Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

VIỆT bắc tố hữu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.33 KB, 13 trang )

VIỆT BẮC
-

Tố Hữu –

PHẦN MỘT: TÁC GIẢ
1.Vài nét về tiểu sử:
-Tố Hữu (1920-2002), tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành, quê Thừa Thiên Huế.
-1938, được kết nạp vào Đảng cộng sản, từ đó sự nghiệp thơ ca gắn liền với sự nghiệp
cách mạng của ông. Tố Hữu từng từng giữ nhiều trọng trách trong bộ máy lãnh đạo
của Đảng và Chính phủ.
-Ơng được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật 1996.
2. Đường cách mạng – đường thơ:
-Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền văn học cách mạng Việt Nam. Các
chặng đường thơ của Tố Hữu ln gắn bó và phản ánh chân thật những chặng đường
cách mạng đầy gian khổ, hi sinh nhưng cũng nhiều thắng lợi vinh quang của dân tộc.
Đồng thời cũng là những chặng đường thể hiện sự vận động trong quan điểm, tư
tưởng và bản lĩnh nghệ thuật của chính nhà thơ:
+Chặng đường đầu tiên với tập thơ “Từ ấy” (1937-1946). Đây là chặng đường đánh
dấu bước trưởng thành của người thanh niên yêu nước, quyết tâm đi theo ngọn cờ của
Đảng.
+Chặng đường kháng chiến chống Pháp với tập thơ “Việt Bắc” (1946-1954). Đây là
khúc ca hùng tráng, thiết tha về cuộc kháng chiến.
+Chặng đường thứ ba với tập thơ “Gió lộng” (1955-1961). Cảm hứng dạt dào, suy
ngẫm về quá khứ, cảm xúc hân hoan về công cuộc xây dựng cuộc sống mới ở miền
Bắc, nỗi đau chia cắt và tình cảm sâu nặng với miền Nam ruột thịt.
+Chặng đường chống Mỹ với hai tập thơ “Ra trận” (1962-1971), “Máu và hoa”
(1972-1977). Âm vang, khí thế quyết liệt, hào hùng của cuộc kháng chiến chống Mĩ
cứu nước và niềm vui toàn thắng.
+Chặng đường sau khi đất nước thống nhất với hai tập thơ “Một tiếng đờn” (1992),
“Ta với ta” ( 1999). Đánh dấu bước chuyển biến mới trong thơ Tố Hữu, với nhiều cảm


xúc, chiêm nghiệm, suy tư.
3.Phong cách thơ Tố Hữu:
-Về nội dung: Thơ Tố Hữu mang đậm tính chất trữ tình – chính trị:
+Hồn thơ ln hướng đến cái ta chung, với lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của
con người cách mạng của cả dân tộc.
+Thơ Tố Hữu mang đậm tính sử thi: Cảm hứng chủ đạo là cảm hứng lịch sử - dân tộc.
Nổi bật trong thơ Tố Hữu là vấn đề vận mệnh cộng đồng. Những tư tưởng, tình cảm
và vấn đề lớn lao, được nhà thơ thể hiện qua giọng thơ mang tính chất tâm tình, tự
nhiên, đằm thắm.
-Về nghệ thuật: Thơ Tố Hữu đậm tính dân tộc: Thể thơ lục bát truyền thống, sử dụng
ngơn ngữ, cách nói dân gian và phát huy cao độ tính nhạc phong phú của tiếng Việt.


PHẦN HAI: TÁC PHẨM “VIỆT BẮC”
( Trích )
I.GIỚI THIỆU:
1.Hồn cảnh sáng tác:
Việt Bắc trong những năm kháng chiến là cơ quan đầu não, là căn cứ địa cách
mạng. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ – ne – vơ được kí kết, hịa bình
được lập lại, miền Bắc được giải phóng. Tháng 10/1954, những người kháng chiến từ
căn cứ miền núi về miền xuôi, trung ương Đảng và Chính Phủ rời Việt Bắc về Hà Nội.
Nhân sự kiện lịch sử ấy, Tố Hữu sáng tác bài thơ này và được in trong tập “Việt Bắc”.
Bài thơ gồm hai phần: Đoạn trích sách giáo khoa thuộc phần đầu –Tái hiện những kỉ
niệm cách mạng và kháng chiến.
2.Chủ đề:
Qua việc tái hiện cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ mà hào hùng, nhà thơ ca
ngợi tình nghĩa sâu nặng, thủy chung của người Việt Bắc đối với cách mạng. Từ đó
bài thơ vẽ ra viễn cảnh tươi đẹp của đất nước hịa bình trong mối tình gắn bó thủy
chung của miền xi – miền ngược và lịng biết ơn sâu nặng đối với Đảng, với Bác
Hồ của nhân dân ta.

