tay sai của
quân thực dân Pháp.
Từ năm 1858 đến cuối thế kỷ XIX, các phong trào đấu tranh yêu nước chống
Pháp xâm lược liên tục nổ ra. Ở miền Nam, có các cuộc khởi nghĩa của Trương
Định,Nguyễn Trung Trực. Ở miền Trung, có các cuộc khởi nghĩa của Trần Tấn,
Đặng Như Mai, của Phan Đình Phùng. Ở miền Bắc, có các cuộc khởi nghĩa của
Nguyễn Thiện Thuật, Phạm Bành và Đinh Cơng Tráng, Nguyễn Quang Bích, Hồng
Hoa Thám, v.v...Các cuộc khởi nghĩa, trong đó có những cuộc dưới ngọn cờ "Cần
Vương" tức giúp vua cứu nước, tuy đều rất anh dũng, nhưng cuối cùng đều thất bại.
6
Sau khi đã hồn thành căn bản việc bình định Việt Nam về mặt quân sự, thực
dân Pháp bắt tay vào khai thác thuộc địa - thực chất là tăng cường bóc lột, vơ vét đất
nước ta. Vì vậy, đời sống nhân dân lao động đã khó khăn, này càng thêm khốn đốn.
Hậu quả là Việt Nam từ một nước phong kiến độc lập trở thành nước thuộc địa nửa
phong kiến, dẫn tới có sự biến đổi về cơ cấu giai cấp, tầng lớp trong xã hội.
Thực dân Pháp vẫn duy trì nền kinh tế nơng nghiệp lạc hậu với khoảng 95%
dân số là nông dân. Giai cấp địa chủ được bổ sung, củng cố, tăng cường thêm các
điền chủ người Pháp và nước ngoài. Bên cạnh tầng lớp thợ thủ công, tiểu thương,
trong xã hội Việt Nam xuất hiện những giai tầng mới. Đó là giai cấp cơng nhân, giai
cấp tư sản và tầng lớp tiểu tư sảnở thành thị. Từ đó, liền với mâu thuẫn cơ bản trong
xã hội phong kiến là nông dân với địa chủ phong kiến, xuất hiện các mâu thuẫn mới:
Mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân Việt Nam với giai cấp tư sản, mâu thuẫn giữa
toàn thể nhân dân Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc Pháp.
Cùng với những biến đổi trên, đến đầu thế kỷ XX, trước ảnh hưởng của các
cuộc vận động cải cách, của cách mạng dân chủ tư sản ở Trung Quốc và tấm gương
Duy Tân Nhật Bản, ở Việt Nam xuất hiện các phong trào yêu nước theo khuynh
hướng dân chủ tư sản với sự dẫn dắt của các sĩ phu yêu nước có tinh thần cải cách:
Phong trào Đông Du do Phan Bội Châu khởi xướng (1905-1909); Phong trào Duy
Tân do Phan Châu Trinh phát động (1906-1908); Phong trào Đông Kinh Nghĩa
Thụcdo Lương Văn Can, Nguyễn Quyền và một số nhân sĩ khác phát động (3-1907
– 11- 1907); Phong trào chống đi phu, chống sưu thuế ở Trung Kỳ năm 1908.
Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản nói trên đều thất
bại. Nguyên nhân sâu xa là giai cấp tư sản Việt Nam còn non yếu. Nguyên nhân trực
tiếp là các tổ chức và người lãnh đạo của các phong trào đó chưa có đường lối và
phương pháp cách mạng đúng đắn. Tinh thần u nước vẫn sục sơi trong lịng nhân
7
dân. Song, cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước diễn ra sâu sắc. Xuất hiện câu
hỏi từ thực tiễn đặt ra là: Cứu nước bằng con đường nào để có thể đi đến thắng lợi?
Trong bối cảnh đó, sự ra đời giai cấp mới là giai cấp công nhân và phong trào
đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam đã làm cho cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc ở Việt Nam xuất hiện dấu hiệu mới của một thời đại mới sắp ra đời.
Trong bối cảnh đó, sự ra đời giai cấp mới là giai cấp công nhân và phong trào
đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam đã làm cho cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc ở Việt Nam xuất hiệndấu hiệu mới của một thời đại mới sắp ra đời. Cuối thế
kỷ XIX, ở Việt Nam đã có cơng nhân, nhưng lúc đó mới chỉ là một lực lượng ít ỏi,
khơng ổn định. Đầu thế kỷ XX, công nhân phát triển hơn và trở thành một giai cấp
ngay trước Chiến tranh thế giới thứ nhất 1914-1918.
Cơng nhân Việt Nam chịu ba tầng áp bức bóc lột: thực dân, tư bản, phong kiến.
