Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

văn hoá các tộc người thiểu số vấn đề nhận thức và ứng xử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.54 KB, 13 trang )

VĂN HOÁ CÁC TỘC NGƯỜI THIỂU SỐ:
VẤN ĐỀ NHẬN THỨC VÀ ỨNG XỬ
TS. LÝ TÙNG HIẾU
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tôi thuộc vào số những người trải qua nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn khác nhau,
và kể từ chuyến khảo sát điền dã đầu tiên năm 1983 tại Kiên Giang tơi đã có hơn 30 chuyến khảo
sát các địa bàn Bắc, Trung, Nam, mà nhiều nhất là ở Tây Nguyên và Nam Bộ. Trong các chuyến
khảo sát, tôi thường nhờ đến sự giúp đỡ về thủ tục và thông tin, tư liệu của các cán bộ viên chức
ngành văn hoá tại địa phương. Tri thức về văn hoá địa phương, văn hố tộc người của nhiều người
trong số đó rất đáng nể phục. Thâm tâm tôi vẫn hàm ơn họ. Tơi cũng có may mắn tham gia một số
lớp bồi dưỡng, tập huấn mà số đông học viên là cán bộ viên chức chuyên trách hoặc quan tâm đến
văn hoá dân tộc thiểu số, như lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước về văn hoá dân tộc thiểu số
tại khu vực phía nam (TP. Hồ Chí Minh, 2013), khoá tập huấn - hội thảo về phương pháp nghiên
cứu liên ngành trong khoa học xã hội về người Chăm (Ninh Thuận, 2014), nên nhân đó làm quen
được một số cán bộ viên chức có năng lực của ngành văn hố ở các địa phương phía nam.
Tuy nhiên, từ góc độ một người nghiên cứu và giảng dạy về văn hố vùng, văn hố tộc
người, tơi thấy rằng sự hạn chế về cách nhìn và cách ứng xử đối với văn hoá các tộc người thiểu số
trong một số cán bộ viên chức ngành văn hoá là điều khá hiển nhiên. Trong các cán bộ viên chức
văn hoá là người Việt, một số người có những định kiến văn hố và ứng xử văn hố khơng đúng đối
với văn hoá các tộc người thiểu số. Dưới đây là cảm nhận cá nhân của tơi về những hạn chế đó
trong một số cán bộ viên chức ngành văn hoá đối với văn hoá các tộc người thiểu số, kèm theo
những giải pháp gợi ý.
2. NHỮNG HẠN CHẾ VỀ NHẬN THỨC VÀ ỨNG XỬ ĐỐI VỚI VĂN HOÁ CÁC TỘC
NGƯỜI THIỂU SỐ
(1) Về quan điểm chung, theo cảm nhận của tôi, một số cán bộ viên chức ngành văn hoá
thiếu cái nhìn hệ thống đối với việc quản lý, bảo tồn, phát huy di sản văn hoá các tộc người thiểu
số. Và một cái nhìn cắt khúc thì đương nhiên khơng thể đem lại những giải pháp có tính hệ thống
cho những vấn đề thực tiễn. Ngược lại, nó là nguyên nhân sâu xa dẫn đến những cách ứng xử cục
bộ, bất khả thi.
(2) Cũng về quan điểm chung, một số người thiếu cái nhìn khách quan khoa học đối với văn
hố các tộc người thiểu số. Họ có một định kiến cho rằng văn hố Việt là hình mẫu, là văn minh;


văn hoá các tộc người thiểu số là lạc hậu, mọi rợ. Định kiến ấy kéo theo cách ứng xử sai lầm là
công khai hoặc ngấm ngầm khinh miệt, kỳ thị văn hoá các tộc người thiểu số, vận động xoá bỏ
hoặc ngăn cấm việc thực hành các hoạt động văn hoá truyền thống của các tộc người này.
(3) Đối với văn hoá mưu sinh của các tộc người thiểu số, có định kiến cho rằng rừng núi
Trường Sơn - Tây Nguyên - Đông Nam Bộ là rừng núi hoang vu, vơ chủ, trừ một số ít là đất thổ cư
và nương rẫy. Định kiến ấy kèo theo cách ứng xử sai lầm là coi quyền sở hữu cộng đồng của các

1


bn làng đối với núi rừng như khơng có; tự do khoanh vùng, di dân, xí phần, xâm canh, di dời, tái
định cư... tuỳ tiện trong không gian sinh tồn của các tộc người thiểu số.
(4) Đối với văn hoá cư trú của các tộc người thiểu số, có người hiểu giản đơn rằng nhà ở,
nhà cộng đồng, nhà dài, cồng chiêng... của các tộc người thiểu số đơn thuần chỉ là vật chất. Cách
hiểu ấy kéo theo cách ứng xử sai lầm là giúp các tộc người thiểu số bảo tồn và cải thiện đời sống
vật chất bằng cách xây tặng, mua tặng, tuyền truyền vận động, kết hợp với mơ phỏng những di sản
ấy để hình thành những thiết chế văn hoá hiện đại.
(5) Đối với văn hoá tổ chức cộng đồng của các tộc người thiểu số, có định kiến cho rằng
chế độ gia đình mẫu hệ chính là chế độ mẫu quyền mà trong đó, quyền lực thuộc về người mẹ và
nữ giới, do đó trách nhiệm quản lý và xử lý trong gia đình và ngoài xã hội thuộc về nữ giới. Định
kiến ấy kéo theo cách ứng xử sai lầm là vận động, khuyến khích các tộc người thiểu số từ bỏ chế độ
gia đình mẫu hệ, song hệ để theo phụ hệ cho giống Việt.
(6) Cũng đối với văn hoá tổ chức cộng đồng của các tộc người thiểu số, có định kiến cho
rằng các tộc người khơng có họ tức là khơng có tên dịng họ và khơng có khái niệm về dòng họ.
Định kiến ấy kéo theo cách ứng xử sai lầm là bắt buộc hoặc khuyến khích các tộc người thiểu số
đồng loạt chọn họ của người Việt để đặt họ tên cho giống Việt.
(7) Đối với văn hố tín ngưỡng của các tộc người thiểu số, một số người khơng phân biệt
nổi tơn giáo tín ngưỡng với mê tín dị đoan. Một số người thì khơng phân biệt được tơn giáo tín
ngưỡng với tổ chức tơn giáo. Định kiến ấy kéo theo cách ứng xử sai lầm là dán nhãn mê tín dị
đoan cho một số tơn giáo tín ngưỡng để lên án, bài trừ; hoặc không thừa nhận, khơng quản lý một

