Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

NỘI DUNG CHÍNH CỦA TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN. THỰC TRẠNG TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA NGƯỜI VIỆT HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.98 KB, 22 trang )

BỘ NỘI VỤ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

TÊN BÀI TẬP LỚN
NỘI DUNG CHÍNH CỦA TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN.
THỰC TRẠNG TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA
NGƯỜI VIỆT HIỆN NAY

BÀI TẬP LỚN KẾT THÚC HỌC PHẦN

Học phần: Tín ngưỡng và tôn giáo ở Việt Nam
Mã phách:................................................

Hà Nội – 2021


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
Ở Việt Nam, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã trở thành một hệ thống và có ý
nghĩa sâu sắc của nó. Việc thờ cúng tổ tiên có một vị trí hết sức quan trọng trong đời
sống gia đình và xã hội của chúng ta hiện nay. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã trở
thành một thứ giáo lý, tôn giáo độc đáo mà không phải bất cứ dân tộc hay đất nước
nào trên thế giới cũng có thể có được. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt tạo
nên mối gắn kết, liên kết tinh thần nối liền con người với những lực lượng siêu nhiên
trong thế giới tâm linh. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt là một bộ phận của
ý thức xã hội, là một yếu tố thuộc lĩnh vực đời sống vật chất, tinh thần được hình thành
trong tiến trình lịch sử văn hóa. Trên thế giới có rất nhiều loại hình tín ngưỡng khác
nhau, nhưng khó thấy được loại hình tín ngưỡng nào lại chứa đựng đạo lý sâu sắc như
tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Tín ngường thờ cúng tổ tiên của người Việt là lối sống


cộng đồng của nhân dân ta từ trước tới nay. Xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc, khơng thể khơng coi trọng tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên với những
truyền thống lâu đời. Đó cũng chính là nét riêng của mỗi dân tộc. Qua đó em đã chọn
đề tài: “Nội dung chính của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Thực trạng tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên của người Việt hiện nay” làm bài tập lớn kết thúc học phần.

3


NỘI DUNG
1. Những nét cơ bản về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của
người Việt
1.1. Nguồn gốc và bản chất của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
Nguồn gốc: Hiện nay, các học giả trong nước và ngồi nước đã
có nhiều ý kiến xung quanh hiện tượng thờ cúng tổ tiên. Có 2 giả
thiết được đưa ra:
+ Giả thiết thứ nhất: Tín ngưỡng thờ tổ tiên được hình thành
vào thời Bắc thuộc cùng với những ảnh hưởng của văn hóa Hán. Hà
Văn Tăng và Trương Thìn viết: “Thờ cúng tổ tiên có thể lúc đầu cử
hành trong người Hán, rồi lan sang người Việt. Và đến một thời điểm
nào đó thì trở thành phong tục phổ biến của người Việt”. Như vậy thì
mối liên hệ giữa yếu tố bản địa và yếu tố ngoại nhập trong việc hình
thành tín ngưỡng này sẽ diễn ra như thế nào? Liệu có sự tác động
qua lại giữa 2 yếu tố này khi mà yếu tố ngoại nhập phù hợp với cơ
tầng văn hóa của cư dân bản địa.
+ Giả thiết thứ hai: Tín ngưỡng thờ tổ tiên của người Việt có
nguồn gốc nội sinh. Nguyễn Đăng Duy cho rằng: “Việc thờ cúng tổ
tiên của người Việt đã có cái gốc, cái nền nội sinh chứ không phải do
từ Trung Quốc xâm nhập vào như nhiều sách báo từ trước tới nay đã
khẳng định”.

Mặc dù về nguồn gốc hình thành, có 2 quan niệm khác nhau.
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đã thống nhất: có 4 yếu tố cơ bản
hình thành nên tín ngưỡng thờ tổ tiên.
1. Cơ sở quan trọng đầu tiên cho việc hình thành bất cứ một
hình thái tín ngưỡng tơn giáo nào cũng là quan niệm tâm linh của
con người về thế giới.

4


- Cũng như nhiều dân tộc khác, người Việt xuất phát từ nhận
thức “vạn vật hữu linh” - mọi vật đều có linh hồn. Trong nhận thức
của con người, thể xác và linh hồn vừa gắn bó, vừa tách biệt; gắn bó
khi sống và tách biệt khi chết: thể xác đã hịa vào cát bụi, tan rã
nhưng phần hồn thì vẫn tồn tại (thể xác tiêu tan, linh hồn bất diệt).
- Xuất phát từ quan niệm linh hồn bất diệt mà con người có sự nhìn
nhận về cái chết chết chưa hẳn là hết, linh hồn vẫn tồn tại, nó
chuyển sang một dạng sống mới ở một môi trường mới, một thế giới
khác (người Việt thường gọi là cõi âm, âm phủ đối lập với cõi dương,
trần gian).
- Cũng từ quan niệm trên mà con người tin rằng: người sống và
người chết ln ln có một sự liên lạc mật thiết nhờ vào mối liên kết
dòng máu, mối liên kết tâm linh, linh hồn ông bà, cha mẹ dù đã qua
đời nhưng luôn dõi theo, phù trợ cho con cháu. Mặt khác, trong tâm
tưởng của con cháu luôn hiện diện hình ảnh ơng bà, cha mẹ. Vì vậy,
con cháu cảm thấy mình phải có trách nhiệm thờ cúng: một nén
hương thơm, một chút hoa quả, một chén nước tinh khiết dâng lên tổ
tiên trong những ngày giỗ tết sóc vọng thể hiện lịng hiếu thảo, lịng
thành kính của con cháu, biết ơn những người đã sinh thành và
dưỡng dục mình.