Họ sớm vùng dậy đấu tranh chống lại giới chủ. Từ hình thức đấu tranh thô sơ như
đốt lán trại, bỏ trốn tập thể, họ đã nhanh chóng tiến tới đình cơng, bãi cơng. “Chỉ có
giai cấp cơng nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, ln ln gan góc đương đầu
với bọn đế quốc thực dân"1 . Phong trào công nhân và các phong trào yêu nước Việt
Nam đầu thế kỷ XX là điều kiện thuận lợi để chủ nghĩa Mác-Lênin xâm nhập, truyền
bá vào đất nước ta. Chính Hồ Chí Minh là một người đã dày công truyền bá chủ
nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam,
chuẩn bị về lý luận chính trị, tư tưởng và tổ chức, sáng lập Đảng Cộng sản Việt
Nam, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cách mạng Việt Nam, đánh dấu bước
hình thành cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam. Sau đó, chính
thực tiễn Đảng lãnh đạo cách mạng Tháng Tám thành công, lãnh đạo cuộc kháng
chiến chống Pháp thắng lợi; lãnh đạo vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa kháng
8
chiến chống Mỹ, cứu nước là nhân tố góp phần bổ sung, phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh trên tất cả các phương diện.
1.2.
Thực tiễn thế giới cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX
Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản trên thế giới đã phát
triển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Một số nước đế
quốc Anh, Pháp, Mỹ, Tây Ban Nha, Ý, Đức, Nga, Nhật Bản, Bỉ, Bồ Đào Nha, Hà
Lan, v.v… đã chi phối tồn bộ tình hình thế giới. Phần lớn các nước châu Á, châu
Phi và khu vực Mỹ Latinh đã trở thành thuộc địa và phụ thuộc của các nước đế quốc.
Tình hình đó đã làm sâu sắc thêm mâu thuẫn vốn có trong lịng chủ nghĩa tư
bản là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản ở các nước tư bản; mâu
thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau; mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và phụ
thuộc với chủ nghĩa đế quốc. Sang đầu thế kỷ XX, những mâu thuẫn này ngày càng
phát triển gay gắt.Giành độc lập cho các dân tộc thuộc địa khơng chỉ là địi hỏi của
riêng họ, mà cịn là mong muốn chung của giai cấp vô sản quốc tế; tình hình đó đã
thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới phát triển.
Cách mạng Tháng Mười Nga thành công là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa
Mác - Lênin ở một nước lớn rộng một phần sáu thế giới. Cách mạng Tháng Mười
Nga đã đánh đổ giai cấp tư sản và giai cấp địa chủ phong kiến, lập nên một xã hội
mới – xã hội xã hội chủ nghĩa. Cách mạng Tháng Mười Nga mở ra một thời đại mới
trong lịch sử loài người – thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
trên phạm vi toàn thế giới, mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc bị áp bức
trên thế giới
Ngày 2-3-1919, Quốc tế Cộng sản ra đời ở Mátxcơva trở thành Bộ tham mưu,
lãnh đạo phong trào cách mạng thế giới. Dưới sự lãnh đạo của Lênin, Quốc tế Cộng
9
sản đẩy mạnh việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và kinh nghiệm Cách mạng
Tháng Mười Nga ra khắp thế giới, thúc đẩy sự ra đời và hoạt động ngày càng mạnh
mẽ của các đảng cộng sản ở nhiều nước. Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi, sự
ra đời của nhà nước Xôviết, Quốc tế Cộng sản và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Liên Xô cùng với sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản, cơng nhân và
phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới ảnh hưởng sâu sắc tới Hồ Chí Minh trên
hành trình đi ra thế giới tìm mục tiêu và con đường cứu nước.
2. Cơ sở lý luận
2.1.
Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
Chủ nghĩa yêu nước là giá trị xuyên suốt trong những truyền thống tốt đẹp của
dân tộc Việt Nam. Đó là động lực, sức mạnh giúp cho dân tộc Việt Nam tồn tại vượt
qua mọi khó khăn trong dựng nước và giữ nước mà phát triển. Chính chủ nghĩa yêu
nước là nền tảng tư tưởng, điểm xuất phát và động lực thúc đẩy Hồ Chí Minh ra đi
tìm đường cứu nước, và tìm thấy ở chủ nghĩa Mác-Lênin con đường cứu nước, cứu
dân.
Hồ Chí Minh đã chú ý kế thừa, phát triển tinh thần đấu tranh anh dũng, bất
khuất vì độc lập, tự do của Tổ quốc, nhằm bảo vệ chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn
lãnh thổ của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Trong Tun ngơn Độc lập, Hồ Chí
Minh đã trịnh trọng tuyên bố với thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và
độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam
quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự
do và độc lập ấy”. Khơng có gì q hơn độc lập tự do - chân lý lớn của thời đại được
Hồ Chí Minh khẳng định, đồng thời cũng chính là một điểm cốt lõi trong tư tưởng
Hồ Chí Minh.