số tơn giáo tín ngưỡng vì lẽ chưa có quyết định cơng nhận đó là một tổ chức tơn giáo.
(8) Đối với văn hố phong tục của các tộc người thiểu số, một số người cho rằng các phong
tục tập quán truyền thống của các tộc người thiểu số là lạc hậu. Định kiến ấy kéo theo cách ứng xử
sai lầm là xoá bỏ các phong tục tập quán truyền thống ấy, thay thế, áp đặt cứng nhắc bằng luật
pháp và phong tục Việt.
(9) Đối với văn hoá lễ hội của các tộc người thiểu số, một số người cho rằng lễ hội truyền
thống, văn hoá nghệ thuật dân gian là những sản phẩm có thể khai thác làm lợi cho các ngành
thương mại, du lịch, đồng thời duy trì, phát huy được văn hố truyền thống của các tộc người. Định
kiến ấy kéo theo cách ứng xử sai lầm là tạo ra các lễ hội hiện đại mượn danh lễ hội truyền thống,
sân khấu hoá nghệ thuật dân gian để làm thành sản phẩm du lịch và thương mại, bất chấp hậu quả
về văn hoá.
(10) Đối với ngôn ngữ, văn tự của các tộc người thiểu số, một số người cho rằng chữ viết
của các tộc người thiểu số chỉ là phương tiện ghi tiếng nói, là cơng cụ chính trị và truyền giáo, là
nhịp cầu bắc sang tiếng Việt. Định kiến ấy kéo theo cách ứng xử sai lầm là không sử dụng những
bộ chữ là cơng cụ chính trị và truyền giáo của thời trước, khơng khuyến khích phổ cập chữ viết dân
tộc và giáo dục song ngữ cho học sinh dân tộc.
Mười định kiến và cách ứng xử sai lầm đó đối với văn hoá của các tộc người thiểu số vẫn
chưa phải là tất cả. Nhưng hơn cả số lượng là tính di căn, là sự tồn tại dai dẳng của chúng trong một
bộ phận cán bộ viên chức ngành văn hoá. Nguyên nhân khiến cho những định kiến và ứng xử ấy
hình thành và tồn tại có lẽ là tính quan liêu cố hữu của con người và bộ máy của ngành văn hố.
Khơng chỉ thế, tính quan liêu cịn khiến cho cán bộ viên chức văn hố khơng đóng được vai trị nhà
hoạt động văn hố mà chỉ là những cơng chức quản lý văn hố: tư duy nhiệm kỳ, quan tâm từng

2


món, làm theo chỉ thị, v.v. Tính quan liêu ấy cịn khiến cho cán bộ viên chức văn hố có xu hướng
nhà nước hoá các hoạt động văn hoá dân gian (tổ chức lễ hội, quản lý các di sản được cơng nhận),
vì coi thường các giá trị văn hố dân gian: tính thiêng liêng / tâm linh, tính cộng đồng / tự nguyện.
3. NHỮNG THÁCH THỨC ĐỐI VỚI VĂN HỐ CÁC TỘC NGƯỜI THIỂU SỐ PHÍA NAM

TRONG BỐI CẢNH CƠNG NGHIỆP HỐ, HIỆN ĐẠI HỐ VÀ TỒN CẦU HỐ
Hiện nay, trong bối cảnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố và tồn cầu hố, văn hố các tộc
người thiểu số phía nam cũng như các vùng miền khác đang đối diện với nhiều thách thức.
Ở đồng bằng Trung và Nam Trung Bộ, theo ghi nhận của tôi, cảnh quan thiên nhiên và di
tích lịch sử văn hố trong vùng Chăm đang bị khai thác theo hướng thương mại hoá, cách ly khỏi
văn hoá tộc người. Nhu cầu gồm gia dụng, vải thổ cẩm chững lại. Chế độ gia đình mẫu hệ, hình
thức đại gia đình và tổ chức cộng đồng palei đang suy yếu. Sự du nhập, hình thành các tôn giáo mới
đã và sẽ làm chia rẽ người Chăm. Di sản dân ca dân vũ Chăm chưa được phát huy đầy đủ, bị sản
phẩm phục dựng là ca vũ nhạc cung đình lấn át. Chữ viết, yếu tố cơ bản của văn hoá tộc người, là
vấn đề đang gây chia rẽ trong các cộng đồng Chăm.
Ở Trường Sơn - Tây Nguyên, theo ghi nhận của tôi, đang nổi lên vai trò của người Việt với
tư cách một tộc người đa số và có trình độ kinh tế - xã hội phát triển hơn. Với tư cách đó, người
Việt đang vươn lên đóng vai trị chủ thể chính của văn hoá Trường Sơn - Tây Nguyên hiện đại, là
tác nhân chủ yếu làm thay đổi cấu trúc và giá trị văn hoá cổ truyền của vùng đất này. Trong văn hoá
mưu sinh hiện tại của cư dân Trường Sơn - Tây Nguyên, vai trò của săn câu lượm hái ngày càng
giảm, tỷ lệ thuận với sự sụt giảm diện tích rừng tự nhiên. Theo thống kê của ngành kiểm lâm, trong
5 năm 2006-2010, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ đã mất thêm 158.000ha rừng, chiếm 31,6% diện
tích rừng bị mất trong tồn quốc, bình qn mỗi năm giảm 31.698ha, trong đó Tây Ngun bình
qn giảm 20.513ha/năm. Diện tích rừng tự nhiên bị giảm này chủ yếu là do thực hiện các dự án
chuyển đổi mục đích sử dụng, khai thác trắng rừng trồng theo kế hoạch, rừng bị chặt phá trái pháp
luật... Về văn hoá cư trú, số lượng nhà sàn dài vẫn đang tụt giảm. Nguyên nhân là hình thức đại gia
đình đã bị hình thức tiểu gia đình dần dần thay thế. Về văn hố tín ngưỡng, đạo Thiên Chúa, đạo
Tin Lành và đạo Phật ngày càng phát triển. Đối với những cư dân mà điều kiện kinh tế - xã hội cịn
thấp kém, các tơn giáo này cũng có tác dụng đem lại sự trợ giúp về tinh thần và vật chất cần thiết.
Tuy nhiên, một vài tôn giáo cũng đồng thời gây ra mối xung đột với tín ngưỡng, phong tục cổ
truyền của người bản địa. Về văn hố lễ hội, ngồi các lễ hội cổ truyền, trong những năm gần đây
cịn có lễ hội Đua voi, lễ hội Cồng chiêng và lễ hội Cà phê diễn ra ở Tây Nguyên, được Nhà nước
công nhận và tổ chức đều đặn hằng năm như một giá trị truyền thống. Tuy nhiên, thực chất đó là
những cuộc hội diễn nghệ thuật khai thác văn hoá truyền thống Tây Ngun cho những mục tiêu
kinh tế, chứ hồn tồn khơng gắn với cách thức hoạt động sản xuất, cách thức tổ chức xã hội, tín

ngưỡng, phong tục cổ truyền, là những yếu tố làm nên tính chất cộng đồng và tính chất thiêng liêng
của lễ hội truyền thống Tây Nguyên. Về ngôn ngữ, chữ viết, từ sau năm 1975, chương trình giáo
dục song ngữ và phổ cập chữ viết của các ngôn ngữ bản địa ở Trường Sơn - Tây Nguyên diễn ra rất
chậm. Hiện nay việc triển khai giáo dục ngôn ngữ và chữ viết Êđê đã được tiến hành chính thức ở
các cấp lớp 3-4-5 bậc tiểu học, triển khai thử nghiệm ở bậc trung học cơ sở các trường dân tộc nội
trú của tỉnh Đắk Lắk. Còn ngôn ngữ và chữ viết Jrai đang được triển khai ở các cấp lớp 3-4-5 bậc
tiểu học trên địa bàn Đắk Lắk, Kon Tum. Tương tự, tiếng và chữ Bahnar đã được đưa vào giảng
dạy song ngữ ở ba cấp lớp 3-4-5 ở tỉnh Kon Tum. Đây thật ra là ba bộ chữ phiên âm theo mẫu tự La
Tinh đã có từ thời Pháp thuộc: chữ Bahnar (1861), chữ Jrai (1918), chữ Êđê (1923).
3