3.Thể loại, kết cấu:
- Thể thơ lục bát ngọt ngào như ca dao, phù hợp với khung cảnh chia tay.
- Kết cấu theo lối hát đối đáp giao duyên, nhằm diễn đạt tâm tình người đi – kẻ ở.
- Cặp đại từ nhân xưng “mình-ta”, trong ca dao dùng để thể hiện tình u đơi lứa. Cịn
trong “Việt Bắc” nhằm để thể hiện sự gần gũi, thân mật, gắn bó khơng thể tách rời,
giữa cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc.
- Cảm xúc chủ đạo của bài thơ là sự lưu luyến, nhớ nhung, được thể hiện ở điệp từ
“nhớ” và các từ ngữ thể hiện tâm trạng của tình yêu như “thiết tha, mặn nồng, bâng
khuâng”…, làm cho chuyện tình nghĩa của cách mạng đến với lịng người thật nhẹ
nhàng, êm ái.
II. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:
1.Tâm tình buổi chia tay ( khổ 1 và khổ 2 – 8 câu đầu):
a.Lời người ở lại (Khổ 1):
“ Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ khơng
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sơng nhớ nguồn?”
Ở đoạn thơ này “mình” là cán bộ cách mạng, “ta” là nhân dân Việt Bắc. Bằng
hàng loạt câu hỏi tu từ “mình có nhớ ta”?, “mình có nhớ không”?, vang lên một cách


day dứt, chứng tỏ người ở lại nhạy cảm với hoàn cảnh đổi thay, nên lên tiếng trước để
ướm hỏi người cán bộ cách mạng, khi về tiếp quản thủ đơ Hà Nội có cịn nhớ Việt Bắc
chăng?
Người ở lại nhắc người ra đi hãy nhớ thời gian mười lăm năm, thời gian ấy mang
âm hưởng ca dao và nghệ thuật trong truyện Kiều, cùng với từ láy “thiết tha”, gợi cho
người đọc liên tưởng đây là thời gian riêng của tình u đơi lứa. Nhưng đó lại chính là
thời gian cách mạng từ 1940 khởi nghĩa Bắc Sơn, đến 1954 hịa bình lập lại. Đây là
khoảng thời gian nhân dân Việt Bắc và cán bộ Việt Minh gắn bó máu thịt để cùng
nhau kháng chiến chống thực dân Pháp và phát xít Nhật.

Người ở lại nhắc nhở người ra đi, khi về tiếp quản thủ đô Hà Nội hãy nhớ khơng
gian Việt Bắc. Đó là một vùng căn cứ địa cách mạng, được thể hiện ở hình ảnh liên
tưởng “ Nhìn cây nhớ núi, nhìn sơng nhớ nguồn”, đây cịn là cách nói hồn nhiên, chân
thật của người miền núi, nhằm nhắc người cán bộ cách mạng khi về Hà Nội nhìn cây
Hà Nội nhớ núi rừng Việt Bắc, nhìn sơng ở Hà Nội nhớ suối nguồn Việt Bắc. Ngồi ra
“cây, núi, sơng, nguồn” là những hình ảnh thiên nhiên có thực, nhưng gợi ra quy luật
của tình cảm là dù ở đâu cũng cần hướng về cội nguồn cách mạng “ Quê hương cách
mạng dựng lên cộng hòa”.
a. Nhớ cảnh chia tay ( khổ 2):
“ Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi”
Đại từ phiếm chỉ “ai” và từ láy “tha thiết” đã níu chân người ra đi, cho thấy người
cán bộ cách mạng trong giờ phút chia li lịng bị níu lại, bởi họ cảm nhận được tiếng
nói ân tình của người Việt Bắc gửi gắm trong lời nhắn nhủ thân mật, thiết tha. Tình
cảm này đã làm cho người cán bộ Việt Minh ra đi mang hai tâm trạng hoàn toàn trái
ngược nhau, được thể hiện qua hai từ láy “bâng khuâng” và “bồn chồn”. Tâm trạng
“bâng khuâng trong dạ” cho thấy người ra đi bịn rịn không muốn rời xa cảnh và
người Việt Bắc, nhưng trong lòng lại “bồn chồn bước đi”, họ muốn nhanh chóng trở
về Hà Nội, vì ở đó cịn có rất nhiều cơng việc đang chờ đón họ.
“Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay…”
Hình ảnh hốn dụ “áo chàm” ( áo nhuộm bằng củ chàm có màu xanh đen), nhằm
để chỉ nhân dân Việt Bắc là người đưa tiễn cán bộ cách mạng về xi. Đây là hình ảnh
mà người ra đi luôn mang theo, là động lực để họ tiếp tục sự nghiệp cách mạng của
mình, bởi áo chàm đã trao cho họ một tình cảm chân thành, mộc mạc.
Hình ảnh “ Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay” phản ánh đúng tâm trạng của buổi
chia tay, họ khơng nói được gì vì nghẹn ngào, hay có nhiều điều để nói mà ngơn ngữ
khơng đủ sức diễn tả cho nên họ khơng nói gì, họ chỉ cầm tay nhau cũng chính là lúc
họ hiểu nhau nhiều nhất. Ngồi ra dấu chấm lửng ở cuối câu thơ còn là khoảng không
im lặng, nghẹn ngào trong cảm xúc.