10
Trong lãnh đạo nhân dân Việt Nam xây dựng và bảo vệ đất nước, Hồ Chí Minh
hết sức chú trọng kế thừa, phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Việt Nam là yêu nước gắn liền với u dân, có tinh thần đồn kết, dân chủ, nhân ái,
khoan dung trong cộng đồng và hòa hiếu với các dân tộc lân bang; tinh thần cần cù,
dũng cảm, sáng tạo, lạc quan, vì nghĩa, thương người của dân tộc Việt Nam. Trong
tư tưởng Hồ Chí Minh, con người là vốn quý nhất, là nhân tố quyết định thành công
của cách mạng; dân là gốc của nước; nước lấy dân làm gốc; gốc có vững cây mới
bền; xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân; đoàn kết dân tộc gắn liền với đoàn kết quốc
tế là một nguyên tắc chiến lược quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Trong truyền thống dân tộc Việt Nam thường trực một niềm tự hào về lịch sử,
trân trọng nền văn hóa, ngôn ngữ, phong tục tập quán và những giá trị tốt đẹp khác
của dân tộc. Đó chính là một cơ sở hình thành nên tư tưởng, phẩm chất của nhà văn
hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh với chủ trương văn hóa là mục tiêu, động lực của cách
mạng; cần giữ gìn cốt cách văn hóa dân tộc đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại, xây dựng nền văn hố mới của Việt Nam. Chính Hồ Chí Minh là một biểu
tượng cao đẹp của sự tích hợp tinh hoa văn hóa phương Đơng và phương Tây.
2.2.
Tinh hoa văn hố nhân loại
2.2.1 Tinh hoa văn hóa phương Đơng
Tinh hoa văn hố, tư tưởng phương Đơng kết tinh trong ba học thuyết lớn : Nho
giáo, Phật giáo, Lão giáo. Đó là những học thuyết có ảnh hưởng sâu rộng ở phương
Đơng, và ở Việt Nam trước đây.
Về Nho giáo, Hồ Chí Minh phân tích: "Tuy Khổng Tử là phong kiến và tuy
trong học thuyết của Khổng Tử có nhiều điều khơng đúng song những điều hay
trong đó thì chúng ta nên học. Hồ Chí Minh chú ý kế thừa và đổi mới tư tưởng dùng
11
nhân trị, đức trị để quản lý xã hội. Kế thừa và phát triển quan niệm của Nho giáo về
việc xây dựng một xã hội lý tưởng trong đó cơng bằng, bác ái, nhân, nghĩa, trí, dũng,
tín, liêm được coi trọng để có thể đi đến một thế giới đại đồng với hịa bình, khơng
có chiến tranh, các dân tộc có quan hệ hữu nghị và hợp tác. Đặc biệt, Hồ Chí Minh
chú ý kế thừa, đổi mới, phát triển tinh thần trọng đạo đức của Nho giáo trong việc tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức của con người; trong công tác xây dựng Đảng về đạo đức.
Đối với Phật giáo, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển tư tưởng từ bi, vị tha,
yêu thương con người, khuyến khích làm việc thiện, chống lại điều ác; đề cao quyền
bình đẳng của con người và chân lý; khuyên con người sống hịa đồng, gắn bó với
đất nước của Đạo Phật. Những quan điểm tích cực đó trong triết lý của Đạo Phật
được Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo để đoàn kết đồng bào theo Đạo Phật, đoàn kết
toàn dân vì nước Việt Nam hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Hồ
Chí Minh chú trọng kế thừa, phát triển những tư tưởng nhân bản, đạo đức tích cực
trong Phật giáo vào việc xây dựng xã hội mới, con người mới Việt Nam hiện nay.
Đối với Lão giáo, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển tư tưởng của Lão Tử,
khuyên con người nên sống gắn bó với thiên nhiên, hồ đồng với thiên nhiên, hơn
nữa phải biết bảo vệ mơi trường sống. Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân ta trồng cây,
tổ chức "Tết trồng cây" để bảo vệ mơi trường sinh thái cho chính cuộc sống của con
người. Hồ Chí Minh chú ý kế thừa phát triển tư tưởng thoát mọi ràng buộc của vòng
danh lợi trong Lão giáo. Người khuyên cán bộ, đảng viên ít lịng tham muốn về vật
chất; thực hiện cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư; hành động theo đạo lý với ý
nghĩa là hành động đúng với quy luật tự nhiên, xã hội.
Trong các bài nói, bài viết, Hồ Chí Minh cịn chú ý kế thừa, phát triển nhiều ý
tưởng của các trường phái khác nhau trong các nhà tư tưởng phương Đông cổ đại
khác như Mặc Tử, Hàn Phi Tử, Quản Tử, v,v...Và, Hồ Chí Minh cũng chú ý tìm hiểu
12
những trào lưu tư tưởng tiến bộ thời cận hiện đại ở Ấn Độ, Trung Quốc như chủ
nghĩa Găngđi, chủ nghĩa Tam dân của Tơn Trung Sơn. Hồ Chí Minh đã phát triển
sáng tạo các quan điểm về dân tộc, dân quyền, dân sinh của Tôn Trung Sơn trong
cách mạng dân chủ tư sản thành tư tưởng đấu tranh cho Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
của con người và dân tộc Việt Nam theo con đường cách mạng vơ sản.
Là nhà mácxít sáng tạo, Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển những tinh hoa
trong tư tưởng, văn hóa phương Đơng để giải quyết những vấn đề thực tiễn của cách
mạng Việt Nam thời hiện đại.
2.2.2 Tinh hoa văn hố phương Tây
Ngay từ khi cịn học ở Trường tiểu học Pháp-bản xứ ở thành phố Vinh (1905),
Hồ Chí Minh đã quan tâm tới khẩu hiệu nổi tiếng của Đại Cách mạng Pháp năm
1789: Tự do - Bình đẳng - Bác ái. Đi sang phương Tây, Người quan tâm tìm hiểu
những khẩu hiệu nổi tiếng đó trong các cuộc cách mạng tư sản ở Anh, Pháp, Mỹ.
