Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

(Luận văn thạc sĩ) thực trạng công tác thi hành án dân sự và giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (773.38 KB, 100 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG

-----------------------------

LUẬN VĂN THẠC SĨ

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CÔNG TÁC THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH

Ngành: Luật Kinh tế

HOÀNG ĐỨC NAM

Hà Nội - 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG

-----------------------------

LUẬN VĂN THẠC SĨ

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CÔNG TÁC THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH

Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8380107



Học viên cao học : Hoàng Đức Nam
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS Nguyễn Thị Mơ

Hà Nội - 2019


i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam kết luận văn này là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của
tơi. Các tài liệu, số liệu sử dụng trong luận văn có trích nguồn rõ ràng, đầy đủ, các
kết quả nghiên cứu là xác thực và trung thực của tác giả.
Tác giả luận văn

Hoàng Đức Nam


ii

LỜI CẢM ƠN
Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn trân thành nhất tới sự hướng dẫn hết sức nhiệt
tình của GS. TS Nguyễn Thị Mơ, trường Đại học Ngoại thương
Tôi cũng xin được bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc tới các cán bộ, giảng viên của
Cơ sở Quảng Ninh, Khoa Luật, Khoa sau đại học của Nhà trường, về sự tận tình,
tận tâm giúp đỡ tơi trong q trình học tập và nghiên cứu luận văn.
Do thời gian và trình độ cịn hạn chế, tác giả rất mong nhận được sự góp ý
của các thầy cơ giáo để luận văn được hoàn thiện hơn.
Trân trọng cảm ơn!
Tác giả luận văn


Hoàng Đức Nam


iii

MỤC LỤC
LỜI CAM KẾT ......................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................... ii
DANH MỤC BẢNG ............................................................................................... vii
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN THẠC SĨ .............. viii
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ
PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ...........................................................7
1.1. Khái niệm, đặc điểm và nội dung của thi hành án dân sự .......................... 7
1.1.1.Khái niệm về thi hành án dân sự ............................................................. 7
1.1.2. Đặc điểm của thi hành án dân sự ......................................................... 10
1.1.3. Nội dung của thi hành án dân sự ......................................................... 12
1.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác thi hành án dân sự ..................... 16
1.2. Khái niệm, đặc điểm và nội dung của pháp luật về thi hành án dân sự .. 23
1.2.1. Khái niệm pháp luật về thi hành án dân sự ......................................... 23
1.2.2. Đặc điểm của pháp luật về thi hành án dân sự ................................... 25
1.2.3. Nội dung của pháp luật thi hành án dân sự ........................................ 31
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH ...........................................................................33
2.1. Một số nét về tỉnh Quảng Ninh .................................................................... 33
2.1.1.Về điều kiện tự nhiên ............................................................................. 33
2.1.2. Về phát triển kinh tế .............................................................................. 34
2.1.3. Về văn hóa - xã hội ................................................................................ 35
2.1.4. Công tác thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Ninh .............................. 35

2.2. Thực trạng công tác tổ chức việc thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Ninh37
2.2.1. Thực trạng về cơ cấu tổ chức và hiện trạng đội ngũ cán bộ của cơ
quan thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Ninh .............................................. 37
2.2.2. Thực trạng thực thi pháp luật trong tổ chức việc thi hành án dân sự
tại tỉnh Quảng Ninh ........................................................................................ 39


iv

2.2.3. Các kết quả cụ thể trong tổ chức việc thi hành án dân sự tại tỉnh
Quảng Ninh ..................................................................................................... 40
2.2.4. Nhận xét về thực trạng công tác tổ chức việc thi hành án dân sự tại
tỉnh Quảng Ninh .............................................................................................. 43
2.3. Thực trạng hoạt động cƣỡng chế thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Ninh .. 44
2.3.1. Tiếp tục gia tăng các vụ việc bị cưỡng chế thi hành án dân sự tại tỉnh
Quảng Ninh ..................................................................................................... 44
2.3.2. Nguyên nhân của việc gia tăng sự cưỡng chế thi hành án dân sự tại
tỉnh Quảng Ninh .............................................................................................. 46
2.4. Thực trạng hoạt động miễn, giảm thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng
Ninh ....................................................................................................................... 47
2.4.1. Kết quả hoạt động miễn, giảm thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng
Ninh .................................................................................................................. 47
2.4.2. Một số bất cập trong hoạt động miễn, giảm thi hành án dân sự tại tỉnh
Quảng Ninh ..................................................................................................... 48
2.5. Thực trạng hoạt động hoãn thi hành án dân sự tại địa bàn tỉnh Quảng
Ninh ....................................................................................................................... 49
2.5.1. Các trường hợp được hoãn thi hành án dân sự tại địa bàn Quảng
Ninh .................................................................................................................. 49
2.5.2. Kết quả hoạt động hoãn thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Ninh ..... 50
2.6. Nhận xét chung về thực trạng thi hành án dân sự ở tỉnh Quảng Ninh ... 51

2.6.1. Một số khó khăn, hạn chế ..................................................................... 51
2.6.2. Một số bất cập trong thực hiện quy định của pháp luật về thi hành án
dân sự ............................................................................................................... 54
2.6.3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập .......................................... 57
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH ...............................................63
3.1. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự ...................... 63
3.1.1. Mở rộng phạm vi bản án, quyết định được thi hành án dân sự ......... 63