*Sơ kết:Hai khổ đầu của bài thơ, đã khắc họa cảnh chia tay đầy xúc động, với những
lời tâm tình chứa chan cảm xúc của hai nhân vật trữ tình. Người đọc thấy được trong
đó tình u thương tha thiết, sự gắn bó sâu nặng giữa người đi và kẻ ở. Qua đó, nhà


thơ diễn tả nỗi xúc động, sự lưu luyến, tình cảm thắm thiết của đồng bào Việt Bắc với
người cán bộ kháng chiến. Kết cấu đối đáp, cách sử dụng cặp đại từ nhân xưng
mình-ta, vừa diễn đạt được cảm xúc, vừa tạo tính dân tộc đậm đà cho tác phẩm. Tố
Hữu đã diễn đạt vấn đề chính trị bằng một hình thức nghệ thuật trữ tình, nên gây được
sự đồng cảm sâu sắc trong lòng người đọc.
2.Người ở lại nhắc người ra đi về những năm tháng kháng chiến gian khổ
( khổ 3- 12 câu tiếp theo):
a. Kỉ niệm những ngày đầu kháng chiến gian khổ, nhưng đầy ân tình
( 4 câu đầu):
Hình thức lặp “mình đi, mình về, có nhớ” đặt trong hàng loạt câu hỏi khiến đoạn
thơ tràn đầy cảm xúc, gợi nhớ về những kỉ niệm đẹp đầy tự hào và yêu thương. Hai
tiếng “mình đi, mình về” được luân phiên chuyển đổi, gợi hình ảnh người cán bộ
kháng chiến về xuôi mỗi lúc một đi xa dần
“ Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù”
Hình ảnh ẩn dụ “mưa nguồn, suối lũ, những mây cùng mù”, kết hợp với cặp từ
chỉ sự tăng cấp “những, cùng” vừa để miêu tả thời tiết ở Tây Bắc thật khắc nghiệt, vừa
để hàm chỉ những gian khổ, thử thách mà cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc
phải trải qua trong những năm tháng kháng chiến.
“ Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai.”
Chi tiết có thực “miếng cơm chấm muối”, nhằm phản ánh cuộc sống kháng chiến
thiếu thốn, gian khổ về vật chất, nhưng tinh thần của họ luôn lạc quan. Bởi người cán
bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc có chung một lí tưởng, một mối thù. Cách nói
“mối thù nặng vai”, nhằm cụ thể hóa nhiệm vụ chống thực dân Pháp, đang đè nặng lên

đôi vai của dân tộc ta.
b. Người dân Việt Bắc thể hiện tình nghĩa gắn bó, sâu nặng đối với người cán
bộ cách mạng ( 4 câu giữa):
“Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng măng mai để già”.
Nghệ thuật hoán dụ “rừng núi nhớ ai”, lấy nỗi buồn của rừng núi, để thổ lộ thầm
kín nỗi buồn của người dân Việt Bắc khi chia tay người cán bộ cách mạng. Họ buồn
đến nỗi khơng cịn tha thiết trong lao động “ Trám bùi để rụng măng mai để già”,
trám bùi và măng mai là nguồn lương thực vô tận của núi rừng Việt Bắc để nuôi bộ
đội đánh giặc, nay cán bộ cách mạng về xi thì họ hái tram, bẻ măng để làm gì? Câu
thơ gợi nỗi buồn trống vắng trong lịng người ở lại.
“ Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son”


Cụm từ “những nhà” ý chỉ đồng bào Việt Bắc. Hình ảnh “hắt hiu lau xám” gợi
khung cảnh hoang vu của núi rừng, mang ý nghĩa biểu tượng cho cuộc sống nghèo
khó. Nghệ thuật tiểu đối trong câu thơ “ Hắt hiu lau xám><Đậm đà lòng son”, chứa
đựng sự tương phản giữa cuộc sống nghèo khổ về vật chất, nhưng người dân Việt Bắc
với phẩm chất cao đẹp, luôn ân tình thủy chung với cách mạng.
c. Người ở lại nhắn nhủ người ra đi luôn nhớ cội nguồn cách mạng ( 4 câu
cuối):
“ Mình về, cịn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở cịn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”.
Điệp từ “nhớ” và hình ảnh liệt kê “ Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa”, nhằm
nhắc nhở người cán bộ cách mạng luôn nhớ đến cội nguồn cách mạng: Nhớ địa điểm
thành lập quân đội đầu tiên của cách mạng đó là cây đa Tân Trào, nhớ mái đình Hồng
Thái là nơi hội họp quốc dân lần đầu, khai sinh ra chính phủ lâm thời nước Việt Nam