Người đã kế thừa, phát triển những quan điểm nhân quyền, dân quyền trong Bản
Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của Mỹ, Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền
năm 1791 của Pháp và đề xuất quan điểm về quyền mưu cầu độc lập, tự do, hạnh
phúc của các dân tộc trong thời đại ngày nay.
Trong hành trình đi tìm đường cứu nước, cứu dân, Hồ Chí Minh đã sống, hoạt
động thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa nhân loại tại
những trung tâm chính trị kinh tế văn hóa lớn ở các cường quốc trên thế giới như
Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc, v.v. bằng chính ngơn ngữ của các nước đó.
Người trực tiếp nghiên cứu tư tưởng nhân văn, dân chủ và nhà nước pháp quyền của
các nhà khai sáng phương Tây như Vonte, Rutxơ, Mơngtétxkiơ, tìm hiểu chủ nghĩa
Tam dân của Tơn Trung Sơn, Trung Quốc; v.v..; thích đọc sách văn học của
Shakespeare bằng tiếng Anh, Lỗ Tấn bằng tiếng Trung Hoa, Hugo, Zola bằng tiếng
13
Pháp; hai nhà văn Anatole France và Léon Tolstoi “có thể nói là những người đỡ đầu
văn học” cho Hồ Chí Minh.
2.3.
Chủ nghĩa Mác-Lênin
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và thời đại mới cũng như chủ nghĩa
Mác - Lênin là cơ sở lý luận quyết định bước phát triển mới về chất trong tư tưởng
Hồ Chí Minh, khiến Người vượt hẳn lên phía trước so với những người yêu nước
cùng thời. Ngay từ cuối nhưng năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh khẳng định
rằng: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất,
chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin”. Vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã giải quyết được cuộc khủng hoảng
đường lối cứu nước và người lãnh đạo cách mạng ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX. Đối với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin là thế giới quan, phương
pháp luận trong nhận thức và hoạt động cách mạng. Trên cơ sở lập trường, quan
điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã triệt để kế thừa,
đổi mới, phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, tinh hoa
văn hóa nhân loại kết hợp với thực tiễn cách mạng trong nước và thế giới hình thành
lên một hệ thống các quan điểm cơ bản, toàn diện về cách mạng Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác - Lênin tiền đề lý luận quan trọng nhất, có vai trị quyết định
trong việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã trở thành người cộng sản với
tầm vóc trí tuệ lớn như Lênin mong muốn: "Người ta chỉ có thể trở thành người cộng
sản khi biết làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức
mà nhân loại đã tạo ra".
14
Hồ Chí Minh trở thành người cộng sản trên cơ sở hiểu biết sâu sắc kho tàng tri
thức của nhân loại từ cổ chí kim, từ Đơng sang Tây. Về việc đó, Hồ Chí Minh chỉ rõ:
"Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tơn giáo Giêxu
có ưu điểm là lịng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm
việcbiện chứng. Chủ nghĩa Tơn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp
với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng phải đã có những
ưu điểm chung đó sao? Họ đều muốn "mưu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi
cho xã hội". Nếu hơm nay họ cịn sống trên đời này, nếu họ hợp lại một chỗ, tôi tin
rằng họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết.
Tơi cố gắng làm học trị nhỏ của các vị ấy". Tổng kết kinh nghiệm thắng lợi của cách
mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng tơi giành được thắng lợi đó là do
nhiều nhân tố, nhưng cần phải nhấn mạnh rằng - mà không phải chỉ nhân dịp kỷ
niệm lần thứ 100 ngày sinh Lênin - chúng tơi giành được những thắng lợi đó trước
hết là nhờ cái vũ khí khơng gì thay thế được là chủ nghĩa Mác - Lênin".
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng
những đã vận dụng sáng tạo, mà cịn bổ sung, phát triển và làm phong phú chủ nghĩa
Mác - Lênin trong thời đại mới. Trong các vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng
dân tộc; chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; các vấn đề xây
dựng Đảng, Nhà nước, văn hóa, con người, đạo đức, v.v. Hồ Chí Minh đều có những
luận điểm bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin. Tư tưởng Hồ Chí
Minh là một bước nhảy vọt trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.
III.
Tiền đề lý luận giữ vai trị quyết định trong việc hình thành, phát
triển tư tưởng Hồ Chí Minh – Chủ nghĩa Mác- Lênin
3.2.1 Chủ nghĩa Mác – Lê nin
15
Chủ nghĩa Mác-Lênin là hệ thống quan điểm và học thuyết khoa học của
C.Mác, Ph.Ăngghen và sự phát triển của V.I.Lênin; là sự kế thừa và phát triển những
giá trị của lịch sử tư tưởng nhân loại, trên cơ sở thực tiễn của thời đại; là khoa học về
sự nghiệp giải phóng giai cấp vơ sản, giải phóng nhân dân lao động và giải phóng
con người; là thế giới quan và phương pháp luận phổ biến của nhận thức khoa học.