Ở Nam Bộ, theo ghi nhận của tôi, thách thức lớn nhất là nguy cơ đồng hoá đối với văn hoá
của các tộc người thiểu số. Ở Nam Bộ trước đây, bên cạnh vai trị chi phối của văn hố Việt, văn
hoá của các tộc người Chăm, Hoa, Khmer và văn hố nước ngồi vẫn có một sức mạnh nhất định,
và sự tiếp biến văn hoá diễn ra sâu rộng đã làm biến đổi sâu sắc văn hoá của tất cả các tộc người
nơi đây, kể cả văn hoá Việt. Nhưng hiện nay, các tộc người thiểu số Nam Bộ đang đối diện với một
q trình đồng hố văn hố do sự gia tăng dân số Việt. Hiện nay, để hãm bớt tốc độ đồng hố ấy, vơ
hình trung các tôn giáo và cơ sở tôn giáo đã trở thành thành luỹ cuối cùng bảo tồn văn hoá truyền
thống của các tộc người thiểu số. Những nơi thờ phụng công cộng của người Hoa như các hội quán,
miếu, đình, đền, chùa, nhà thờ, khơng chỉ là trung tâm tín ngưỡng mà cịn là trung tâm văn hố,
giáo dục của cộng đồng, nơi giữ gìn và phát huy truyền thống văn hố nghệ thuật của người Hoa.
Các ngơi chùa Khmer khơng chỉ là trung tâm tơn giáo mà cịn là trung tâm giáo dục, văn nghệ, hội
họp, lễ hội của cộng đồng. Các thánh đường (masjid) và nhà nguyện (surau) của người Chăm Nam
Bộ không chỉ là trung tâm tôn giáo mà còn là trung tâm giáo dục, hội họp, lễ hội của cộng đồng.
4. GIẢI PHÁP VỀ NHẬN THỨC ĐỐI VỚI VĂN HOÁ CÁC TỘC NGƯỜI THIỂU SỐ
Hiện nay, nhu cầu đào tạo, xây dựng nguồn nhân lực ngành văn hóa ở các địa phương rất
được quan tâm và đã có những bước đi cụ thể. Vào năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt
đề án Xây dựng đội ngũ trí thức ngành văn hóa, thể thao và du lịch đến năm 2020, “với mục tiêu
xây dựng đội ngũ trí thức ngành sáng tạo ra các sản phẩm văn hóa nghệ thuật có chất lượng, đạt

được đỉnh cao nghệ thuật, kỷ lục thể thao quốc gia và quốc tế, thu hút nhiều khách du lịch. Đề án
cũng đặt ra mục tiêu xây dựng đội ngũ trí thức ngành đảm bảo chất lượng, đủ số lượng, đồng bộ về
cơ cấu; có trình độ chun mơn cao và năng lực thực tiễn; có khả năng tiếp cận, làm chủ và chuyển
giao khoa học công nghệ tiên tiến... Giải pháp chủ yếu được Đề án đưa ra là rà soát, sắp xếp lại và
quy hoạch đội ngũ trí thức ngành; tiếp tục hồn thiện cơ chế, chính sách đối với đội ngũ trí thức đây được xem là khâu đột phá của cơng tác xây dựng đội ngũ trí thức ngành. Đồng thời, phát huy
vai trị của các hội trí thức trong ngành và đề cao trách nhiệm của trí thức. Ngồi ra, đổi mới công
tác đào tạo, bồi dưỡng được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng, được ưu tiên để tăng số
lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trí thức của ngành”. Về thực trạng đội ngũ trí thức,
vào năm 2010 ngành văn hóa, thể thao và du lịch có hơn 45.000 trí thức, bao gồm 9 tiến sĩ khoa
học, chiếm 0,02%; 384 tiến sĩ, chiếm 0,85%; 1.610 thạc sĩ, chiếm 3,57%; 37.330 trí thức trình độ
đại học, chiếm 82,79% và 5.758 trí thức trình độ cao đẳng, chiếm 12,77% tổng số trí thức thống kê
được trong ngành. “Tuy nhiên, so với yêu cầu nhiệm vụ, đội ngũ trí thức ngành văn hóa, thể thao và
du lịch cịn ít về số lượng, chưa đồng bộ về cơ cấu và năng lực thực tiễn không tương xứng với
bằng cấp. Lực lượng trí thức có trình độ cao chưa nhiều và ngày càng thiếu những trí thức đầu đàn
làm nịng cốt đào tạo trí thức trẻ. Kiến thức hội nhập, ngoại ngữ, tin học; năng lực sáng tạo, năng
lực lãnh đạo, quản lý; và kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế, chưa tương xứng với yêu cầu phát
triển của thời đại” [Tuấn Khang, 2010].
Năm 2013, Bộ trưởng Bộ Văn hố, Thể thao và Du lịch Hồng Tuấn Anh đã ký Quyết định
phê duyệt Chiến lược phát triển khoa học và cơng nghệ ngành văn hố, thể thao và du lịch giai
đoạn 2013-2020, tầm nhìn 2030. Theo đó, về phát triển nguồn nhân lực, sẽ “quy hoạch và đào tạo
phát triển nguồn nhân lực theo hướng đồng bộ, cân đối trên từng lĩnh vực, chuyên ngành phù hợp
mục tiêu Đề án “Xây dựng đội ngũ trí thức ngành văn hoá, thể thao và du lịch đến năm 2020” và
Chiến lược phát triển nguồn nhân lực văn hoá, thể thao và du lịch phục vụ cho nghiên cứu khoa
học, chuyển giao cơng nghệ. Khuyến khích các cơ sở đào tạo, các Viện khoa học ngoài Bộ Văn
4


hoá, Thể thao và Du lịch và các doanh nghiệp tham gia trực tiếp vào quá trình đào tạo nhân lực
khoa học và cơng nghệ trong lĩnh vực văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao và du lịch”. Trong lãnh
vực văn hóa, gia đình, sẽ “nghiên cứu các vấn đề về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa dân

tộc gắn với phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập quốc tế. Nghiên cứu các vấn đề về chính sách và
cơ chế quản lý nhằm thu hút đầu tư cho các lĩnh vực văn hóa nghệ thuật. Nghiên cứu về hoạt động,
tổ chức và biện pháp để phát triển đời sống văn hóa cộng đồng” [Trang thông tin điện tử Bộ VH,
TT & DL, 2014a].
Bên cạnh đó, đội ngũ trí thức của ngành văn hóa, thể thao và du lịch cũng thường xuyên
thực hiên các đề tài nghiên cứu mà mục đích là nâng cao kiến thức và năng lực thực tiễn cho cán bộ
viên chức trong ngành. Như đề tài cấp Bộ Nghiên cứu xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ quản lý ngành văn hóa thơng tin giai đoạn 2001-2010, do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ
trì, Trường Bồi dưỡng cán bộ quản lý Văn hóa, Thể thao và Du lịch thực hiện, và Vũ Hòa chủ
nhiệm (2000-2002); đề tài cấp Bộ Đổi mới phương pháp giảng dạy và chương trình đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ cơng chức ngành văn hóa thơng tin, do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì,
Trường Bồi dưỡng cán bộ quản lý Văn hóa, Thể thao và Du lịch thực hiện, và Vũ Hòa chủ nhiệm
(2002-2004); đề tài cấp Bộ Nghiên cứu nội dung, phương pháp bồi dưỡng cán bộ quản lý văn hóa
thơng tin cấp cơ sở, do Cơ quan Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, Trường Bồi dưỡng cán bộ
quản lý Văn hóa, Thể thao và Du lịch thực hiện, và Hoàng Thị Điệp chủ nhiệm (2007-2009). Đáng
lưu ý nhất là đề tài cấp Bộ Đào tạo cán bộ quản lý văn hóa bậc đại học cho các vùng dân tộc thiểu
số và miền núi Việt Nam, do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, Trường Đại học Văn hố Hà
Nội thực hiện, và Nguyễn Thị Phượng chủ nhiệm (2013-2014). Đề tài có “Mục tiêu: Nghiên cứu
tổng quan văn hóa các dân tộc thiểu số, những đặc điểm văn hóa các dân tộc. Về tình hình quản lý
văn hóa và các hoạt động văn hóa các dân tộc thiểu số hiện nay. Thực trạng đội ngũ cán bộ văn hóa
về số lượng chất lượng và nhu cầu đào tạo cán bộ của các cơ sở đến năm 2010. Những đánh giá về
khung chương trình hiện đang đào tạo và hướng đề nghị thay đổi. Kiến nghị với nhà nước, các Bộ,
Trường có liên quan về vấn đề đào tạo cán bộ quản lý văn hóa đáp ứng nhu cầu hiện nay. Nội dung:
Tổng quan văn hóa và tình hình quản lý văn hóa các dân tộc thiểu số ở nước ta; Thực trạng đội ngũ
cán bộ văn hóa vùng dân tộc thiểu số và miền núi; Những giải pháp và kiến nghị đối với vấn đề đào
tạo cán bộ văn hóa cho vùng miền núi, dân tộc thiểu số” [Trang thông tin điện tử Bộ VH, TT & DL,
2014b].
Như vậy, bên cạnh những thành quả, cơng tác đào tạo về văn hóa gắn với việc quy hoạch,
phát huy nhân lực ngành văn hóa phía nam thời gian qua vẫn cịn nhiều hạn chế. Những hạn chế ấy
đang đặt ra yêu cầu đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo, nghiên cứu khoa học về