Tuy nhiên, bên cạnh ý thức trách nhiệm (là sự biết ơn cơng sinh
thành (dưỡng dục), có lẽ phần náo cịn bởi yếu tố sợ bị trừng phạt;
Một tâm lý sự hãi, sợ bị quở trách khiến người ta phải thờ cúng.
2. Đó là cơ sở kinh tế - xã hội góp phần nhất định cho việc hình
thành và duy trì tín ngưỡng thờ tổ tiên.
- Có thể nói, xã hội cổ truyền của người Việt với nền kinh tế tiểu
nông tự cung, tự cấp chính là mơi trường thuận lợi cho sự hình thành
và duy trì tín ngưỡng thờ tổ tiên.

5


- Với nền kinh tế tiểu nông tự cung tự cấp (sản xuất nhỏ,
khơng địi hỏi tập trung nhân cơng thẹo quy mồ lớn), con người khó
thốt khỏi làng nên thường là gia đình sống nhiều thế hệ.
3. Vấn đề hình thức tổ chức xã hội cũng là một yếu tố quan
trọng trong việc hình thành tín ngưỡng thờ tổ tiên
Theo Tokarev (nhà dân tộc học người Nga) cho rằng: việc thờ
cúng vật linh có thể xuất hiện ở thời kỳ mẫu hệ, nhưng thờ cúng tổ
tiên phải gắn bó với thời kỳ phụ hệ.
Theo chính sử, quyền trưởng nam ở Việt Nam đã xuất hiện
chính thức vào thời Lý khi Lý Thái Tổ đã phong con trai trưởng là Phật
Mã làm Thái tử. Có lẽ đến lúc này, người Việt mới hình thành rõ rệt ý
thức về cội nguồn gia đình (theo con đường chung tộc danh về phía
bố các gia đình nhỏ liên kết lại với nhau thành họ) và ý thức về
quyền thừa kế tài sản.
4. Ý thức về tổ tiên và mối liên hệ giữa con cháu với tổ tiên đã
được lễ thức hóa do sự đóng góp của hệ tư tưởng Nho giáo.
Văn hóa Hán với cơ sở lý luận Nho giáo đã tạo điều kiện thuận
lợi chọ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên tơn tại, duy trì và phát triển.

Hơn nữa, lý thuyết Nho giáo đặc biệt đề cao chữ hiếu đến mức
trở thành đạo hiếu. Đây là một trong những tư tưởng cốt lõi nhất của
Nho giao trong việc xây dựng hệ nguyên lý cho việc thờ cúng tổ tiên.
Mặt khác, các tư tưởng và học thuyết của Nho giáo đã giúp cho
các vương triều phong kiến Việt Nam tổ chức quản lý quốc gia trong
giai đoạn độc lập tự chủ. Vì vậy, tín ngưỡng thờ tổ tiên khơng chỉ
được lễ thức hóa mà con được cắc vương triều thừa nhận, thể chế
hóa bằng pháp luật.

6


Tuy nhiên, các nguyên lý Nho giáo nói chung và các quy định
về tín ngưỡng nói riêng khi thâm nhập vào nước ta cũng đã phải
chấp nhận biến đổi cho phù hợp với bản sắc văn hoá dân tộc.
- Bản chất: Theo quan điểm truyền thống và phổ biến lâu nay
thờ cúng tổ tiên được coi là một tín ngưỡng.
+ Hạt nhân cốt lõi là đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “phúc ấm
tổ tiên”.
+ Ý thức về tổ tiên là ý thức về cội nguồn “con người có tổ có
tơng”.
1.2. Khái niệm tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên hay còn được gọi khái quát là Đạo
Ông Bà là tục lệ thờ cúng những người đã chết, đặc biệt là tổ tiên
của nhiều dân tộc Đông Nam Á và đặc biệt là phát triển trong văn
hóa Trung Hoa. Đối với người Việt, nó đã trở thành một thứ tơn giáo,
khơng có gia đình nào là khơng có bàn thờ tổ tiên trong nhà. Thơng
thường tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được hiểu theo hiểu theo hai
nghĩa:
Nghĩa hẹp: Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là việc thờ cúng tổ tiên,