1.1.
Các bộ phận cấu thành nên chủ nghĩa Mác – Lê nin
Chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết khoa học gồm ba bộ phận thống nhất hữu
cơ không thể tách rời nhau:
- Triết học Mác - Lênin là khoa học về những quy luật phổ biến chung nhất
của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy con người; trang bị cho
con người thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp biện chứng duy vật
đúng đắn để nhận thức và cải tạo thế giới.
- Kinh tế chính trị học Mác - Lênin nghiên cứu quan hệ giữa người với người
trong quá trình sản xuất (tức là nghiên cứu quan hệ sản xuất) và trong trao đổi, tiêu
dùng; nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa với quy luật giá trị thặng
dư, chỉ rõ bản chất, những quy luật kinh tế chủ yếu của sự hình thành, phát triển và
đưa phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tới chỗ diệt vong; chỉ ra những quy luật
phát triển của quan hệ sản xuất mới, con đường xây dựng một xã hội không có áp
bức bất cơng, vì tự do, ấm no, hạnh phúc cho mọi người - xã hội cộng sản chủ nghĩa,
giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
- Chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu những quy luật chuyển biến xã hội tư
bản chủ nghĩa lên xã hội xã hội chủ nghĩa và phương hướng xây dựng xã hội mới;
chứng minh rằng, chủ nghĩa tư bản càng phát triển càng tạo ra những tiền đề vật chất
đầy đủ cho sự ra đời xã hội mới - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Lực lượng xã hội thực
16
hiện sự chuyển biến đó chính là giai cấp vơ sản và nhân dân lao động; chỉ ra sứ
mệnh lịch sử tồn thế giới của giai cấp cơng nhân là lật đổ chủ nghĩa tư bản xây
dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa - khơng cịn người áp bức người, khơng cịn
người nơ dịch người; nghiên cứu những vấn đề chính trị - xã hội có tính quy luật
trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa như vấn đề tơn giáo và chính sách tơn
giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội...
1.2.
1.2.1.
Nội dung của chủ nghĩa Mác – Lê nin
Chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống lý luận khoa học
Chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống lý luận khoa học thống nhất của ba bộ
phận cấu thành không thể tách rời là Triết học Mác - Lênin; Kinh tế chính trị học
Mác - Lênin và Chủ nghĩa xã hội khoa học. Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của
Triết học Mác - Lênin chỉ ra rằng, lực lượng sản xuất theo quy luật khách quan tự
thân luôn vận động phát triển và đến một giai đoạn nhất định sẽ mâu thuẫn gay gắt
với quan hệ sản xuất hiện có, mâu thuẫn này được giải quyết sẽ làm cho phương
thức sản xuất mới ra đời, kéo theo nó là một xã hội mới, một hình thái kinh tế - xã
hội mới được ra đời từ trong lịng xã hội cũ, hình thái kinh tế - xã hội cũ. Quá trình
này diễn ra một cách lịch sử - tự nhiên. Từ trong lịng chế độ tư bản chủ nghĩa sẽ
hình thành những điều kiện, tiền đề vật chất cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản.
Học thuyết giá trị thặng dư của Kinh tế chính trị học Mác - Lênin chỉ rõ sản
xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là mục đích và quy luật vận động của phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa. Chính mâu thuẫn giữa tính xã hội hóa cao của lực lượng sản
xuất tư bản chủ nghĩa mâu thuẫn với tính chất tư bản tư nhân chủ nghĩa của sự chiếm
hữu tư liệu sản xuất là nguyên nhân của mọi mâu thuẫn trong lòng phương thức sản
17
xuất tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn này biểu hiện về mặt xã hội thành mâu thuẫn giữa
giai cấp công nhân - giai cấp tiến bộ, đại diện cho lực lượng sản xuất tiến bộ với giai
cấp tư sản - giai cấp đại diện cho giai cấp bảo thủ, phản tiến bộ. Mâu thuẫn này chỉ
được giải quyết thông qua cách mạng xã hội do giai cấp công nhân thực hiện. Giai
cấp cơng nhân có vai trị lơi cuốn các tầng lớp lao động khác vào cuộc đấu tranh đập
tan xã hội cũ, xây dựng xã hội mới khơng cịn người bóc lột người.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống lý luận khoa học là còn bởi lẽ, các nhà
sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã kế thừa toàn bộ tinh hoa trong lịch sử tư duy của
nhân loại. Chủ nghĩa Mác - Lênin cịn có căn cứ cơ sở, tiền đề khoa học; có giai cấp
vơ sản và thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp này và các phương pháp khoa
học, khách quan trong nhận thức tự nhiên, xã hội và tư duy của con người.
1.2.2.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan
khoa học và phương pháp luận mácxí
Trước khi chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời, thế giới quan khoa học và phương
pháp luận biện chứng khoa học luôn tách rời nhau. Trong lịch sử tư tưởng của nhân
loại cũng có một số nhà tư tưởng có sự thống nhất giữa thế giới quan khoa học và
phương pháp luận biện chứng khoa học. Tuy nhiên, sự thống nhất này cịn ở trình độ
thấp. Hơn nữa, cả thế giới quan khoa học, cả phương pháp luận biện chứng khoa học
đều cịn ở trình độ thơ sơ.