văn hóa, nhằm đáp ứng yêu cầu thực tế hoạt động của ngành văn hóa và thực tiễn đời sống văn hóa
- xã hội trong bối cảnh chung hiện nay.
Trong số những yêu cầu đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo, nghiên cứu
khoa học về văn hóa, tơi cho rằng việc trang bị những tri thức hàn lâm cho đội ngũ cán bộ viên
chức văn hoá là rất quan trọng. Những tri thức hàn lâm ấy có dung lượng rất lớn, mà nền tảng đầu
tiên là những nhận thức mới và những cách tiếp cận mới đối với văn hoá tộc người, bao gồm văn
hoá các tộc người thiểu số.
Chẳng hạn, bao lâu nay, cán bộ viên chức ngành văn hoá vẫn quen gọi các tộc người (ethnic
group) là dân tộc, một khái niệm nhập nhằng, bất kể những nhận thức mới của các ngành dân tộc
học, văn hoá học. Theo quan niệm của các ngành này, tộc người là “một cộng đồng mang tính tộc
người có chung một tên gọi, một ngơn ngữ (trừ trường hợp cá biệt) được liên kết với nhau bằng
5


những giá trị sinh hoạt văn hoá, tạo thành một tính cách tộc người, có chung một ý thức tự giác tộc
người, tức có chung một khát vọng được cùng chung sống, có chung một số phận lịch sử thể hiện ở
những ký ức lịch sử (truyền thuyết, lịch sử, huyền thoại, kiêng cữ). Một tộc người không nhất thiết
phải có cùng một lãnh thổ, cùng một cộng đồng sinh hoạt kinh tế” [Đặng Nghiêm Vạn, 2003]. Như
vậy, tộc người khác với dân tộc hay quốc gia dân tộc (nation, state-nation). Dân tộc hay quốc gia
dân tộc là một cộng đồng chính trị xã hội, được chỉ đạo bởi một nhà nước, thiết lập trên một lãnh
thổ nhất định, có một tên gọi, một ngơn ngữ hành chính, một sinh hoạt kinh tế chung, với những
biểu tượng văn hoá chung tạo nên một tính cách dân tộc.
Nhiều người cũng mơ hồ về khái niệm văn hoá tộc người (ethnic culture), cũng là một khái
niệm cơ bản của dân tộc học và văn hoá học. Theo quan niệm của các ngành này, văn hoá tộc
người “là tổng thể các yếu tố về tiếng nói, chữ viết, sinh hoạt văn hố vật chất và văn hoá tinh thần,
các sắc thái tâm lý và tình cảm, phong tục và nghi lễ… khiến người ta phân biệt tộc người này với
tộc người khác, văn hoá tộc người là nền tảng nảy sinh và phát triển ý thức tộc người” [Ngô Đức
Thịnh, 1996]. Như vậy, văn hoá tộc người là những giá trị văn hoá vật chất và tinh thần đã trở
thành những biểu tượng sâu sắc in đậm trong tình cảm, tư tưởng của tộc người đó, và có tính chất
đặc trưng, khu biệt tộc người đó với những tộc người khác. Và trong các yếu tố tạo nên văn hố tộc

người thì ngơn ngữ của tộc người chính là loại yếu tố phải kể đến trước tiên. Chính vì vậy, trong
việc phân chia các tộc người trên một địa bàn, các nhà dân tộc học bao giờ cũng dựa trên sự phân
chia ngôn ngữ thành các nhóm, mà một vài nhà nghiên cứu gọi là sự phân chia nhóm ngơn ngữ tộc người. Trên thực tế, dấu hiệu đầu tiên báo hiệu một người hay một nhóm tộc người thiểu số bị
đồng hố vào tộc người khác, đó là đánh mất tiếng mẹ đẻ, ngôn ngữ của tộc người.
Một số người lại không hiểu hoặc hiểu không đúng đối với các khái niệm giao lưu văn hoá
(cultural exchange) và tiếp biến văn hoá (acculturation). Đó là những thuật ngữ chỉ hai loại quan
hệ: quan hệ giao lưu và tiếp biến văn hoá nội bộ giữa các chủ thể văn hoá của một vùng văn hoá
hoặc một quốc gia; và quan hệ giao lưu và tiếp biến văn hoá giữa các chủ thể văn hoá của một vùng
văn hoá hoặc một quốc gia với bên ngoài. Kết quả của cả hai loại quan hệ đó là sự tiếp thu những
yếu tố văn hố ngoại sinh và biến đổi những yếu tố văn hoá nội sinh của tộc người. Quan hệ giao
lưu tiếp biến văn hố giúp giải thích sự biến đổi của chủ thể văn hoá, hoạt động văn hoá và đặc
trưng văn hoá của hệ thống văn hố tộc người.
Đó cũng là những thuật ngữ chỉ hai cấp độ quan hệ: giao lưu văn hoá là tiền đề, là một hoạt
động thường xuyên trong bối cảnh văn hố đương đại; cịn tiếp biến văn hoá là hệ quả, là một diễn
biến cũng thường xun trong bối cảnh văn hố hơm nay. Nếu giao lưu văn hoá chỉ là trao đổi để
tăng cường hiểu biết và thoả mãn nhu cầu thưởng thức của công chúng, thì tiếp biến văn hố sẽ làm
biến đổi văn hoá tộc người. Một mặt, những yếu tố văn hoá du nhập từ bên ngoài sẽ được tiếp thu,
biến đổi thành những yếu tố văn hoá tộc người (để được chấp nhận, những yếu tố văn hố mới du
nhập khơng thể mâu thuẫn đối chọi với văn hoá truyền thống của tộc người); một mặt, bản thân nền
văn hoá tiếp nhận cũng sẽ biến đổi từng phần để thích ứng, dung hợp với những yếu tố văn hoá
mới. Như vậy, giao lưu văn hoá sẽ giúp cho các vùng văn hố và các tộc người có thêm các nguồn
lực ngoại sinh để tự điều chỉnh, cách tân, phát triển. Nếu tồn tại biệt lập, khơng giao lưu văn hố
với bên ngoài, các tộc người sẽ đối diện với nguy cơ suy thoái một khi các điều kiện địa lý tự nhiên
của vùng cư trú bị suy thoái sau một thời gian dài bị con người khai thác. Nhưng giao lưu và tiếp
biến văn hố cũng có mặt tiêu cực. Vì có tác dụng làm biến đổi văn hố tộc người, nên ở mức độ
cao nhất, sự giao lưu và tiếp biến văn hố cũng có thể dẫn tới sự đồng hố văn hố, làm tiêu vong
cả tộc người, hình thành tộc người mới. Nguy cơ này đặc biệt rõ ràng khi những yếu tố văn hoá