v

3.1.2. Cần sớm ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Điều 72 Luật
Thi hành án dân sự về việc lập Kế hoạch cưỡng chế thi hành án dân sự ... 65
3.1.3. Sửa đổi bổ sung các quy định về trình tự, thủ tục thi hành quyết định
giám đốc thẩm .................................................................................................. 66
3.1.4. Bổ sung các quy định về thi hành án dân sự đối với các bản án liên
quan đế tài sản hình thành trong tương lai ................................................... 67
3.1.5. Bổ sung, sửa đổi cách diễn đạt một số điều luật theo hướng cụ thể
hơn, chi tiết hơn ............................................................................................... 68
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác thi hành án dân sự trên
địa bàn tỉnh Quảng Ninh ..................................................................................... 69
3.2.1. Nhóm giải pháp đối với cơ quan thi hành án dân sự .......................... 69
3.2.2. Các giải pháp đối với cán bộ thi hành án dân sự ................................ 73
3.2.3. Các giải pháp khác ................................................................................ 77
KẾT LUẬN ..............................................................................................................83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................85



vi

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT

Ký hiệu viết tắt

Nội dung viết tắt

1

TA

Toà án

2

TAND

Toà án nhân dân

3

NCKH

Nghiên cứu khoa học

4

XHCN


Xã hội chủ nghĩa

5

DS

6

THADS

Thi hành án dân sự

7

HĐND

Hội đồng nhân dân

8

UBND

Uỷ ban nhân dân

9

BLDS

Bộ luật dân sự


10

BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

11

LTHADS

Luật thi hành án dân sự

Dân sự


vii

DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Kết quả thi hành án dân sự về việc từ năm 2014-2018 .......................41
Bảng 2.2: Kết quả thi hành án dân sự về tiền từ năm 2014-2018 .......................42
Bảng 2.3. Số liệu về vụ việc phải cƣỡng chế thi hành án dân sự từ tháng
10/2016-tháng 10/2018 ............................................................................................45


viii

TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN THẠC SĨ
Đề tại luận văn: “Thực trạng công tác thi hành án dân sự và giải pháp nâng
cao hiệu quả của công tác thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh”.

1. Kết quả đạt đƣợc của Luận văn
- Luận văn đã phân tích và làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến các quy
định của pháp luật về thi hành án dân sự như: khái niệm và đặc điểm của thi hành
án dân sự;nội dung của thi hành án dân sự; các yếu tố ảnh hưởng đến thi hành án
dân sự; khái niệm và đặc điểm của pháp luật thi hành án dân sự;
- Luận văn đã phân tích và làm rõ những nội dung cơ bản của pháp luật về thi
hành án dân sự, bào gồm: (i). Tổ chức việc thi hành án dân sự; (ii). Cưỡng chế thi hành
án dân sự; (iii). Miễn, giảm thi hành án dân sự; (iv). Hoãn thi hành án dân sự;
- Luận văn đã phân tích và làm rõ thực tiễn thực thi pháp luật về thi hành án
dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh; chỉ ra những bất cập của pháp luật và những
vướng mắc trong quá trình thực thi pháp luật về thi hành án dân sự;
- Luận văn đã đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật
và giải pháp nhằm nâng cao khả năng thực thi pháp luật về thi hành án dân sự trên
địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
2. Khả năng ứng dụng thực tiễn của Luận văn
- Luận văn là tài liệu tham khảo hữu ích cho các cơ quan, đơn vị, tổ chức
trong quá trình nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật về
công tác thi hành án dân sự.
- Luận văn là tài liệu có tính ứng dụng trong cơng tác thi hành án dân sự trên
địa bàn tỉnh Quảng Ninh nói riêng và cũng là tài liệu tham khảo cho các cơ quan
trung ương nói chung trong việc lập kế hoạch và tổ chức thực hiện công tác thi hành
án dân sự tại Việt Nam.


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án dân sự (THADS) là hoạt động làm cho các bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật của Tịa án (TA) được thực hiện. Nếu như kết quả của hoạt

động xét xử là đưa ra các phán quyết trên cơ sở áp dụng các điều luật cụ thể thì kết
quả của hoạt động thi hành án là làm cho các phán quyết đó được thực hiện trên
thực tế. Do vậy, thi hành án nói chung và thi hành án dân sự nói riêng có vai trị
quan trọng trong hoạt động tư pháp và đặc biệt là trong quá trình giải quyết vụ án.
Bản án, quyết định của TA chỉ thực sự có giá trị khi được thi hành trên thực tế. Hoạt
động thi hành án là công đoạn cuối cùng, bảo đảm cho bản án, quyết định của TA
được chấp hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và pháp chế xã
hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước,
góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ
máy Nhà nước. Để khẳng định tầm quan trọng của hoạt động thi hành án, Điều 106
Hiến pháp Việt Nam năm 2013 quy định: “Bản án, quyết định của Toà án nhân dân
có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ
chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành.”
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác thi hành án và yêu cầu cải cách
tư pháp, hoàn thiện các quy định pháp luật nhằm đáp ứng cho công cuộc hội nhập
quốc tế và khu vực. Đảng và Nhà nước ta chủ trương
Để thực thi Hiến pháp năm 1993, Pháp lệnh THADS được ban hành và được
sửa đổi năm 2004; sau đó 4 năm, Luật THADS năm 2008 lần đầu tiên ra đời nhằm
điều chỉnh các vấn đề liên quan đến THADS. Cùng với đó, Quốc hội thơng qua
Nghị quyết số 24/2008/QH12 về việc thi hành Luật THADS, theo đó Luật THADS
có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2009. Sau một thời gian áp dụng Luật
THADS 2008, nhận thức được tầm quan trọng của công tác THADS và yêu cầu cải
cách tư pháp, hoàn thiện các quy định pháp luật nhằm đáp ứng cho công cuộc hội
nhập quốc tế và khu vực, Quốc Hội tiếp tục ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật THADS(có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2015). Nhờ vậy, cơng tác thi