Trong chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa duy vật thống nhất hữu cơ với phép
biện chứng. Đồng thời, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng đều được C.Mác và
Ph.Ăngghen phát triển lên một trình độ mới về chất hơn hẳn so với trước đó. Do đó,
sự thống nhất thế giới quan khoa học và phương pháp luận biện chứng khoa học
mácxít là một đặc trưng khơng thể thiếu của chủ nghĩa Mác - Lênin.
18
1.2.3.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết giải phóng xã hội, giải phóng
giai cấp, giải phóng con người với việc xác định rõ con đường, lực
lượng, phương thức để đạt mục tiêu đó
Chủ nghĩa Mác - Lênin xuất phát từ con người hiện thực và cũng nhằm mục
đích giải phóng con người. Chủ nghĩa Mác - Lênin khơng có mục tiêu nào khác là
giải phóng con người khỏi mọi hình thức nơ dịch, áp bức, bóc lột. Nhưng để giải
phóng con người, trước hết phải giải phóng giai cấp cơng nhân rồi tiến tới giải phóng
nhân loại, giải phóng xã hội. Con đường giải phóng này là con đường đấu tranh cách
mạng đập tan nhà nước tư sản bóc lột, xây dựng một nhà nước mới - nhà nước xã hội
chủ nghĩa và sau này là cộng sản chủ nghĩa - mà ở đó khơng cịn bất kỳ sự nơ dịch,
áp bức, bóc lột con người nào. Muốn vậy, giai cấp cơng nhân phải đồn kết, tập hợp
giai cấp nông dân và những người lao động khác dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản để thực hiện cuộc đấu tranh cách mạng này.
Thực tiễn lịch sử phát triển của nhân loại đã chứng tỏ ý nghĩa nhân văn to lớn
của mục tiêu giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Cả về phương diện lý luận, cả về phương diện thực tiễn đều
chứng tỏ, chủ nghĩa Mác - Lênin là chủ nghĩa nhân đạo nhất.
1.2.4.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là một học thuyết mở, không ngừng được
đổi mới, được phát triển trong dịng trí tuệ của nhân loại
Về bản chất, chủ nghĩa Mác - Lênin là một học thuyết phát triển, là hệ thống
mở, luôn được bổ sung, phát triển. Ngay từ năm 1887, Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Lý
luận của chúng tôi không phải là một giáo điều, mà là sự giải thích q trình phát
triển, q trình này bao hàm trong bản thân nó một loạt những giai đoạn kế tiếp
nhau”.
19
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin không bao giờ tự coi lý luận của các ông là “bất
khả xâm phạm”, là hệ thống khép kín, là chân lý tuyệt đích cuối cùng. Trái lại, các
ơng ln địi hỏi những người cộng sản phải biết vận dụng sáng tạo những nguyên lý
cơ bản sao cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, truyền thống văn hóa...của
mỗi nước. Sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện, hoàn cảnh
của cách mạng Việt Nam bởi Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng
như các Đảng cộng sản và phong trào công nhân quốc tế cũng cho thấy bản chất vốn
có của chủ nghĩa Mác - Lênin là sáng tạo và phát triển. Chính nhờ có sáng tạo mà
chủ nghĩa Mác - Lênin được phát triển, chính phát triển lại là điều kiện cho những
người mác-xít vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin.
1.3. Vai trò của chủ nghĩa Mác – Lê nin
Chủ nghĩa Mác - Lênin gồm ba bộ phận: Triết học, Kinh tế chính trị học và
Chủ nghĩa xã hội khoa học. Mỗi bộ phận đóng vai trị khác nhau trong nhận thức và
thực tiễn đời sống xã hội con người.
➢ Vai trò của triết học Mác – Lê nin
-
Trong triết học Mác-Lênin, lý luận duy vật biện chứng và
phương pháp biện chứng duy vật thống nhất hữu cơ với nhau. Sự thống
nhất đó làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên triệt để và phép biện chứng trở
thành lý luận khoa học. Nhờ đó, triết học Mác - Lênin có khả năng nhận
thức đúng đắn tự nhiên, xã hội và tư duy. Phép biện chứng duy vật không
chỉ là lý luận về phương pháp mà còn là lý luận về thế giới quan. Hệ
thống quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng trở thành nhân tố định
hướng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn, trở thành những nguyên tắc
xuất phát điểm của phương pháp luận.
20
-
Triết học Mác ra đời đã làm thay đổi mối quan hệ giữa triết học
và khoa học; sự phát triển của khoa học tạo điều kiện cho sự phát triển
của triết học. Ngược lại, triết học Mác - Lênin đem lại thế giới quan và
phương pháp luận đúng đắn cho sự phát triển khoa học.
-
Đời sống xã hội hiện đại đang có những biến đổi sâu sắc; việc
nắm vững triết học Mác - Lênin giúp chúng ta tự giác trong q trình trau
dồi phẩm chất chính trị, tinh thần và năng lực tư duy sáng tạo của mình,
tránh những sai lầm do chủ nghĩa chủ quan và phương pháp tư duy siêu
hình gây ra.