6



mới du nhập đi cùng với chủ nhân của chúng là một số lượng di dân áp đảo, có tiềm lực văn hố,
kinh tế và qn sự mạnh. Khi đó, sự giao lưu và tiếp biến văn hoá cưỡng bức đối với các tộc người
chủ thể văn hoá bản địa là khó tránh. Do đó, để giao lưu tiếp biến văn hố mà khơng bị diệt vong
văn hố, các tộc người cần phải có sức mạnh văn hố nội tại, đồng thời phải có khả năng chọn lọc,
chuyển hố những yếu tố văn hoá mới du nhập để bồi bổ cho sức mạnh văn hố nội tại của mình.
Đối với những tộc người thiểu số có đời sống vật chất quá cùng cực, những yêu cầu như vậy
thường là bất khả thi.
Tôi cũng nhận thấy rằng hầu hết cán bộ viên chức văn hoá đều rất xa lạ với những cách tiếp
cận khoa học khi làm công tác liên quan đến văn hoá tộc người. Chẳng hạn cách tiếp cận hệ thống
(systematic approach), rất phổ biến trong khoa học xã hội và nhân văn hiện đại. Cách tiếp cận này
được diễn giải khác nhau ở những nhà nghiên cứu khác nhau. Theo cách hiểu của tôi, cách tiếp cận
hệ thống là cách tiếp cận rất phù hợp, bắt buộc phải vận dụng khi nghiên cứu, xử lý các nội dung,
vấn đề thuộc văn hoá tộc người. Bởi lẽ đơn giản: văn hoá tộc người vốn là hệ thống. Theo cách tiếp
cận này, văn hoá tộc người, văn hoá vùng là những hệ thống văn hoá (cultural system) mà cấu trúc
của nó bao gồm ba yếu tố có quan hệ hữu cơ: chủ thể văn hoá, văn hoá vật thể, văn hố phi vật thể.
Mơ hình hệ thống văn hố

Chủ thể văn hoá (cultural subjects): bao gồm các tộc người, các cộng đồng người cư trú
trong một khơng gian văn hố và có các hoạt động văn hố, truyền thống văn hố góp phần làm nên
các đặc trưng văn hố của khơng gian ấy. Các thuộc tính của chủ thể văn hố có thể bao gồm: thành
phần tộc người, ngơn ngữ, giai cấp, tầng lớp xã hội, học vấn, nghề nghiệp, truyền thống văn hoá, ý
thức hệ, thế giới quan, nhân sinh quan, tâm lý, tính cách, lối sống, đạo đức, v.v. Vai trị của chủ thể
văn hố trong các hệ thống văn hoá rất quan trọng. Trong một hệ thống, quan hệ tương tác giữa các
yếu tố là quan hệ tác động hai chiều: quy định lẫn nhau, giới hạn lẫn nhau; và bổ sung cho nhau,
phối hợp với nhau. Trong các hệ thống văn hoá, sự bổ sung, phối hợp với nhau giữa các yếu tố tạo
7


ra năng lực tự thân tiến hoá của từng yếu tố và của toàn hệ thống. Nếu như đã phối hợp với nhau rồi

mà các yếu tố vẫn không thỏa mãn được nhu cầu, thì chủ thể văn hố sẽ nỗ lực sáng tạo hoặc vay
mượn, sao phỏng từ nền văn hố khác, đào thải dần những yếu tố ít hiệu năng. Nói cách khác, chủ
thể văn hố là yếu tố quyết định khả năng vận động và biến đổi của tồn hệ thống. Chủ thể văn hố
mạnh thì lực hướng tâm và tính cố định của hệ thống tăng lên. Chủ thể văn hố yếu thì lực ly tâm
và tính khả biến của hệ thống tăng lên.
Văn hố vật thể (tangible culture): bao gồm những yếu tố văn hoá có thể tiếp xúc được, như
văn hố mưu sinh, văn hoá ẩm thực, văn hoá phục sức, văn hoá cư trú, văn hố kiến trúc, văn hố
giao thơng… Tuỳ theo mục đích nghiên cứu, các yếu tố này có thể được chia nhỏ hơn nữa hoặc
được gộp lại thành những nhóm lớn hơn. Do mang đặc tính vật thể, đây là những yếu tố dễ biến đổi
dưới tác động của mơi trường văn hố.
Văn hố phi vật thể (intangible culture): bao gồm những yếu tố văn hố khơng thể tiếp xúc
và tương tác trực tiếp, như văn hoá tổ chức cộng đồng, văn hố tín ngưỡng, văn hố phong tục, văn
hố lễ hội, văn học, nghệ thuật, ngơn ngữ, văn hố giao tiếp, văn hố chính trị, văn hố qn sự,
văn hố ngoại giao… Tuỳ theo mục đích nghiên cứu, các yếu tố này có thể được chia nhỏ hơn nữa
hoặc được gộp lại thành những nhóm lớn hơn. Do mang đặc tính phi vật thể, đây là những yếu tố
gắn chặt với chủ thể văn hoá và tương đối khó biến đổi dưới tác động của mơi trường văn hố. Vì
vậy, đây cũng là nơi thể hiện, bảo tồn bản sắc văn hoá, linh hồn dân tộc tương đối lâu bền.
Cần lưu ý là văn hoá vật thể và văn hoá phi vật thể, tuy hai mà một, thường quy định lẫn
nhau, hoà quyện với nhau và được thể hiện đồng thời trong các hoạt động văn hoá (cultural
activities) của các cộng đồng người. Hoạt động văn hoá bao gồm các hoạt động sáng tạo văn hoá,
tiếp biến văn hoá và thực hành văn hoá, giúp chủ thể văn hoá sinh tồn và phát triển. Để tiến hành
các hoạt động này, chủ thể văn hoá sẽ vận dụng các kinh nghiệm, tri thức, giá trị, di sản, kỹ thuật,
vật liệu, công cụ, phương tiện, phương thức sử dụng… đã được họ thụ đắc, kế thừa, để tạo ra các
sản phẩm văn hoá (cultural products). Nếu các sản phẩm ấy đáp ứng mục đích, nhu cầu, lợi ích của
cộng đồng thì sẽ được cộng đồng tiếp nhận, phổ biến, truyền lưu, để từ đó tạo ra giá trị văn hố
(cultural values) và truyền thống văn hoá (cultural traditions). Khi tiến hành các hoạt động văn hoá
như vậy, chủ thể văn hố chịu sự tác động của mơi trường văn hố và những truyền thống văn hố
của chính mình, nên các hoạt động văn hố của họ có thể có những bản sắc văn hoá (cultural
identities) riêng, đặc trưng văn hoá (cultural characteristics) riêng, phân biệt được với những hệ
thống văn hoá khác. Đặc trưng văn hoá là những biểu hiện có tính đặc trưng của hệ thống văn hố.