dân chủ cộng hịa. Câu thơ “ Mình đi mình có nhớ mình” cũng là lời nhắc nhở người
ra đi khi trở về thành thị, nhớ đừng thay lịng đổi dạ. Hãy ln là chính mình, hãy nhớ
về q khứ gian khổ nhưng thấm đẫm nghĩa tình.
*Sơ kết: Mười hai câu thơ tạo thành sáu câu hỏi. Mỗi câu thơ đều khắc khoải tâm tình
da diết, những kỉ niệm khơng thể nào qn của những ngày đầu cách mạng đầy gian
khổ, khó khăn, nhưng quân dân một lòng cùng nhau đánh giặc. Điệp ngữ “mình đi,
mình về” và cấu trúc đối đã diễn tả tình cảm sâu đậm, thủy chung của người dân Việt
Bắc đối với cách mạng.
3.Người ra đi khẳng định tình cảm sắt son của mình ( Khổ 4 và khổ 5 – 10 câu
tiếp theo):
a.Người cán bộ cách mạng khẳng định tấm lịng sắt son chung thủy của mình đối
với Việt Bắc (Khổ 4 - 4 câu đầu):
“Ta với mình, mình với ta
Lịng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu.”
Cách ngắt nhịp 3/3 “ta với mình/ mình với ta” làm cho người đọc cảm nhận, ta
với mình tuy hai mà một, gắn bó khơng thể tách rời. Cấu trúc so sánh và tăng tiến
“lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh” nhằm nhấn mạnh tình cảm của người ra đi đối
với Việt Bắc bao la và sâu nặng.
Câu thơ “Mình đi mình lại nhớ mình”, khơng cịn là câu hỏi mà là một lời tâm
tình, tự nhủ. Nhớ Việt Bắc cũng chính là nhớ về cuộc sống của chính bản thân mình.
Cách so sánh đặc biệt “bao nhiêu, bấy nhiêu”, nhằm để cụ thể hóa tình cảm sâu nặng
của cán bộ cách mạng dành cho nhân dân Việt Bắc. Đặc biệt câu thơ “mình đi mình lại
nhớ mình”, thể hiện sự sáng tạo của nhà thơ Tố Hữu khi vận dụng cặp đại từ nhân


xưng “mình, ta”. Câu thơ có ba từ “mình”, hai từ “mình” đầu được dùng để chỉ cán bộ
cách mạng, từ “mình” thứ ba dùng để chỉ nhân dân Việt Bắc. Câu thơ như khẳng định,
người cán bộ cách mạng khơng bao giờ qn chính mình trong những ngày khó khăn,

gian khổ nhưng đậm nghĩa tình với Việt Bắc.
b. Nỗi nhớ về thiên nhiên và cuộc sống của người Việt Bắc (Khổ 5 - 6 câu
sau):
“ Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngịi Thia, sơng Đáy, suối Lê vơi đầy.”
Qua hồi tưởng của người cán bộ cách mạng, cảnh và người Việt Bắc hiện lên thật
đẹp, vừa hiện thực, lại vừa thơ mộng, tạo nét đẹp riêng biệt khơng nơi nào có được.
Nỗi nhớ Việt Bắc được tác giả so sánh “ Nhớ gì như nhớ người yêu”, bởi nỗi nhớ Việt
Bắc tựa nỗi nhớ người yêu, nỗi nhớ người yêu là nỗi nhớ bao trùm lên mọi không gian
và thời gian. Nhớ ánh nắng ban chiều, nhớ ánh trăng buổi tối, nhớ bản làng mờ trong
sương sớm, nhớ bếp lửa hồng trong đêm khuya lạnh, nhớ núi rừng, sông suối mang
những tên quen thuộc, được thể hiện bằng hàng loạt hình ảnh liệt kê “ngịi Thia, sông
Đáy, suối Lê”. Điệp ngữ “nhớ từng” làm cho nỗi nhớ thêm da diết, vẻ đẹp thiên nhiên
và con người Việt Bắc nên thơ sẽ cịn đọng mãi trong kí ức người ra đi.
*Sơ kết: Đoạn thơ chỉ là một mảng nhỏ trong hồi tưởng của nhà thơ về những kỉ niệm
không thể quên, với cảnh sắc thiên nhiên và cuộc sống của Việt Bắc. Tuy nhiên, đó là
những kỉ niệm da diết và sâu đậm luôn thường trực trong nỗi nhớ của tác giả.
4.Nỗi nhớ về cảnh sinh hoạt ở Việt Bắc ( Khổ 6 – 12 câu tiếp theo):
“ Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.”
Nhớ Việt Bắc không phải là nỗi nhớ chung chung mà rất cụ thể. Nhớ những ngày
gần gũi “mình đây ta đó”, cùng chia sẻ “đắng,cay,ngọt,bùi”. Có những ngày lũ rừng
về xối xả, mưa rừng ào ào, gạo muối bị cuốn trơi, địch phục kích sau lung…Những
đêm bị sốt rét rừng hành hạ, được các mế, các chị chăm sóc…thấm thía vơ cùng tình

qn dân keo sơn gắn bó.
Hàng loạt tính từ “đắng, cay, ngọt, bùi” nhằm thể hiện những khó khăn tột cùng,
nhưng nhờ tinh thần đồng cam cộng khổ giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ cách mạng,
được thể hiện qua những động từ “chia, sẻ, đắp cùng”. Trong kháng chiến chống Pháp
họ thiếu thốn về vật chất, nhưng họ đã vượt qua được, nhờ họ thương yêu, đùm bọc
nhau: chia từng củ sắn, sẻ bát cơm cho nhau, đắp chăn bằng vỏ cây sui cùng nhau để
chống cái lạnh vùng cao…


“ Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngơ”
Hình ảnh “ Nhớ người mẹ nắng cháy lưng. Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”,
giúp người đọc cảm nhận, người dân Việt Bắc lao động làm ra của cải vật chất thật
khó nhọc, thế mà họ vẫn sẵn sang nuôi dưỡng cách mạng.
“ Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…”
Điệp ngữ “nhớ sao” được lặp lại nhiều lần nhằm nhấn mạnh nỗi nhớ của tác giả
càng lúc càng day dứt: Nhớ cảnh học tập của lớp bình dân học vụ, nhớ niềm vui trong
đêm liên hoan, nhớ tinh thần lạc quan, yêu đời của quân dân Việt Bắc, đặc biệt tác giả
nhớ âm thanh đặc trưng của núi rừng Việt Bắc đó là tiếng mõ, tiếng chày.
*Sơ kết: Đoạn thơ cho ta thấy hình ảnh người cán bộ cách mạng nhớ phong cảnh quê
hương cách mạng, con người Việt Bắc và những sinh hoạt đời thường của quân dân
Việt Bắc. Qua nỗi nhớ, nhà thơ gợi lên một Việt Bắc thi vị, hài hòa. Đồng thời, nhắc
lại một thời ở Việt Bắc gian khổ mà ấm áp nghĩa tình, tràn đầy tinh thần lạc quan. Âm
hưởng trữ tình vang vọng, đã tạo nên khúc ca ngọt ngào, đằm thắm của tình quân dân,
tình yêu đất nước, yêu đời.

5.Nỗi nhớ về cảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc ( Khổ 7 – 10 câu tiếp theo):
Cảnh thiên nhiên núi rừng Việt Bắc mang vẻ đẹp vừa hiện thực, vừa thơ mộng,
nhưng tiêu biểu nhất và đẹp nhất là bức tranh tứ bình của Việt Bắc qua bốn mùa được
thể hiện trong đoạn thơ.
a. Hai câu đầu nêu cảm xúc chủ đạo của cả đoạn thơ đó là nỗi nhớ về Việt
Bắc:
“ Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người”
Ở đoạn thơ này có sự thay đổi đại từ nhân xưng: “Ta” là người cán bộ cách mạng,
“Mình” là nhân dân Việt Bắc. Tác giả sử dụng hai lần cụm từ “ta về” vào cùng một
thời điểm chia tay, nhưng “ta về” ở câu lục là để hỏi người Việt Bắc, còn “ta về” ở câu
bát là để giãi bày lòng mình. Câu thơ “ Ta về ta nhớ những hoa cùng người”, từ
“cùng” trong “hoa cùng người”, nhằm khẳng định thiên nhiên và con người Việt Bắc
có mối quan hệ khăng khít với nhau. Qua đó, ta thấy hình ảnh thiên nhiên và con
người Việt Bắc hòa quyện trong nỗi nhớ của người cán bộ cách mạng về xuôi.
b. Tám câu sau bức tranh tứ bình Việt Bắc:
“ Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.


Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Rừng thu trăng rọi hịa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.”
Ở đoạn thơ này, cảnh và người Việt Bắc hiện lên rất đẹp, rất trữ tình, thơ mộng
trong nỗi nhớ của người đi xa. Bốn cặp câu lục bát có kết cấu đan xen độc đáo: Câu
lục nói đến thiên nhiên, câu bát nói đến con người. Nói đến hoa như thể hiện tình
người, nói đến người lại lấp lóa bóng hoa. Vẻ đẹp của thiên nhiên và con người hòa

quyện với nhau tỏa sáng bức tranh tứ bình Việt Bắc.
Cảnh mùa đơng khơng tàn lụi, lạnh lẽo mà sống động, ấm áp. Giữa rừng xanh bạt
ngàn tha thiết, lại đột ngột bùng lên màu “hoa chuối đỏ tươi” như ngọn lửa của rừng
ấm áp tình yêu:
“ Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Theo trình tự thời gian xuân, hạ, thu rồi đến đông. Nhưng ở đoạn thơ này tác giả đi
theo trình tự đơng, xn, hạ, thu. Bởi vì, bài thơ được sáng tác vào tháng mười, tức là
vào mùa đông nên mùa đông được nhắc đến trước. bức tranh mùa đông ở Việt Bắc là
một không gian xanh thẳm, bạt ngàn của núi rừng, được điểm tô màu đỏ tươi của hoa
chuối. Phải chăng màu đỏ của hoa chuối làm cho mùa đông bớt lạnh? Bên cạnh bức
tranh mùa đông là nét đẹp khỏe khoắn của con người Việt Bắc với hình ảnh “ Đèo cao
nắng ánh dao gài thắt lưng”. Hình ảnh hốn dụ “dao gài thắt lưng”, lấy con dao đi
rừng – vật bất li thân của người dân miền núi, để vẻ nên nét đẹp đặc trưng của con
người Việt Bắc, họ hùng vĩ, kiêu hãnh, thách thức trước cái lạnh của núi rừng, trước
độ cao của đèo. Giữa “ Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”, đã nổi bật lên hình ảnh người
lao động miền núi chăm chỉ làm việc “ Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”.
Cảnh mùa xuân cùng với sự chuyển mùa (mùa đông sang mùa xuân), là sự chuyển
màu trong bức tranh thơ. Màu xanh trầm tĩnh của rừng già chuyển sang màu trắng tinh
khôi của hoa mơ khi mùa xuân đến:
“ Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
Bức tranh mùa xuân bừng sáng bởi màu trắng của hoa mơ, thời gian ở đây được chỉ
rất rõ “ngày xuân” với gam màu trắng là gam màu đặc trưng. Câu thơ đem lại cho
người đọc cảm nhận khơng khí xn lan tràn, khơng gian núi rừng mênh mông, thiên
nhiên Việt Bắc giàu sức sống. Giữa sự tinh khiết của màu trắng hoa mơ là hình ảnh
người đan nón chuốt từng sợi giang. Động từ “chuốt” gợi sự cần mẫn, chịu thương,
chịu khó trong lao động của người dân Việt Bắc. Họ kết từng sợi nhớ sợi thương trong
cơng việc đan nón tỉ mẫn hàng ngày. Trong sắc xuân của thiên nhiên, đất trời, con