➢ Vai trị của kinh tế chính trị Mác – Lênin:
-
Chức năng nhận thức: Chức năng này thể hiện ở chỗ kinh tế
chính trị Mác - Lenin cần phải phát hiện bản chất của các hiện tượng, quá
trình kinh tế của đời sống xã hội, tìm ra các quy luật chi phối sự vận động
của chúng, giúp con người vận dụng các quy luật kinh tế một cách có ý
thức vào hoạt động kinh tế nhằm đạt hiệu quả kinh tế, xã hội cao.
-
Chức năng thực tiễn: Là chức năng nhận thức để phục vụ cho
hoạt động thực tiễn có hiệu quả. Chức năng thực tiễn có quan hệ với chức
năng nhận thức, ở chỗ từ việc nghiên cứu các hiện tượng và các quá trình
kinh tế của đời sống xã hội, phát hiện ra bản chất, các quy luật chi phối và
cơ chế hoạt động của các quy luật từ đó kinh tế chính trị cung cấp những
luận cứ khoa học để hoạch định đường lối, chính sách và biện pháp kinh
tế. Đường lối, chính sách và các biện pháp kinh tế dựa trên những luận cứ
khoa học đúng đắn đã nhận thức được sẽ đi vào cuộc sống làm cho hoạt
động kinh tế có hiệu quả cao hơn nhiều.
21
-
Chức năng phương pháp luận: Kinh tế chính trị là nền tảng lý
luận cho một tổ hợp các khoa học kinh tế. Những kết luận của kinh tế
chính trị biểu hiện ở các phạm trù và quy luật kinh tế có tính chất chung
là cơ sở lý luận của các môn kinh tế chuyên ngành và các môn kinh tế
chức năng, nó là cơ sở lý luận cho một số mơn khoa học khác.
-
Chức năng tư tưởng: Kinh tế chính trị Marx - Lenin là cơ sở
khoa học cho sự hình thành thế giới quan, nhân sinh quan và tuyên truyền
cho đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân và nhân dân lao động để
xây dựng chủ nghĩa cộng sản.
➢ Vai trò của chủ nghĩa xã hội khoa học:
-
Thứ nhất, chủ nghĩa xã hội khoa học trang bị tri thức khoa học,
tri thức lý luận (thế giới quan khoa học), đó là hệ thống lý luận chính trị xã hội và phương pháp luận khoa học mà chủ nghĩa Mác – Lênin dùng để
luận giải về quá trình tất yếu lịch sử dẫn đến sự hình thành, phát triển
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, giải phóng xã hội, giải
phóng con người.
-
Thứ hai, chủ nghĩa xã hội khoa học giáo dục tư tưởng chính trị
về chủ nghĩa xã hội cho giai cấp công nhân, Đảng Cộng sản và nhân dân
lao động để hình thành nên thế giới quan, nhân sinh quan cộng sản chủ
nghĩa.
-
Thứ ba, chủ nghĩa xã hội khoa học định hướng chính trị - xã hội
cho hoạt động thực tiễn của Đảng Cộng sản, Nhà nước xã hội chủ nghĩa
và nhân dân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa và trong công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội (kim chỉ nam).
22
2. Con đường Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác- Lê nin
2.1. Hành trình Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác-Lê nin
Hồ Chí Minh đến với Chủ nghĩa Mác-Lênin hồn tồn khơng phải ngẫu nhiên, đó
là hành động đáp ứng nhu cầu của lịch sử dân tộc và xu thế thời đại, một tất yếu lịch
sử.
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho yêu nước, trên quê
hương giàu truyền thống đấu tranh cách mạng. Bằng nhãn quan chính trị, sớm nhận
thức được hồn cảnh đất nước, Người đã quyết chí ra đi tìm đường cứu nước. Người
thanh niên yêu nước ấy đã không chọn con đường của các bậc tiền bối trước đó, mà
Người tìm sang nước Pháp, các nước Phương Tây.
Sau nhiều tháng năm trong hành trình xuyên đại dương, Người trở lại điểm đến
quan trọng nhất là nước Pháp và tham gia hoạt động trong phong trào công nhân Pháp.