Mỗi yếu tố hợp thành hệ thống văn hố và mơi trường văn hố đều có thể có một số đặc trưng.
Trong đó, đáng chú ý nhất là những đặc trưng thuộc về văn hoá mưu sinh, văn hoá tổ chức cộng
đồng, văn hố tín ngưỡng, bởi vì đây là những phương tiện sinh tồn quan trọng bậc nhất của con
người, cũng là những yếu tố quan trọng bậc nhất giúp cho một hệ thống văn hoá tồn tại được.
Trong một số ngành khoa học xã hội và nhân văn hiện đại, cũng rất phổ biến cách tiếp cận
địa văn hoá (approach of cultural geography). Cách tiếp cận này cũng được diễn giải khác nhau ở
những nhà nghiên cứu khác nhau. Theo chúng tơi, cách tiếp cận địa văn hố là cách tiếp cận xem
xét sự hình thành và biến đổi của văn hoá truyền thống các tộc người và văn hoá các vùng miền
trong tương quan với hai nhân tố: điều kiện địa lý tự nhiên và điều kiện giao lưu văn hoá.
Điều kiện địa lý tự nhiên (physical geography) cung cấp nguyên liệu, phương tiện đồng thời
quy định cách thức thích nghi, ứng phó của con người đối với tự nhiên và xã hội để duy trì cuộc
sống, là nhân tố ngun sơ làm hình thành văn hố tộc người. Những yếu tố tự nhiên của một vùng
đất (phạm vi khơng gian, địa hình, thổ nhưỡng, khí hậu, thuỷ văn, sinh thái, những biến đổi của môi
8


trường, v.v.) có liên quan đến hoạt động văn hố của tộc người sẽ hợp thành khơng gian văn hố
(cultural space) của tộc người. Nghĩa là không phải tất cả yếu tố của địa lý tự nhiên trong một
phạm vi khơng gian nào đó đều cấu thành khơng gian văn hoá mà chỉ những yếu tố của tự nhiên đã
được một cộng đồng người nhận thức, định danh, khai thác, cải biến hay huỷ hoại, mới hợp thành
không gian văn hố của họ. Khơng gian văn hố của một vùng văn hố thường có điều kiện địa lý
tự nhiên tương đối đồng nhất. Vì khơng gian văn hố ấy cung cấp các điều kiện tự nhiên để tộc
người có thể tiến hành các hoạt động văn hố, nên nó là nhân tố góp phần làm hình thành đặc trưng
văn hố của các hệ thống văn hoá tộc người và văn hố vùng.
Cịn điều kiện giao lưu văn hố (cultural exchange) được quy định bởi những yếu tố của
điều kiện địa lý tự nhiên như vị trí địa lý, địa hình. Những vùng đất có điều kiện địa lý tự nhiên
thống mở như vị trí tiếp giáp các tuyến đường giao thương, địa hình thảo ngun hoặc đồng bằng
châu thổ khơng bị biển rộng núi cao chia cắt, cơ hội giao lưu văn hoá nội vùng và giao lưu văn hoá
với bên ngoài sẽ gia tăng. Ngược lại, những vùng đất có điều kiện địa lý tự nhiên biệt lập như vị trí
địa lý tách biệt khỏi các tuyến đường giao thương, địa hình đồi núi hoặc hải đảo bị biển rộng núi

cao chia cắt, cơ hội giao lưu văn hoá nội vùng và giao lưu văn hố với bên ngồi sẽ giảm đi. Thơng
thường, giao lưu văn hố sẽ được khởi đầu bằng trao đổi thương mại và tôn giáo. Qua đó, nó cung
cấp cho con người những nguyên liệu, phương tiện, cách thức thích nghi, ứng phó mới, làm giàu,
làm mới hành trang văn hoá của họ trên những chặng đường cải biến tự nhiên và xã hội để sinh tồn
và phát triển. Giao lưu văn hoá là tiền đề của tiếp biến văn hoá (acculturation), tức là tiếp thu, biến
đổi những yếu tố văn hoá ngoại sinh thành những yếu tố văn hoá tộc người, đồng thời biến đổi văn
hố tộc người để thích ứng với những yếu tố văn hoá mới. Nếu giao lưu văn hoá chỉ là trao đổi để
tăng cường hiểu biết và thoả mãn nhu cầu của con người, thì tiếp biến văn hố sẽ làm biến đổi văn
hoá tộc người.
Hai nhân tố địa lý tự nhiên và giao lưu văn hoá là tiền đề của văn hoá tộc người và văn hoá
vùng, nên khi chúng biến đổi, văn hoá tộc người và văn hoá vùng sẽ tất yếu biến đổi. Trong thực
tiễn, hai nhân tố ấy không đồng nhất giữa các vùng miền, và khơng bất biến trong lịch sử. Do đó,
các ngun liệu, phương tiện, cách thức thích nghi, ứng phó với tự nhiên và xã hội mà hai nhân tố
ấy cung cấp cho con người ở các vùng miền khác nhau và ở những giai đoạn khác nhau, tất yếu
phải khác nhau. Điều đó giải thích vì sao, cho dù cùng một tộc người, nhưng cư trú trên những
vùng địa lý khác nhau, có q trình giao lưu văn hố khác nhau, cũng có thể làm hình thành những
nhóm địa phương có đặc trưng văn hố và ngơn ngữ khác nhau. Ngược lại, cho dù khác tộc người,
nhưng cư trú trên cùng một địa bàn, có q trình giao lưu văn hố mật thiết với nhau, cũng có thể
làm hình thành những nhóm trung gian có những đặc trưng văn hố và ngơn ngữ chung, biến đổi từ
văn hố và ngơn ngữ của các tộc người tổ tiên.
Nói tóm lại, điều kiện địa lý tự nhiên là tiền đề hình thành khơng gian văn hố; và điều kiện
giao lưu văn hố là tiền đề của tiếp biến văn hoá. Cư trú trong một khơng gian văn hố, tuỳ theo
nhu cầu và năng lực sáng tạo của mình, các chủ thể văn hố có thể khai thác các yếu tố của tự nhiên
như là nguồn nguyên liệu, phương tiện để làm ra văn hoá. Và cùng với năng lực sáng tạo của mình,
các chủ thể văn hố có thể lựa chọn, tiếp biến những tri thức, phương pháp, phương tiện, nguyên
liệu mới và cả những nhu cầu mới thông qua sự tiếp xúc với các cộng đồng cư dân lân cận, để đổi
mới, nâng cao nền văn hố của mình. Do đó, khơng gian văn hố và giao lưu tiếp biến văn hố
đóng vai trị như là hai nhân tố hợp thành một mơi trường văn hố (cultural environment) mà trong
đó, nền văn hố của các cộng đồng người hình thành, vận động và biến đổi. Nền văn hoá của một
cộng đồng người mang tính chất tĩnh tại hay năng động, biến đổi chậm chạp hay nhanh chóng, mức


9


độ biến đổi ít hay nhiều, phụ thuộc một phần vào khơng gian văn hố và q trình giao lưu tiếp
biến văn hoá mà cộng đồng người ấy đã trải qua. Phần cịn lại, nó phụ thuộc vào khả năng sáng tạo
và khả năng lựa chọn của chủ thể văn hố trước những tác động đến từ mơi trường văn hoá ấy.
Cũng rất phổ biến trong khoa học xã hội và nhân văn hiện đại là cách tiếp cận liên ngành
(interdisciplinary approach). Cách tiếp cận này cũng được diễn giải khác nhau ở những nhà nghiên
cứu khác nhau. Theo chúng tôi, cách tiếp cận liên ngành là sự tổng hợp các tri thức từ các ngành
khác nhau liên quan đến vấn đề nghiên cứu để có thể tìm hiểu, xử lý nó một cách tồn diện. Trong
nghiên cứu văn hố, cách tiếp cận liên ngành đòi hỏi người nghiên cứu phải phối hợp kết quả thu
thập tư liệu văn hoá của mình với các kết quả nghiên cứu của các ngành khoa học liên quan: văn
hoá học, dân tộc học, nhân học, xã hội học, sử học, khảo cổ học, văn học, ngôn ngữ học, ký hiệu
học, địa lý học, sinh học…
Theo Phạm Đức Dương, cách tiếp cận liên ngành là trên cơ sở tri thức của một ngành khoa
học nhất định, người nghiên cứu vận dụng thêm ít nhiều tri thức của những ngành khoa học khác,
hoặc vận dụng đồng thời tri thức của nhiều ngành khoa học khác nhau. “Phương pháp liên ngành là
tiếp cận một đối tượng bằng nhiều cách thức, dựa trên cứ liệu của nhiều chuyên ngành. Có ba mức
độ liên ngành: Dùng phương pháp của một ngành ứng dụng vào các ngành khác. Thí dụ khảo cổ
học dùng phương pháp xác định niên đại bằng hàm lượng đồng vị phóng xạ C14 của địa chất học.
Ngôn ngữ học dùng hàm lượng từ cơ bản để xác định niên đại chia tách các ngôn ngữ, các ngôn
ngữ họ hàng gần và họ hàng xa. Đây là phương pháp sơ đẳng nhất của nghiên cứu liên ngành.
Dùng lý thuyết của ngành A áp dụng vào các ngành B, C, D để xem xét hiệu quả. Nếu thấy đúng thì
lý thuyết ấy có giá trị phổ biến, có thể tin cậy được. Thí dụ lý thuyết làn sóng của vật lý học: những
làn sóng càng gần nơi phát sinh ra lực thì càng mạnh, càng xa thì càng yếu, được áp dụng vào sinh
học, từ đó phát hiện rằng các giống cây trồng càng gần trung tâm càng biến đổi nhiều, càng xa
trung tâm càng ít biến đổi. Trong ngôn ngữ học, việc áp dụng lý thuyết làn sóng làm hình thành lý
thuyết tâm-biên: Càng ở ngoại biên, các phương ngữ càng bảo lưu nhiều yếu tố cổ. Người Việt ở
Paris bảo thủ hơn người Việt ở Hà Nội. Trong nước khơng cịn gọi những người Việt vượt biên