người chính là chủ nhân của bức tranh xuân, đang tơ điểm cho sắc xn bằng tình u
lao động.
Cảnh mùa hè được chuyển sang gam màu vàng của “rừng phách” – Một loại cây phổ
biến ở rừng núi Việt Bắc:
“ Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Bức tranh mùa hạ buộc người đọc phải cảm nhận bằng cả thính giác và thị giác.
Tiếng ve kêu báo hiệu hè về, những ngày xuân, cả rừng phách cịn là màu xanh, những
nụ hoa cịn kín kẽ trong lá. Khi tiếng ve đầu tiên của mùa hè cất lên, những nụ hoa
nhất tề đồng loạt trổ bông, cả rừng phách lai láng sắc vàng. Đặc biệt động từ “đổ’,
trong “rừng phách đổ vàng” giúp người đọc liên tưởng trong phút chốc màu vàng
nhuộm cả rừng phách. Nổi bật trên nền bức tranh màu vàng là hình ảnh “cơ em gái hái
măng một mình”. Cách gọi trìu mến “cô em gái” và động từ “hái” trong “hái măng”,
hái chứ không phải là bẻ hay chặt, thể hiện sự mềm mại, thành thạo trong lao động
của cô gái Việt Bắc.
Cảnh mùa thu khép lại bức tranh với đêm trăng trữ tình, bình yên và huyền ảo:
“ Rừng thu trăng rọi hịa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Bức tranh thu thật êm đềm, thơ mộng và thanh bình biết bao bởi không gian về đêm,
trăng hiện trong đêm thu, dưới rừng thu để chuyển tải một tình thu. Đó là tình u hịa
bình “trăng rọi hịa bình”. Đặc biệt điểm vào bức tranh mùa thu huyền ảo ấy là tiếng
thu – Tiếng hát sắt son, thủy chung, ân tình của người dân Việt Bắc.
*Sơ kết: Thể thơ lục bát và cách diễn đạt bằng lời đối đáp của kẻ ở với người đi bằng
cặp đại từ nhân xưng “mình, ta”, khiến cho tình cảm trong bài thơ được thể hiện một
cách vừa kín đáo, tinh tế, vừa đậm đà ý vị dân tộc. Đoạn thơ giàu màu sắc hội họa, từ
ngữ giàu giá trị tạo hình đã vẽ nên bức tranh đầy màu sắc về vẻ đẹp thiên nhiên và con
người Việt Bắc. Cảnh và người hòa quyện thắm thiết, tô điểm cho nhau, tạo nên nét
riêng biệt của mảnh đất Việt Bắc mà khơng có vùng q nào có được. Qua đó, thể hiện
tình u, sự gắn bó sâu nặng, nỗi nhớ của cán bộ cách mạng đối với miền đất Việt Bắc

ân nghĩa, thủy chung. Đây là một trong những đoạn thơ hay nhất trong bài thơ, đồng
thời cũng tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu: Đậm đà tính dân tộc.
6.Việt Bắc hào hùng trong chiến đấu ( Khổ 8 –10 câu tiếp theo):
“ Nhớ khi giặc đến giặc lung
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây”.
Động từ “lùng” trong “giặc lùng”, và điệp từ “giặc”, nhằm nhấn mạnh tội ác của
thực dân Pháp, đã gây ra cho nhân dân Việt Nam, chúng lùng sục để giết dân lành và
triệt tiêu phong trào cách mạng. Từ “cùng” trong “ Rừng cây núi đá ta cùng đánh
Tây”, cho thấy thiên nhiên Việt Bắc cũng góp phần cùng bộ đội ta kháng chiến chống
Pháp. Thực dân Pháp càng điên cuồng, tàn bạo bao nhiêu thì nhân dân Việt Bắc, thiên
nhiên Việt Bắc, càng thể hiện tinh thần đồn kết bấy nhiêu. Họ tạo ra những địa hình
hiểm trở để che giấu cán bộ cách mạng và gây khó khăn cho thực dân Pháp.


“ Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây qn thù”.
Hàng loạt hình ảnh nhân hóa “núi giăng thành lũy, rừng che bộ đội, rừng vây quân
thù”, cho thấy thiên nhiên cũng giống như con người, hiểu được ý nghĩa của cuộc
kháng chiến chống Pháp là nhằm đem lại độc lập, tự do cho dân tộc. Vì thế cuộc
kháng chiến chống Pháp là cuộc kháng chiến vì chính nghĩa, nên thiên nhiên Việt Bắc
tạo nên một địa hình hiểm trở để che chở cán bộ cách mạng và vây hãm quân thù.
Đoạn thơ còn gợi lại sự kiện quan trọng là quân và dân ta đã chiến thắng giặc Pháp
trận Thu Đông 1947, đập tan âm mưu của Pháp dự định đánh chiếm vào chiến khu
Việt Bắc hòng tiêu diệt cơ quan đầu não của cách mạng. Ngồi ra hình ảnh “núi rừng”
cịn tượng trưng cho sự đông đảo của từng lớp người Việt Nam tham gia cách mạng
đơng như rừng, ý chí vững chắc như núi.
“ Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lịng”.
Hình ảnh “ Mênh mơng bốn mặt sương mù”, chỉ thời tiết Việt Bắc thật là khắc
nghiệt, trời đầy sương mù. Sương mù dày đặc đã góp phần che mắt quân thù, cản trở

tầm nhìn và con đường tiến cơng của giặc. Ngồi ra cặp từ ngữ đối “mênh mơng đất
trời – chiến khu một lịng”, nhằm nhấn mạnh sự đoàn kết trong chiến đấu của quân và
dân ta, giữa thiên nhiên và con người Việt Bắc.
“ Ai về ai có nhớ khơng?
Ta về ta nhớ Phủ Thơng, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao – Lạng nhớ sang Nhị Hà…”
Câu hỏi tu từ “ Ai về ai có nhớ khơng?”, điệp từ “nhớ” và đại từ phiếm chỉ “ai”, cùng
hàng loạt hình ảnh liệt kê về địa danh Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố
Ràng…nhằm nhắc nhở người ra đi và người ở lại, hãy nhớ đến những địa danh lịch
sử, nơi ấy đã xảy ra những trận đánh lớn giữa ta và địch, quân dân ta đã giành những
chiến thắng vẻ vang.
*Sơ kết: Với thể thơ lục bát, âm điệu sâu lắng, hình ảnh, từ ngữ chọn lọc, vận dụng
thành công các biện pháp tu từ như nhân hóa, liệt kê, điệp từ, điệp ngữ… Đoạn thơ đã
bộc lộ nỗi nhớ, niềm tự hào của người cán bộ cách mạng về một Việt Bắc anh dũng,
kiên cường.
7.Tinh thần chiến đấu và khí thế ra trận của quân dân Việt Bắc ( Khổ 9 –
12 câu tiếp theo):
“ Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung”.
Từ láy hoàn toàn chỉ thời gian “đêm đêm”, nhằm chỉ thời gian liên tục, đêm này
sang đêm khác, khơng ngừng nghỉ, thường xun. Hình ảnh so sánh “ Những đường
Việt Bắc của ta, đêm đêm rầm rập như là đất rung”, nhằm nhấn mạnh khí thế ra trận
hùng dũng, rung trời, lở đất của quân dân ta, bởi cuộc kháng chiến của dân tộc ta là


cuộc kháng chiến chính nghĩa, với mục đích đánh đuổi giặc Pháp xâm lược, giành độc
lập tự do cho dân tộc, nên đã tập hợp được các tầng lớp sĩ, nông, công, thương. Những
tầng lớp này đại biểu cho sức mạnh, cho tư tưởng và khát vọng giành độc lập của dân
tộc Việt Nam.

“ Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đồn
Bước chân nát đá mn tàn lửa bay
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”.
Những từ, cụm từ chỉ số lượng đông đảo “điệp điệp, trùng trùng, từng đồn, mn
tàn lửa bay”, nhằm thể hiện sức mạnh, khí thế của quân dân Việt Bắc. Sức mạnh được
chỉ ra rất cụ thể gồm “quân” và “dân công” ( Bộ đội và nhân dân Việt Bắc) từng đoàn
người ra trận, đoàn quân này tiếp nối đoàn quân kia, liên tục không ngừng nghỉ.
Con đường Việt Bắc về đêm, không chỉ tấp nập bởi bộ đội, dân cơng, mà cịn rực
rỡ bởi ánh sáng, ánh sáng của niềm tin, hi vọng, được thể hiện ở hàng loạt từ ngữ “ánh
sao đầu súng, đỏ đuốc, đèn pha bật sáng” (ánh sáng sao đêm, ánh sáng đuốc, và ánh
sáng của đèn pha xe vận tải quân sự). Hình ảnh ẩn dụ “Nghìn đêm thăm thẳm sương
dày”, nhằm để chỉ cuộc sống tối tăm, nô lệ của nhân dân ta dưới chế độ thực dân
phong kiến. Hình ảnh “bước chân nát đá”, lấy từ thành ngữ “chân cứng đá mềm”,
nhằm thể hiện ý chí quyết tâm, vượt qua gian khổ, hi sinh để giành thắng lợi của quân
dân Việt Bắc.
“ Tin vui chiến thắng trăm miền
Hịa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”.
Tác giả liệt kê hàng loạt các địa danh “Hịa Bình, Tây Bắc, Đồng Tháp, An Khê,
Việt Bắc, đèo De, núi Hồng” và điệp từ “vui” nhằm nhấn mạnh tâm trạng sung sướng
của quân dân ta vì đã chiến thắng giặc Pháp với những chiến dịch lớn. Đặc biệt ở đoạn
thơ này, nhịp thơ dồn dập, tạo nên khí thế hùng dũng của quân dân Việt Bắc.
*Sơ kết: Với bút pháp lãng mạn, đoạn thơ đưa người đọc vào khung cảnh Việt Bắc
chiến đấu, với không gian núi rừng rộng lớn, những hoạt động tấp nập, những hình
ảnh hào hùng, những âm thanh sơi nổi, dồn dập, náo nức. Đoạn thơ tràn đầy âm hưởng
anh hùng ca mang dáng vẻ sử thi hiện đại. Qua đó, thể hiện hào khí ngất trời của quân