2

hành án dân sự trong những năm qua đạt được nhiều kết quả, đặc biệt là hệ thống cơ

quan THADS được hình thành trên phạm vi cả nước, cơng tác THADS đã được
triển khai và hoạt động bước đầu có hiệu quả.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, cơng tác THADS hiện vẫn đang gặp khó khăn với
nhiều vấn đề cịn tồn tại, quy định của pháp luật chưa cụ thể và mang tính bao quát;
nghiệp vụ của cán bộ và Chấp hành viên thi hành án còn hạn chế; hiệu quả công tác
THADS chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ và sự quan tâm của Đảng,
Nhà nước và nhân dân; hoạt động thi hành án chưa triệt để, khơng thật sự bảo đảm
được tính cơng bằng và nghiêm minh của pháp luật. Tình trạng này tồn tại trên
phạm vi cả nước, trong đó thể hiện khá rõ nét ở tỉnh Quảng Ninh.
Quảng Ninh là một tỉnh có diện tích đất rộng, dân số đơng, số lượng các bản
án phải được thi hành hàng năm tương đối lớn. Trong thực tế những năm qua, công
tác thi hành án dân sự ở Quảng Ninh đã đạt được những kết quả nhất định: Nhiều vụ
việc phức tạp, tồn đọng lâu năm đã được tổ chức thi hành dứt điểm; một số bản án
lớn, có tính chất phức tạp, có ảnh hưởng lớn về kinh tế, trật tự an toàn xã hội cũng
đã được chính quyền các cấp quan tâm chỉ đạo. Kết quả đạt được nói trên phản ánh
sự cố gắng, nỗ lực của tồn ngành tư pháp nói chung, cũng như đội ngũ cán bộ
THADS nói riêng, sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của các cấp ủy đảng, chính quyền
địa phương; sự phối hợp chặt chẽ của các ngành hữu quan trong công tác THADS
của tỉnh Quảng Ninh.
Mặc dù vậy, cơng tác THADS ở Quảng Ninh vẫn cịn nhiều tồn tại, yếu kém,
chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Lượng án tồn đọng qua
các năm còn lớn. Nhiều bản án, quyết định về dân sự đã có hiệu lực pháp luật
nhưng chưa được tổ chức thi hành. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên,
trong đó có nguyên nhân liên quan đến quy định pháp luật, nguyên nhân liên quan
đến việc tổ chức thực hiện việc THADS, nguyên nhân đến ý thức pháp luật của
người dân. Ở một số nơi, cấp ủy, chính quyền các cấp chưa nhận thức đầy đủ trách
nhiệm của mình trong việc thực hiện tổ chức, chỉ đạo THADS theo quy định của
pháp luật… Thực tế này đòi hỏi cần có những giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành
án dân sự ở Quảng Ninh nhằm đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn mới.



3

Với những lý do trên, người viết đã lựa chọn vấn đề “Thực trạng công tác thi
hành án dân sự và giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác thi hành án dân sự
trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh” làm đề tài cho Luận văn Thạc sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những năm gần đây, trước những địi hỏi khách quan của cơng tácTHADS,
đã có một số cơng trình khoa học nghiên cứu về vấn đề này, cụ thể:
Năm 1998, Cục quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp đã chủ trì thực
hiện đề tài NCKH cấp Bộ với đề tài: “Mơ hình quản lý thống nhất cơng tác thi hành
án” (mã số 96-98-207/ĐT). Trong 13 chuyên đề nghiên cứu, đề tài đã trình bày các
vấn đề như lịch sử hình thành và phát triển của công tác thi hành án, pháp luật thi
hành án và thực trạng công tác thi hành án trong các lĩnh vực như hình sự, dân sự kinh tế... Đây có thể coi là cơng trình nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên về công tác
thi hành án tại Việt Nam. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu của đề tài này là vấn đề
thi hành án nói chung, nên việc đánh giá thực trạng pháp luật THADS chưa được
phân tích sâu. Ngồi ra, đề tài cũng khơng phân tích cơng tác thi hành án dân sự ở
tỉnh Quảng Ninh.
Đề tài NCKH cấp Nhà nước:“Luận cứ khoa học và thực tiễn của việc đổi
mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới” do Viện
nghiên cứu khoa học pháp lí thuộc Bộ Tư pháp chủ trì (được nghiệm thu năm
2003). Đề tài đã phân tích những vấn đề lý luận liên quan đến hoạt động thi hành
án, thực trang tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự tại Việt Nam cũng như đề
xuất một số kiến nghị đối với việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án tại Việt
Nam. Song đề tài này cũng chưa có những giải pháp cụ thể cho công tác THADS.
Đặc biệt là thời gian thực hiện đề tài này đã từ rất lâu, không liên quan đến thực
trạng THADS tại Quảng Ninh.
Năm 2015, tác giả Hoàng Thế Anh bảo vệ thành công Luận án tiến sĩ Luật
học tại Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội với đề tài"Giám sát thi hành án dân
sự". Luận án đã nhấn mạnh cơ sở lý luận và thực tiễn về công tác giám sát thi hành

án dân sự, thực trạng giám sát thi hành án dân sự ở Việt Nam và các giải pháp đảm