trước đây là “thuyền nhân” mà gọi là Việt kiều, nhưng người Việt ở nước ngồi vẫn cịn lưu giữ
những quan niệm và ngôn từ của thời kỳ ấy, v.v. Tìm những điểm nổi trội, giao thoa giữa các
ngành khoa học. Các ngành khoa học thường có điểm chung nhau, giao thoa với nhau. Thí dụ, tiếp
xúc văn hố giúp phát hiện những dấu ấn, những yếu tố văn hoá nội sinh và ngoại sinh tác động lẫn
nhau. Trong văn hoá Việt Nam, các các yếu tố ngoại sinh được Việt Nam hố, cịn các yếu tố nội
sinh được hiện đại hoá. Văn hoá dân gian và văn hoá bác học không tách rời nhau như quan điểm
nhị nguyên. Thí dụ, dịng nhạc trữ tình trước đây bị cấm, nay tồn tại song hành với dòng nhạc hành
khúc, trong khi âm nhạc dân tộc được hiện đại hố. Tính dân tộc và tính hiện đại có cả trong các
yếu tố nội sinh và các yếu tố ngoại sinh” [Phạm Đức Dương, 2011].
Cũng rất phổ biến trong khoa học xã hội và nhân văn hiện đại là cách tiếp cận khách quan
(objective approach). Cách tiếp cận này đòi hỏi người nghiên cứu và người quản lý phải có một
quan điểm khách quan, tôn trọng sự khác biệt, tôn trọng những giá trị văn hố, truyền thống văn
hố, ngơn ngữ của các tộc người, các quốc gia. Điều đó có nghĩa là chúng ta khơng được có cái
nhìn kỳ thị, khơng được lấy một nền văn hố, một ngơn ngữ nào làm tiêu chuẩn để nhận thức, đánh
giá một nền văn hố, một ngơn ngữ khác, khắc phục quan điểm dĩ Âu vi trung (Eurocentrism) trong
nghiên cứu khoa học và quản lý văn hoá. Hiện nay, đây là quan điểm được nhất trí rất cao trong các
nhà nhân học, dân tộc học, ngơn ngữ học, văn hố dân gian, văn hố học… khi nói đến một nền văn
hố khác, một ngơn ngữ khác với tư cách là đối tượng nghiên cứu của mình.

10


5. GIẢI PHÁP VỀ ỨNG XỬ ĐỐI VỚI VĂN HOÁ CÁC TỘC NGƯỜI THIỂU SỐ
Đi đơi với cái nhìn hệ thống, cán bộ viên chức ngành văn hố cần có những giải pháp có
tính hệ thống trong cơng tác quản lý, bảo tồn, phát huy di sản văn hoá các tộc người thiểu số. Bởi vì
văn hố tộc người là những hệ thống bao gồm những yếu tố có quan hệ tương tác với nhau và với
mơi trường văn hố. Chẳng hạn, khi xem xét vấn đề nhà sàn dài và văn hoá cư trú của các tộc
người Tây Nguyên, cần phải xem đó là những yếu tố văn hố vật thể có mối quan hệ tương tác mật
thiết với mơi trường văn hố (khơng gian văn hố, giao lưu tiếp biến văn hoá), chủ thể văn hoá (tộc
người), các hoạt động văn hoá vật thể (mưu sinh, ẩm thực, kiến trúc), và các hoạt động văn hoá phi

vật thể (tổ chức cộng đồng, tín ngưỡng, lễ hội, nghệ thuật). Do đó, khơng thể bảo tồn, phát huy di
sản nhà sàn dài bằng cách kêu gọi phục hồi hoặc xây dựng nhà dài đem tặng, tách nhà sàn dài ra
khỏi các chức năng truyền thống của nó.
Đi đơi với cái nhìn khách quan khoa học, cán bộ viên chức ngành văn hố cần có những
cách ứng xử tơn trọng sự khác biệt, tơn trọng văn hố các tộc người thiểu số, khơng vận động xố
bỏ hoặc ngăn cấm việc thực hành các hoạt động văn hoá truyền thống của các tộc người này.
Đối với văn hoá mưu sinh của các tộc người thiểu số, cần tôn trọng quyền sở hữu cộng
đồng của các buôn làng đối với núi rừng là không gian sinh tồn của các tộc người thiểu số. Xố bỏ
cái quyền ấy có nghĩa là đập tan các tổ chức cộng đồng truyền thống của các tộc người này. Cần
gắn kết việc bảo tồn, phát huy giá trị các di sản thiên nhiên và di sản văn hoá với các tộc người sở
tại, phục vụ đồng thời lợi ích của nhà nước, nhà đầu tư và cư dân địa phương. Cần hiện đại hoá sản
xuất, phát triển theo hướng thủ công mỹ nghệ và trợ vốn cho các nghề thủ công truyền thống của
các tộc người thiểu số.
Đối với văn hoá cư trú của các tộc người thiểu số, cần ứng xử đối với nhà ở, nhà cộng
đồng, nhà dài, cồng chiêng... của các tộc người thiểu số như những phương tiện thực hành các
hoạt động văn hoá phi vật thể và bảo tồn các giá trị văn hoá phi vật thể. Muốn bảo tồn những thiết
chế vật chất ấy, trước hết phải bảo tồn được cái linh hồn của nó là tổ chức cộng đồng và tín ngưỡng
truyền thống của các tộc người thiểu số, chứ không đơn giản là xây nhà, đúc cồng chiêng, v.v. đem
tặng họ.
Đối với văn hoá tổ chức cộng đồng của các tộc người thiểu số, cần khơi phục vai trị của
các tổ chức cộng đồng cơ sở truyền thống và tôn trọng cơ chế tự quản của các tổ chức cộng đồng
cơ sở, phối hợp giữa cấp chính quyền cơ sở với các tổ chức cộng đồng cơ sở truyền thống trong
việc điều hành và xử lý các sự vụ của cộng đồng. Cần chấm dứt việc vận động, khuyến khích các
tộc người thiểu số từ bỏ chế độ gia đình mẫu hệ, song hệ để theo phụ hệ cho giống Việt. Chấm dứt
việc bắt buộc hoặc khuyến khích các tộc người thiểu số đồng loạt chọn họ của người Việt để đặt họ
tên cho giống Việt.
Đối với văn hố tín ngưỡng của các tộc người thiểu số, cần hiểu cho đúng để phân biệt tơn
giáo tín ngưỡng với mê tín dị đoan, phân biệt tơn giáo tín ngưỡng với tổ chức tơn giáo, khơng tuỳ
tiện dán nhãn mê tín dị đoan cho một số tơn giáo tín ngưỡng để lên án, bài trừ; hoặc không thừa
nhận, không quản lý một số tơn giáo tín ngưỡng vì lẽ chưa có quyết định cơng nhận đó là một tổ

chức tơn giáo. Cần hỗ trợ các tộc người thiểu số trong nỗ lực củng cố, chính quy hố các tơn giáo
cổ truyền như một yếu tố cơ bản của văn hoá tộc người.
Đối với văn hoá phong tục của các tộc người thiểu số, cần tận dụng sức mạnh của các