dân ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Đồng thời, tác giả ca ngợi Việt Bắc, ca
ngợi cuộc kháng chiến chống Pháp oanh liệt, hào hùng và vẻ vang của dân tộc ta.
8.Vai trò của Việt Bắc và Bác Hồ ( Khổ 10 và khổ 11 – 16 câu còn lại):
“ Ai về ai có nhớ khơng?


Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc việc công”
Mở đầu đoạn thơ là câu hỏi tu từ “ Ai về ai có nhớ khơng?”, cùng với đại từ
phiếm chỉ “ai” (chỉ người cán bộ cách mạng), khi về tiếp quản thủ đơ Hà Nội thì hãy
nhớ những kỉ niệm ở hang Việt Bắc – Thủ đô kháng chiến, nơi ấy những phiên họp
của chính phủ được diễn ra, cuộc họp “luận bàn việc công” – những công việc to lớn,
quan trọng của đất nước. Cuộc họp đầy tinh thần lạc quan của những người cách
mạng, được thể hiện ở hình ảnh “ngọn cờ đỏ thắm, rực rỡ sao vàng”.
“ Điều quân chiến dịch Thu – đông
Nông thôn phát động, giao thơng mở đường
Giữ đê, phịng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu…”
Đoạn thơ liệt kê hàng loạt những công việc của cán bộ cách mạng “điều qn,
giao thơng mở đường, giữ đê, phịng hạn, thu lương, gửi dao miền ngược, thêm trường
các khu”. Nghĩa là cách mạng ta vừa phải đánh giặc thắng lợi “ Điều quân chiến dịch
Thu – đông”, vừa phải phát triển kinh tế đảm bảo lương thực cho hậu phương và tiền
tuyến “ Giữ đê, phòng hạn, thu lương”, bên cạnh đó cịn phải chăm lo phát triển văn
hóa “ thêm trường các khu”. Nghĩa là cách mạng đang thực hiện chủ trương “chống
thù trong giặc ngồi, diệt giặc đói, giặc dốt”.
“ Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nịi
Trơng về Việt Bắc mà ni chí bền”.

Điệp ngữ “ở đâu” nhằm để nhấn mạnh nhân dân cả nước đang hướng về cách
mạng. Động từ “nhìn lên, trơng về” dùng để chỉ hành động tuyệt đối tin tưởng của
nhân dân đối với cách mạng. Hình ảnh Bác Hồ hiện lên trong lịng nhân dân – Bác
vừa là một vị lãnh tụ, vừa là người cha, người bác, người anh, với trái tim vĩ đại đủ
sức xóa tan sự u ám, đau đớn cho giống loài Việt Nam.
“ Mười lăm năm ấy ai qn
Q hương cách mạng dựng nên Cộng hịa
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào”.
Cụm từ chỉ thời gian “mười lăm năm ấy”, nhằm để chỉ thời gian gắn bó ân tình,
sâu nặng giữa người cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc. Câu thơ khẳng định “ai
quên, dựng nên Cộng hòa”, nhằm khẳng định tấm lòng thủy chung, son sắt của người
ra đi đối với Việt Bắc. Bởi vì Việt Bắc là cái nôi của cách mạng, nơi ấy nuôi dưỡng
Đảng và Bác Hồ trong những ngày kháng chiến gian khổ, để giành thắng lợi, lập nên
chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.


*Sơ kết:Đoạn thơ khẳng định Việt Bắc là căn cứ địa, chiến khu của kháng chiến, là cơ
quan đầu não của kháng chiến. Hình ảnh Bác Hồ được ngợi ca với một niềm tin yêu,
thành kính: Bác là ánh sáng soi đường, là niềm tin yêu của nhân dân Việt Nam.
III.TỔNG KẾT:
“ Việt Bắc” là khúc hùng ca và cũng là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng
chiến và con người kháng chiến. Thể thơ lục bát, kiểu kết cấu đối đáp, ngôn ngữ đậm
sắc thái dân gian. Tất cả đã góp phần khắc sâu lời nhắn nhủ của Tố Hữu: Hãy nhớ mãi
mãi và phát huy truyền thống quý báu anh hùng bất khuất, ân nghĩa, thủy chung của
cách mạng, của con người Việt Nam.




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×