4

bảo giám sát thi hành án dân sự ở Việt Nam. Luận án khơng phân tích thực trạng
THADS và cơng tác thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Ninh.
Năm 2016, tác giả Nguyễn Thị Mai trong Luận văn Thạc sĩ Luật học bảo vệ
tại Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội về“Thực trạng thi hành án dân sự tại tỉnh
Ninh Bình”đã khái quát một số vấn đề lý luận về thi hành án dân sự ở Việt Nam,
thực trạng thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình và phương hướng, giải pháp nâng
cao chất lượng thi hành án dân sự tại tỉnh Ninh Bình.
Ngồi ra, có thể kể đến một số bài viết đăng trên các tạp chí khoa học như:
“Những vướng mắc từ thực tiễn thi hành Luật Thi hành án dân sự”, của Nguyễn
Thị Khanh(Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 05/2010); “Cơng tác cán bộ thi hành
án dân sự - Một số vấn đề từ thực tiễn” của Đinh Duy Bằng(Tạp chí Dân chủ và
Pháp luật, số 09/2010); “Vướng mắc trong hoạt động thi hành án dân sự” của Ngọc
Biên(Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 09/2011); “Một số khó khăn sau hai năm áp
dụng Luật Thi hành án dân sự” của Lạc Phong(Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số
02/2012); “Nguyên nhân của tình trạng án dân sự tồn đọng” của Hồng Thế
Anh(Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, 06/2012)…Các cơng trình nêu trên đã nghiên
cứu về thi hành án dân sự ở những góc độ, khía cạnh và mức độ khác nhau. Các
cơng trình nghiên cứu trên cũng đã phân tích những vấn đề chung về THADS cũng
như thực trạng THADS ở Việt Nam nói chung và ở một số địa phương.
Tuy nhiên, chưa có Luận văn Thạc sĩ Luật học nghiên cứu dưới góc độ lý
luận và thực tiễn về công tác thi hành án dân sự ở tỉnh Quảng Ninh và đặc biệt sau
khi Luật sửa đổi bổ sung Luật THADS năm 2014 được ban hành. Đây là Luận văn
Thạc sĩ Luật học đầu tiên nghiên cứu thực trạng công tác THADS và giải pháp nâng
cao hiệu quả của cơng tác THADS tại tỉnh Quảng Ninh.
3, Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1 Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở đánh giá thực trạng công tác
THADS ở tỉnh Quảng Ninh nhằm chỉ ra những bất cập, yếu kém còn tồn tại. Bên


5

cạnh đó, đề tài luận giải và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác
THADS tại tỉnh Quảng Ninh trong thời gian tới.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, đề tài phải thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau
đây:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về thi hành án dân sự, như khái niệm, đặc
điểm, bản chất và nội dung của THADS và pháp luật về THADS.
- Phân tích những bất cập của pháp luật về thi hành án dân sự.
- Đánh giá thực trạng về công tác THADS ở tỉnh Quảng Ninh và chỉ ra
những kết quả, yếu kém và nguyên nhân của những yếu kém trong hoạt động
THADS tại tỉnh Quảng Ninh.
- Đề xuất các giải pháp sửa đổi, bổ sung pháp luật về THADS và giải pháp nâng
cao hiệu quả công tác THADS trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong thời gian tới.
4, Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là những vấn đề liên quan đến THADS
trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Đối tượng nghiên cứu của đề tài còn bao gồm các
quy định của pháp luật về THADS và thực tiễn thực thi pháp luật về THADS tại
tỉnh Quảng Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về thời gian: Phạm vi nghiên cứu về mặt thời gian của Luận văn là
giai đoạn từ năm 2008 – năm ban hành Luật THADS đầu tiên của Việt Nam cho
đến nay. Khi đề xuất giải pháp, luận văn đề xuất giải pháp tăng cường công tác

THADS tại Quảng Ninh từ nay cho đến năm 2020 và xa hơn là đến năm 2023.
- Phạm vi về không gian: Luận văn nghiên cứu công tác thi hành án dân sự
trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
- Phạm vi về nội dung: Thi hành án dân sự là hoạt động bao gồm nhiều quy
trình, thủ tục đan xen với những yêu cầu khác nhau. Trong khuôn khổ của luận văn


6

thạc sĩ, nội dung nghiên cứu được giới hạn ở 4 nội dung là: (1) Công tác tổ chức và
thực hiện công tác THADS; (2) Công tác cưỡng chế THADS; (3) Cơng tác hỗn
THADS; (4) Cơng tác miễn giảm THADS.
5, Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu truyền thống như:
Phương pháp hệ thống hóa, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương
pháp tổng hợp. Ngồi ra, vì là Luận văn thạc sĩ Luật học, luận văn còn sử dụng
phương pháp so sánh luật học để phân tích các quy phạm pháp luật nhằm chỉ ra
những tiến bộ của pháp luật Việt Nam về THADS. Các phương pháp này được sử
dụng cụ thể, xun suốt trong tồn bộ luận văn, trong đó:
Chương 1 của luận văn sử dụng phương pháp hệ thống hóa và phương pháp
phân tích nhằm làm rõ các vấn đề liên quan đến THADS và pháp luật về
THADS.Cũng trong Chương 1, phương pháp so sánh Luật học cũng được sử dụng để
chỉ ra những thay đổi, những tiến bộ của pháp luật Việt Nam về thi hành án dân sự.
Trong Chương 2, luận văn sử dụng phương pháp phân tích và thống kê nhằm
đánh giá thực trạng công tác thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Ninh, đồng thời phân
tích các thơng tin và các số liệu về THADS tại tỉnh Quảng Ninh để chỉ ra những kết
quả và bất cập.
Chương 3 sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp nhằm luận giải cho
các giải pháp được đề xuất trong Luận văn.
6, Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thi hành án dân sự và pháp luật về thi
hành án dân sự
Chương 2: Thực trạng công tác thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự và nâng cao
hiệu quả của công tác thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh


7

CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ
PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và nội dung của thi hành án dân sự
1.1.1.Khái niệm về thi hành án dân sự
Xét trong mối quan hệ với quyền lập pháp và quyền hành pháp thì quyền tư
pháp thực hiện xoay quanh trục của hoạt động xét xử, là quá trình đi tìm chân lý để
áp dụng cơng lý và phán quyết của sự công bằng theo quy định của pháp luật. Toàn
bộ hoạt động điều tra, truy tố và các hoạt động bổ trợ tư pháp khác đều nhằm mục
đích phục vụ công tác xét xử để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà
nước, cơ quan, tổ chức và của cơng dân. Song, q trình điều tra, truy tố, xét xử vụ
án mới chỉ là những giai đoạn đầu của quá trình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự. Kết thúc giai đoạn xét xử, TA đưa ra những phán quyết về nội dung
vụ án, về người vi phạm pháp luật, về quyền và nghĩa vụ của các bên. Bản án của
TA thể hiện quyền lực tối cao của Nhà nước trong việc quản lý xã hội, nhằm mục
đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước và các chủ thể khác, đảm bảo
trật tự xã hội. Chỉ khi những phán quyết, quyết định, bản án của TA được thực thi
trên thực tế, thì quyền tư pháp của Nhà nước mới được thực hiện một cách trọn vẹn,
công lý mới trở thành hiện thực và trật tự pháp luật mới thực sự được bảo vệ. Chính
vì vậy, Điều 106 Hiến pháp 2013 quy định: “Bản án, quyết định của Toà án nhân

dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan,
tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”.Đây cũng chính là
nguyên tắc mang tính chỉ đạo, xuyên suốt trong mọi hoạt động của các cơ quan nhà
nước. Để bảo đảm tính thượng tơn của pháp luật, đặc biệt trong điều kiện xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân,
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, có thể nói, vấn đề đảm bảo hiệu lực
bản án, quyết định của TA là yêu cầu tất yếu khách quan trong hoạt động Nhà nước,
là nguyên tắc hiến định chỉ đạo toàn bộ tổ chức và hoạt động thi hành án của nước
ta từ nhiều năm nay. Suốt từ năm 1945 tới nay, công tác THADS luôn được coi là
hoạt động của Nhà nước, là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng trong
chức năng đối nội của Nhà nước ta.


8

Kết thúc quá trình giải quyết các tranh chấp về dân sự. TA ra các bản án,
quyết định, trong đó xác định các quan hệ pháp lý, sự kiện pháp lý, buộc người phải
thi hành án có nghĩa vụ phải thực hiện hoặc không thực hiện một hoặc nhiều việc vì
lợi ích của người được thi hành án. Việc thi hành bản án, quyết định của TA là một
giai đoạn độc lập, tiếp theo sau giai đoạn xét xử. Theo luật THADS năm 2008 (sửa
đổi bổ sung năm 2014), đối với hoạt động THADS, các nghĩa vụ phải thi hành liên
quan đến tiền và tài sản – phần “dân sự” trong các bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật.
Hiện nay, vẫn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau khi nói về THADS. Do
vậy, khái niệm THADS vẫn chưa được hiểu một cách thống nhất.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, THADS là một hoạt động tư pháp độc lập với
hoạt động tố tụng dân sự (Trường Đại học Luật Hà Nội, 2007, tr.11). Theo quan
điểm này thì có xét xử sẽ phải có thi hành án. Thi hành án chính là việc củng cố kết
quả của công tác xét xử, đảm bảo hiệu lực của bản án, quyết định dân sự của TA
nên thi hành án là giai đoạn độc lập với hoạt động tố tụng. Vì vậy, THADS cũng là

một hoạt động chấp hành nhưng là chấp hành bản án, quyết định dân sự của TA.
Quan điểm thứ hai cho rằng: THADS là một thủ tục hành chính. Theo đó,
q trình tố tụng chỉ do TA thực hiện(Nguyễn Quang Khải, 2005, tr. 43). Tố tụng là
quá trình tiến hành giải quyết các vụ án theo quy định của pháp luật; quá trình này
sẽ phải trải qua nhiều giai đoạn, song các giai đoạn ấy lại có mối liên hệ mật thiết
với nhau trong một thể thống nhất chung và xét xử là giai đoạn cuối cùng của quá
trình tố tụng. Vì vậy, bản án, quyết định chính là kết quả đánh dấu sự kết thúc của
quá trình tố tụng đó.
Quan điểm thứ ba lại cho rằng: THADS là một thủ tục hành chính – tư pháp
(Lê Minh Tâm, 2001, tr.22). Tác giả này cho rằng vì THADS có mục đích và bản
chất khác với mục đích và bản chất của tố tụng. Mục đích của tố tụng DS là xác
định chứng cứ để lập lại trạng thái ban đầu của sự việc. Với mục đích đó, tồn bộ
q trình tố tụng DS được diễn ra theo một quá trình hết sức chặt chẽ và khi có
quyết định giải quyết vụ việc của TA thì quá trình tố tụng DS kết thúc. Trong khi


9

đó, THADS có mục đích là thực thi bản án, quyết định của TA. Quá trình này do các
chủ thể thi hành án tự giác thi hành hoặc do cơ quan có thẩm quyền sử dụng quyền lực
Nhà nước bắt buộc thi hành bằng các biện pháp cưỡng chế. Về bản chất, THADS là
dạng hoạt động chấp hành, quản lý và tiến hành theo phương pháp hành chính. Vì vậy,
THADS phải thuộc chức năng của quyền hành pháp. Tuy nhiên, THADS cũng là một
dạng hoạt động tư pháp vì căn cứ để thi hành án là các bản án, quyết định của TA. Hơn
nữa, THADS còn được thực hiện bởi các cơ quan tư pháp (theo nghĩa rộng). Do đó,
THADS cần được hiểu là một thủ tục hành chính - tư pháp.
Các quan điểm trên xuất phát từ những lý do khác nhau và đều có tính hợp
lý. Tuy nhiên, tác giả ủng hộ quan điểm thứ nhất, theo đó cho rằng, THADS là một
hoạt động tư pháp, độc lập với hoạt động tố tụng dân sự. Bởi lẽ, thi hành án cũng có
những đặc điểm đặc trưng của hoạt động tố tụng dân sự, như là hoạt động bảo vệ

quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự vì thơng qua thi hành án dân sự, các tổ chức,
cá nhân có hành vi trái pháp luật phải chấm dứt hành vi đó và thực hiện các nghĩa
vụ của mình theo đúng quyết định của TA. Nhờ đó mà quyền và lợi ích hợp pháp
của các chủ thể bị xâm phạm được khơi phục, đảm bảo thực hiện mục đích của tố
tụng DS là bảo vệ lợi ích Nhà nước, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng
dân. Bên cạnh đó, THADS cịn mang tính độc lập, để đảm bảo việc tổ chức thi hành
đúng đắn các bản án, quyết định của TA thì trong quá trình thi hành án các cơ quan
THADS và những người chịu trách nhiệm tổ chức thi hành án phải được độc lập với
các cơ quan, tổ chức và cá nhân khác. Hơn nữa, TA chỉ là một trong những cơ quan
tư pháp mà không phải là cơ quan tư pháp duy nhất nên không thể coi THADS là
một dạng của hoạt động hành chính vì THADS khơng do TA tổ chức thực hiện.
Từ những phân tích trên đây, tác giả cho rằng: Thi hành án dân sự là hoạt
động của cơ quan thi hành án và của các chủ thể khác theo trình tự, thủ tục nhất
định nhằm tổ chức thực hiện thi hành án bản án, quyết định theo quy định của pháp
luật về thi hành án dân sự.
Thi hành án dân sự là hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước, nhằm thực
hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực của TA trong thực tiễn. Với ý nghĩa là giai
đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết một vụ án, chỉ khi nào việc thi hành án


10

được giải quyết xong thì quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan Nhà nước, tổ chức
xã hội, công dân mới được đảm bảo, phán quyết của TA mới được thực thi trong
thực tiễn đời sống. Nếu như bản án, quyết định của TA có hiệu lực pháp luật mà
không được thi hành hoặc thi hành không nghiêm chỉnh đồng nghĩa với việc trật tự
kỉ cương xã hội bị vi phạm, quyền lực Nhà nước bị xem thường.
Để đảm bảo thi hành các bản án, quyết định về “dân sự” nhằm khơi phục lại tình
trạng ban đầu về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, pháp luật quy định cơ quan
THADS là cơ quan có thẩm quyền tổ chức thi hành và Chấp hành viên là người có

thẩm quyền tổ chức công tác thi hành án. Trong quá trình thi hành án, Chấp hành viên
và cơ quan THADS phải thực hiện đúng các trình tự, thủ tục pháp luật quy định, đồng
thời đảm bảo quyền tự định đoạt và thỏa thuận của các đương sự.
1.1.2. Đặc điểm của thi hành án dân sự
Thi hành án dân sự có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, THADS là một hoạt động diễn ra sau quá trình xét xử của TA. Các
bản án, quyết định của TA đã có hiệu lực pháp luật là cơ sở để tiến hành các hoạt
động THADS. Do đó, có thể khẳng định rằng, khơng có kết quả của hoạt động xét
xử thì khơng thể có hoạt động THADS. Song, THADS là một dạng hoạt động tư
pháp, mà không phải là hoạt động tố tụng DS, bởi lẽ xét về mặt bản chất của vấn đề,
THADS hoàn toàn khác với tố tụng DS. Bản chất và mục đích của tố tụng DS là xác
định sự thật của các vụ việc để trên cơ sở đó giải quyết từng trường hợp theo đúng
các quy định của pháp luật. Tồn bộ q trình tố tụng DS diễn ra theo một trình tự
hết sức chặt chẽ, tuân thủ các ngun tắc bình đẳng, cơng khai, dân chủ, tơn trọng
quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng. Khi có phán quyết của TA,
nghĩa là khi sự thật đã được khẳng định và việc áp dụng pháp luật đã hồn thành thì
q trình tố tụng kết thúc. Nếu hình dung bằng hình ảnh thì có thể nói rằng, tố tụng
DS là q trình đi tìm chân lý để áp dụng cơng lý (pháp luật), cịn THADS là q
trình thực thi chân lý bằng cơng lý.
Thứ hai,THADS là hoạt động có tính chấp hành, vì THADS chỉ được tiến
hành trong khuôn khổ pháp luật quy định nhằm thực hiện các bản án, quyết định


11

của TA. Tuy vậy, tính chấp hành trong THADS có những nét đặc thù riêng, bởi lẽ
đây là hoạt động chủ yếu do cơ quan tư pháp (hiểu theo nghĩa rộng) thực hiện. Mặt
khác, cơ sở để tiến hành các hoạt động THADS bao gồm các quy định của pháp luật
và các bản án, quyết định của TA đã có hiệu lực pháp luật. Hơn nữa, mục đích cuối
cùng của hoạt động THADS là đảm bảo cho các nội dung của các bản án, quyết

định của TA đã có hiệu lực pháp luật được thực thi mà không phải là ra các văn bản
áp dụng pháp luật hoặc các quyết định có tính chất điều hành như trong hoạt động
của các cơ quan hành chính.
Thứ ba,THADS là hoạt động có tính quản lý, bởi THADS địi hỏi các yếu tố
kế hoạch, tổ chức, đôn đốc, kiểm tra, xử lý… nhằm tác động tới các đối tượng phải
thi hành án để họ tự nguyện thi hành hoặc áp dụng các biện pháp buộc họ phải thi
hành nghĩa vụ đã được xác định trong các bản án, quyết định của TA. Qua đó, giáo
dục họ và những người xung quanh về ý thức tơn trọng pháp luật, tơn trọng lợi ích
tập thể và cá nhân, tôn trọng trật tự, kỷ cương, lỷ luật Nhà nước và đồn thể…
Trong trường hợp này, tính chất quản lý cũng có những đặc trưng riêng về chủ thể,
đối tượng và khách thể quản lý, phạm vi và phương pháp quản lý.
Thứ tư ,các biện pháp THADS mang tính mệnh lệnh. Cụ thể, mặc dù các
phương pháp giáo dục, thuyết phục có vai trị hết sức cần thiết, nhưng phương pháp
mệnh lệnh, bắt buộc thi hành lại có tính chất đặc trưng. Ngay cả việc tự nguyện thi
hành của người phải THADS cũng dựa trên cơ sở họ nhận thức được tính bắt buộc
và sự cưỡng chế trong việc các cơ quan THADS thực thi bản án, quyết định của TA
đã có hiệu lực pháp luật.
Thứ năm, THADS địi hỏi phải có sự tham gia phối hợp của nhiều cơ quan.
Do vậy, THADS không chỉ là hoạt động chun mơn, nghiệp vụ đơn thuần mà cịn
có ý nghĩa chính trị, xã hội rộng lớn, địi hỏi phải có sự tham gia của nhiều cấp,
ngành, cơ quan khác nhau.
Xuất phát từ những đặc điểm trên đây, có thể hiểu vì sao nói bản chất của
THADS chính là hoạt động hành chính tư pháp mang tính quyền lực Nhà nước, do
các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật


12

quy định, nhằm buộc các cá nhân, tổ chức phải thực hiện các nghĩa vụ theo bản án,
quyết định của TA.

1.1.3. Nội dung của thi hành án dân sự
1.1.3.1. Tổ chức thực hiện việc thi hành án dân sự
Tổ chức thực hiện việc THADS là tổ chức việc thực hiện quyết định THADS
của Thủ trưởng cơ quan THADS theo quy định của pháp luật về THADS. Sau khi
kết thúc quá trình giải quyết các tranh chấp về dân sự, TA ra các bản án, quyết định,
trong đó xác định các quan hệ pháp lý, sự kiện pháp lý, buộc người phải thi hành án
có nghĩa vụ phải thực hiện hoặc khơng thực hiện một hoặc nhiều việc vì lợi ích của
người được thi hành án. Trên cơ sở bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật do TA
chuyển giao hoặc đơn yêu cầu thi hành án của đương sự, cơ quan THADS quyết
định thi hành án và thụ lý, tổ chức việc thi hành án. Thủ tục này độc lập với các thủ
tục khác trong việc giải quyết vụ án hoặc vụ kiện trọng tài. Việc THADS là quá
trình diễn ra sau q trình xét xử của TA, cịn bản án, quyết định đã có hiệu lực là
cơ sở để tiến hành thực hiện các thủ tục thi hành án. Như vậy, việc thi hành bản án,
quyết định của TA là một giai đoạn độc lập, tiếp theo sau giai đoạn xét xử.
Tổ chức thực hiện việc THADS bao gồm việc THADS có điều kiện thi hành
và việc THADS chưa có điều kiện thi hành. Căn cứ để phân loại việc thi hành án có
điều kiện thi hành và chưa có điều kiện thi hành chính là các điều kiện để thi hành
án. Thông qua hoạt động xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án,
cơ quan thi hành án sẽ tập trung thời gian, nhân lực, chi phí cho những việc thi hành
án có điều kiện thi hành; đồng thời tiết kiệm công sức, tiền bạc dành cho các việc
thi hành án chưa có điều kiện thi hành. Do đó, có thể nói, việc xác định và phân loại
việc tổ chức thực hiện THADS có vai trị và ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong cơng
tác THADS, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác THADS; giảm
án tồn đọng, đồng thời giảm áp lực đối với cơ quan THADS.
1.1.3.2. Cưỡng chế thi hành án dân sự
Cưỡng chế là việc dùng quyền lực Nhà nước bắt buộc cá nhân, tổ chức thực
hiện hoặc không thực hiện một công việc nhất định trái với ý muốn của họ. Cưỡng


13


chế gắn liền với hoạt động quản lý Nhà nước và là phương pháp thường xuyên được
áp dụng trong quản lý Nhà nước, trong đó có quản lý THADS. Khoản 2 Điều 9 Luật
THADS năm 2008 (sửa đổi bổ sung năm 2014) quy định: “Người phải thi hành án
có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành thì bị cưỡng chế thi hành án
theo quy định của Luật này.” Như vậy, người phải thi hành án phải tự nguyện thi
hành án khi có điều kiện, nếu khơng tự nguyện thì chủ thể có thẩm quyền thi hành
án sẽ ra quyết định áp dụng các biện pháp cưỡng chế.
Vì vậy, có thể hiểu cưỡng chế THADS là biện pháp cưỡng chế của cơ quan
thi hành án do chủ thể có thẩm quyền quyết định, bắt buộc đương sự phải thực hiện
những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo bản án, quyết định của TA đã có hiệu
lực pháp luật. Hiệu quả hoạt động cưỡng chế THADS ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu
quả công tác thi hành án. Do vậy, cưỡng chế THADS được áp dụng trong trường
hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án nhưng không tự nguyện thi
hành trong thời hạn do Chấp hành viên ấn định, hoặc trong trường hợp cần ngăn
chặn người phải thi hành án tẩu tán, hủy hoại tài sản. Cưỡng chế THADS là biện
pháp nghiêm khắc nhất dành cho người phải THADS, do đó, Chấp hành viên trong
q trình tổ chức thi hành án khơng được áp dụng một cách tùy tiện mà phải tuân
thủ những nguyên tắc nhất định. Những nguyên tắc đó bao gồm:
Thứ nhất, chỉ áp dụng các biện pháp cưỡng chế được pháp luật quy định, các
biện pháp đó bao gồm: (1) Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ
có giá của người phải thi hành án. (2) Trừ vào thu nhập của người phải THADS. (3)
Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba
chiếm giữ. (4) Khai thác tài sản của người phải thi hành án. (5) Buộc chuyển giao
vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ. (6) Buộc người phải thi hành án thực hiện
hoặc không được thực hiện công việc nhất định.
Thứ hai, chỉ được áp dụng biện pháp cưỡng chế THADS sau khi đã hết thời
hạn tự nguyện thi hành án, trừ trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có
hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh nghĩa vụ thi hành án. Theo đó, thời
hạn tự nguyện thi hành án là 10 ngày, kể từ ngày người phải thi hành án nhận được

quyết định thi hành án hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án. Ngoài ra,