11


phong tục tập quán truyền thống, kết hợp với sự điều chỉnh bằng luật pháp.
Đối với văn hoá lễ hội của các tộc người thiểu số, cần chấm dứt việc tạo ra các lễ hội hiện
đại mượn danh lễ hội truyền thống, sân khấu hoá nghệ thuật dân gian để làm thành sản phẩm du
lịch và thương mại nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Đối với văn học nghệ thuật của các tộc người thiểu số, cần khôi phục, phát huy giá trị của
dân ca dân vũ trong du lịch, phát triển các loại hình du lịch sinh thái, du lịch văn hố, du lịch cộng
đồng.
Đối với ngơn ngữ, văn tự của các tộc người thiểu số, cần xem xét tận dụng các bộ chữ đã
có, khuyến khích phổ cập chữ viết dân tộc và giáo dục song ngữ cho học sinh dân tộc . Cần có cái
nhìn và cách xử lý khoa học, dân tộc, đại chúng, tác động, định hướng theo hướng gắn vấn đề chữ
viết với mục đích bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá tộc người.
6. KẾT LUẬN
Tộc người Việt là chủ thể văn hố chính của tồn bộ khơng gian văn hố Việt Nam, nhưng
chính các tộc người thiểu số đóng vai trị quyết định trong sự hình thành các vùng văn hố, và đem
lại cho văn hố Việt Nam tính chất thống nhất trong đa dạng. Khơng chỉ thế, các tộc người thiểu số
cịn góp phần làm giàu cho văn hoá Việt, gia tăng khả năng năng thích ứng để cho nó có thể trường
tồn. Kể từ khi chia tách khỏi khối Việt-Mường vào cuối thời Bắc thuộc, nền văn hoá Việt đã tiếp
tục trải qua nhiều chặng đường tiếp biến với các nền văn hoá Hán, Chăm, Hoa, Khmer, Pháp, v.v.
Những lần biến đổi lớn trong lịch sử đã làm cho văn hoá Việt tách khỏi cội nguồn của nó rất xa,
nhưng cũng chính nhờ đó mà sức mạnh tinh thần và vật chất của văn hoá Việt đã được đổi mới và
được vun bồi những yếu tố cần thiết để cho nó có thể thích ứng với những bối cảnh và thách thức
mới. Nhờ có nội lực văn hố mạnh, tích hợp từ các tộc người cộng cư, tộc người Việt đã có thể chủ
động tiếp thu, cải biến các yếu tố văn hoá ngoại sinh để làm giàu vốn văn hoá của mình, phát triển

và bảo vệ quốc gia dân tộc.
Cho nên, càng tơn trọng văn hố Việt, chúng ta càng phải tơn trọng văn hố của các tộc
người thiểu số anh em. Trong bối cảnh hiện đại hố và tồn cầu hoá văn hoá hiện nay, các nhà khoa
học và các nhà lãnh đạo, quản lý cần quan tâm nhiều hơn nữa đối với vấn đề bảo tồn, phát triển văn
hoá các tộc người thiểu số trên các vùng miền đất nước. Để có được quan điểm, chính sách đúng
đắn đối với văn hoá các tộc người thiểu số, cần phải hiểu biết và tôn trọng đối với các giá trị và các
truyền thống văn hố mà các tộc người tơn trọng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Nghiêm Vạn (2003), Cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia TP.

Hồ Chí Minh.
2. Lý Tùng Hiếu (2012a), Văn hố Trường Sơn - Tây Nguyên, giáo trình đại học biên soạn cho

Khoa Văn hoá học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP. Hồ
Chí Minh.
3. Lý Tùng Hiếu (2012b), “Văn hố và hệ thống văn hố”, Tạp chí Khoa học Văn hố và Du lịch,

ISSN: 1859-3720; số 7 (61), 11/2012, trang 19-28; ,
12/12/2012.
12


4. Lý Tùng Hiếu (2015), Các vùng văn hoá Việt Nam, giáo trình đại học biên soạn cho Trường Đại

học Văn hố TP. Hồ Chí Minh.
5. Ngơ Đức Thịnh (1996), “Các sắc thái văn hoá tộc người”, Văn hoá học đại cương và cơ sở văn

hoá Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội.
6. Phạm Đức Dương (2011), “Văn hoá, đối tượng văn hoá và phương pháp nghiên cứu liên


ngành”, báo cáo chuyên đề tại Khoa Văn hoá học, Trường Đại học Văn hố TP. Hồ Chí Minh,
Lý Tùng Hiếu lược ghi, www.vanhoahoc.edu.vn, 9/9/2011.
7. Trang thông tin điện tử Bộ Văn hố, Thể thao và Du lịch (2014a), nmt-

bvhttdl.vn/article/intro/1665.
8. Trang thơng tin điện tử Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch (2014b), nmt-

bvhttdl.vn/theme/details.
9. Tuấn Khang (2010), “Xây dựng đội ngũ trí thức ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch”,

02/07/2010.
-------------------------------------------------------------------------------------------------------TÓM TẮT
Từ những kinh nghiệm thực tiễn, tác giả nêu lên những hạn chế về nhận thức và ứng xử đối
với văn hoá các tộc người thiểu số trong một số cán bộ viên chức ngành văn hoá theo cảm nhận của
tác giả; những thách thức đối với văn hoá các tộc người thiểu số phía nam trong bối cảnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hố và tồn cầu hố. Từ đó, tác giả gợi ý những giải pháp về nhận thức và về
ứng xử của cán bộ viên chức ngành văn hoá đối với văn hoá các tộc người người thiểu số hiện nay.
ABSTRACT
Awareness and behavior towards culture of the ethnic minorities - reality and solutions
From practical experiences, the author points out the limitations of perception and behavior
towards culture of ethnic groups in a number of cultural servants in accordance with the knowledge
of the author; the challenges for culture of ethnic minorities in south Vietnam in the context of
industrialization, modernization and globalization. Since then, the author suggests the solutions of
awareness and behavior for cultural servants towards culture of ethnic minorities today.
------------------------------------------------------------------------------------------------------------Nguồn:
- Lý Tùng Hiếu (2014), “Nhận thức và ứng xử đối với văn hố các tộc người thiểu số phía nam –
thực trạng và giải pháp”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Đào tạo, nghiên cứu văn hoá ứng dụng với
thực tiễn hoạt động văn hố khu vực phía nam, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại
học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh & Cục Cơng tác phía nam, Bộ Văn hố, Thể thao và Du lịch tổ
chức, TP. Hồ Chí Minh, 31/10/2014, trang 174-186.

- Lý Tùng Hiếu (2015), “Văn hoá các tộc người thiểu số: vấn đề nhận thức và ứng xử”, Tài liệu Hội
thảo “40 khoa học xã hội Nam Bộ (1975-2015)”, Tập 2, Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ tổ
chức, TP. Hồ Chí Minh, 19/9/2015, trang 523-539.

13



×