Thông qua hoạt động thực tiễn, tận mắt thấy cuộc sống cực khổ của nhân dân các nước
thuộc địa và cũng thấy được sự bất công ngay trên các nước tư bản phát triển, Người
khẳng định: “Ở Pháp cũng có những người Pháp tốt, cũng có người nghèo như ở bên
ta, những người Pháp ở Pháp phần nhiều là tốt, song những người Pháp thực dân rất
hung ác, vô nhân đạo”. Qua đó, Người sớm hình thành tình cảm quốc tế trong sáng
của giai cấp công nhân; chủ nghĩa yêu nước của Người bắt đầu mang một tình cảm
mới, làm cơ sở cho chủ nghĩa Quốc tế vô sản của dân tộc Việt Nam sau này. Đó là sự
đồng cảm, đau xót trước cảnh tượng các dân tộc thuộc địa và người lao động bị áp
bức, bóc lột dã man. Chính do sự cảm thông, yêu thương những người cùng khổ, mà
tình cảm và ý thức giai cấp ở Người dần dần được hình thành – một tình cảm cách
mạng mang tính nhân văn sâu sắc. Người khẳng định: “Dù có màu da khác nhau, trên
đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà chỉ
có một mối tình hữu ái thật mà thơi: Tình hữu ái vơ sản”
23
Năm 1917, có một sự kiện rung chuyển thế giới, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại
trong lịch sử loài người: Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi, đưa học thuyết cách
mạng của C.Mác từ sách vở trở thành hiện thực đầu tiên, đưa cách mạng thế giới bước
sang thời đại mới, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH. Tin vui ấy đã cổ vũ lòng hǎng
hái của Bác. Cũng thời gian đó, Hồ Chí Minh thay mặt nhóm người Việt Nam yêu
nước gửi đến Hội nghị Véc-xây bản “yêu sách của nhân dân An Nam” địi Chính phủ
Pháp thừa nhận các quyền tự do, dân chủ, quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Bản
yêu sách không được chấp nhận, điều đó bóc trần tính giả dối, lừa bịp của Chủ nghĩa
Uyn-xon về quyền dân tộc tự quyết được đưa ra trong thời gian tiến hành Hội nghị
Véc-xây. Đây là giai đoạn Hồ Chí Minh có bước nhận thức mới về quyền tự do, dân
chủ của nhân dân. Lần đầu tiên những quyền lợi cơ bản, chính đáng, thiết thực của
nhân dân Việt Nam được nêu ra trong diễn đàn quốc tế. Trong quá trình hoạt động, tư
tưởng và lý luận của Người hướng gần với Cách mạng Tháng Mười Nga và Chủ nghĩa
Mác - Lênin.
Trong bóng tối dày đặc của chủ nghĩa thực dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gặp
được ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Tháng 7 nǎm 1920 qua báo Nhân đạo
(L'Humanité) Pháp, Người được đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về
vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I. Lênin. Luận cương thu hút sự chú ý đặc biệt của
Nguyễn Ái Quốc, Người đã đọc đi, đọc lại nhiều lần và qua lăng kính chủ nghĩa yêu
nước chân chính, Người tìm thấy ở đó con đường đúng đắn giải phóng đất nước khỏi
ách đơ hộ của thực dân. Bản Luận cương của V.I. Lênin như luồng ánh sáng mặt trời
chiếu rọi vào trí tuệ và tâm hồn của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, đem đến cho
Người một nhãn quan chính trị mới. Đọc bản Luận cương của V.I.Lênin Người đã
thấy rõ mối quan hệ thống nhất giữa cách mạng vơ sản và cách mạng giải phóng dân
tộc ở thuộc địa: Cách mạng giải phóng dân tộc đã trở thành một bộ phận quan trọng
của cách mạng vô sản; cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở chính quốc sẽ khơng thể
24
giành được thắng lợi nếu nó khơng biết liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc
bị áp bức ở thuộc địa. Lênin đã bổ sung vào khẩu hiệu chiến lược của C.Mác rằng “Vơ
sản tồn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”, đã “đặt tiền đề cho một thời
đại mới, thật sự cách mạng trong các nước thuộc địa”. Nhờ đó, Hồ Chí Minh tìm thấy
con đường giải phóng dân tộc Việt Nam và trở lại nghiên cứu chủ nghĩa Mác sâu sắc
hơn. Sau này, nhớ lại thời điểm lịch sử ấy, Người cho biết: “Trong Luận cương ấy có
chữ chính trị rất khó hiểu. Nhưng cứ đọc đi đọc lại nhiều lần, cuối cùng tơi cũng đã
hiểu được phần chính. Luận cương của Lê-nin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi,
sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong
buồng mà tơi nói to lên như đang nói trước quần chúng đơng đảo: “Hỡi đồng bào bị
đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng
chúng ta”! Từ đó, tơi hồn tồn tin theo Lê-nin, tin theo Quốc tế thứ ba”.
Sự kiện được đọc bản bản Luận cương của V.I. Lênin, cùng với những hoạt động
sát cánh với các tầng lớp cơng nhân, trí thức Pháp và các đại biểu thuộc địa, cùng đồng
bào mình trên đất Pháp trước đó, là tiền đề có tính quyết định việc Người bỏ phiếu tán
thành gia nhập Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) và thành lập Đảng Cộng sản Pháp, tại
Đại hội của Đảng Xã hội Pháp lần thứ XVIII tổ chức ở thành phố Tua (Tours), tháng
12/1920. Người đã trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và
cũng trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Đó là một sự kiện chính trị vô cùng
quan trọng trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và trong
lịch sử cách mạng Việt Nam.
Nếu như cuộc đấu tranh của Hồ Chí Minh tại Hội nghị Véc-xây năm 1919 mới là
phát pháo hiệu thức tỉnh nhân dân ta trong sự nghiệp đấu tranh chống thực dân Pháp,
thì việc Người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp năm 1920 đánh dấu một bước
chuyển biến quyết định, bước nhảy vọt, thay đổi về chất trong nhận thức tư tưởng và
lập trường chính trị từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác – Lênin.
25