14

cơ quan THADS không tổ chức cưỡng chế thi hành án có huy động lực lượng trong
thời gian 15 ngày trước và sau tết Nguyên đán; các ngày truyền thống đối với các
đối tượng chính sách, nếu họ là người phải thi hành án. Quy định này xuất phát từ
mục đích nhân đạo của Nhà nước đối với người phải THADS
Thứ ba, chủ thể có thẩm quyền có thể áp dụng một hoặc nhiều biện pháp
cưỡng chế THADS. Việc tổ chức cưỡng chế phải tương ứng với nghĩa vụ của người
phải thi hành án và các chi phí cần thiết khác. Chấp hành viên phải ước tính giá trị
tài sản để làm cơ sở cho việc áp dụng biện pháp cưỡng chế THADS. Trường hợp
người phải thi hành án chỉ có một tài sản duy nhất lớn hơn nhiều so với nghĩa vụ
phải thi hành án mà tài sản đó không thể phân chia được hoặc việc phân chia sẽ làm
giảm đáng kể giá trị của tài sản thì Chấp hành viên vẫn có quyền áp dụng biện pháp
bảo đảm, cưỡng chế thi hành án.
Thứ tư, việc áp dụng biện pháp cưỡng chế phải căn cứ vào bản án, quyết
định và từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể trong quá trình tiến hành cơng tác thi hành
án dân sự. Ngun tắc này địi hỏi rất cao về mặt chun mơn nghiệp vụ và bản lĩnh
nghề nghiệp, đạo đức của Chấp hành viên. Vì việc tổ chức cưỡng chế THADS có
thuận lợi hay khơng, an tồn hay khơng và có ảnh hưởng đến tình hình an ninh,
chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa bản xảy ra việc cưỡng chế hay khơng tùy
thuộc vào việc có áp dụng thống nhất nguyên tắc này trên thực tế hay không. Thực
tiễn cho thấy, đối với những vụ việc có giá trị lớn, người phải THADS hầu như
không tự nguyện thi hành, buộc cơ quan THADS phải tổ chức cưỡng chế theo quy
định của pháp luật, song nếu tổ chức thực hiện các biện pháp cưỡng chế thi hành án
không đúng, không thành công sẽ gây ra nhiều hậu quả tiêu cực đối với xã hội.
1.1.3.3. Hoãn thi hành án dân sự
Về nguyên tắc, khi bản án, quyết định của TA có hiệu lực pháp luật thì tổ

chức, cá nhân được thi hành án có thể làm đơn yêu cầu Cơ quan THADS thi hành
án. Tuy nhiên, để đảm bảo vụ việc được xem xét cẩn trọng, đảm bảo quyền và lợi
ích của nhà nước, của cơng dân thì trong một số trường hợp theo quy định của pháp
luật, cơ quan THADS được quyền ra quyết định hoãn THADS. Do vậy, hoãn


15

THADS là việc cơ quan THADS quyết định chưa tổ chức thi hành bản án, quyết
định khi có căn cứ mà pháp luật quy định. Khi ra quyết định hoãn THADS, cần xác
định các căn cứ hoãn thi hành án và hậu quả pháp lý của việc hoãn thi hành án. Có
thể phân chia căn cứ để cơ quan thi hành án ra quyết định hoãn THADS thành hai
trường hợp như sau:
Thứ nhất, thủ trưởng cơ quan THADS ra quyết định hỗn thi hành án vì lý
do khách quan như: Người phải THADS bị ốm nặng, bị mất hoặc bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự theo quyết định của TA; Chưa xác định được địa chỉ của người
phải thi hành án; Đương sự đồng ý hoãn thi hành án; Tài sản để thi hành án đã được
TA thụ lý để giải quyết... Luật không quy định thời hạn hoãn đối với quyết định
hoãn của Thủ trưởng cơ quan THADS trong những trường hợp này.
Thứ hai, thủ trưởng cơ quan THADS ra quyết định hoãn THADS khi nhận
được yêu cầu hỗn thi hành án của người có thẩm quyền kháng nghị. Đối với
trường hợp này, pháp luật quy định rõ về thời điểm tiếp nhận yêu cầu cũng như thời
hạn hỗn. Theo đó, thủ trưởng cơ quan THADS ra quyết định hỗn ít nhất là 24 giờ
trước thời điểm cưỡng chế thi hành án đã được ấn định trong quyết định cưỡng chế.
Đối với trường hợp cơ quan THADS nhận được u cầu hỗn thi hành án của người
có thẩm quyền kháng nghị ít hơn 24 giờ trước thời điểm cưỡng chế đã được ấn định
trong quyết định cưỡng chế thi hành án thì thủ trưởng cơ quan THADS có quyền
quyết định hỗn thi hành án khi xét thấy cần thiết.
1.1.3.4. Miễn, giảm thi hành án dân sự
Miễn THADS là trường hợp người phải thi hành được TA có thẩm quyền

quyết định khơng phải nộp tồn bộ số tiền hoặc phần còn lại của số tiền mà họ phải
nộp đối với khoản thu ngân sách Nhà nước. Giảm nghĩa vụ THADS là trường hợp
người phải thi hành khoản thu nộp ngân sách Nhà nước được TA có thẩm quyền
quyết định chỉ phải nộp một số tiền thấp hơn số tiền mà đáng lẽ họ phải nộp cho
ngân sách Nhà nước.
Miễn, giảm THADS là một quy định mang tính nhân đạo của Nhà nước, chỉ
được áp dụng trong những trường hợp do pháp luật quy định. Việc đề nghị miễn


×