ơng bà, cha mẹ những người có cùng huyết thống đã mất để tưởng
nhớ công sinh thành, nuôi dưỡng.
Nghĩa rộng: Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên khơng chỉ có thờ cúng
tổ tiên cùng huyết thống trong gia đình, họ tộc, mà còn mở rộng ra
thờ cả tổ tiên của làng xã (thành hoàng làng, tổ nghề…), đất nước
(Vua Hùng….): tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được hiểu theo nghĩa
rộng, khơng chỉ thờ những người có cơng sinh dưỡng đã khuất, nghĩa
là những người có cùng huyết thống, mà thờ cả những người có cơng
với cộng đồng làng xã, đất nước.
Trong tục thờ cúng tổ tiên, người Việt coi trọng việc cúng giỗ
vào ngày mất (còn gọi là ngày “kỵ nhật”), thường được tính theo âm
7


lịch. Họ tin rằng đó là ngày mà con người đi vào cõi vĩnh hằng. Không
chỉ ngày giỗ, việc cúng tổ tiên còn được thực hiện đều đặn vào các
ngày mồng một (ngày sóc), ngày rằm (ngày vọng) và các dịp lễ Tết.
Những khi trong nhà có việc quan trọng như dựng vợ gả chồng, sinh
con đẻ cái, đi làm ăn xa, thi cử người Việt cũng dâng hương, làm lễ
cúng tổ tiên để báo cáo và để cầu tổ tiên phù hộ hay để tạ ơn khi
công việc thành công. Bản chất của việc thờ cúng tổ tiên của người
Việt là từ niềm tin người sống cũng như người chết đều có sự liên hệ
mật thiết và hỗ trợ nhau. Con cháu thì thăm hỏi khấn cáo tiền nhân,
tổ tiên thì che chở dẫn dắt hậu thế. Vì vậy việc cúng giỗ là thực hiện
mối giao lưu giữa cõi dương và cõi âm.
Thờ ông bà là một bổn phận và nhiệm vụ trọng đại đặc thù của
người Việt Nam. Trong phần lớn người dân xưa và nay, người ta
thường nói “đạo thờ ơng bà” là tín ngưỡng sâu sắc, nhưng khơng là
một tơn giáo. “Đạo” ở đây có thể cần phải hiểu đó chính là đường lối.
Thờ ơng bà là một trách nhiệm có tính ln lý, sự phát lộ tình cảm và

lịng tin huyết thống được thể hiện trong mơi trường gia tộc khơng có
tính cách thần thánh hóa, đặc biệt là khơng có tu sở như chùa hay
nhà thờ và cũng khơng cần có người giảng thuyết làm gạch nối liền
giữa đạo và đời. Thờ ông bà xuất phát từ tâm thành của người còn
sống, thế hệ sau đối với thế hệ trước. Thờ thì phải có lễ và cúng bái,
hành động biểu tỏ lịng tơn kính và nhớ thương. Dân tộc Việt Nam có
chủ trương thờ cúng ơng bà, tổ tiên là vì đã từ lâu hiểu rằng “cây có
cội, nước có nguồn”, ai ai cũng tưởng nhớ đến nguồn gốc người sinh
thành ra mình. Tinh thần “Uống nước nhớ nguồn” là một trong những
bài học đầu tiên về “học làm người”, mở đầu cho những bài dạy về
luân lý con người Việt Nam được ông bà ta đúc kết lại từ bao đời:
Tổ tiên sinh ra ông bà, ông bà sinh ra cha mẹ, cha mẹ sinh ra
mình. Người con hiếu thảo phải biết ơn nghĩa sinh thành của cha mẹ.
Và đã hiếu với cha mẹ thì phải hiếu với ơng bà tổ tiên, tức là nguồn
gốc của mình. Khi ơng bà, cha mẹ cịn sống, con cháu phải phụng
8


dưỡng, phải tuân theo những lời dạy bảo của mọi người, cũng như
thờ cúng tổ tiên về trước.
Qua việc thờ cúng tổ tiên, người đã khuất và người đang còn
sống ln có mối liên hệ mật thiết với nhau. Việc thờ cúng cũng
chính là sự gặp gỡ của thế giới hữu hình và vũ trụ linh thiêng. Đối với
người Việt, chết khơng có nghĩa là hết, thân xác tuy chết đi nhưng
linh hồn vẫn còn và vẫn lui tới với gia đình. Thể xác thì tiêu tan
nhưng linh hồn thì bất diệt. Tục lệ người Việt tin rằng dương sao âm
vậy. Người sống cần gì, sống làm sao thì người chết cũng vậy và
cũng có một cuộc sống ở cõi âm như trên dương thế. Nói cách khác
thì người chết cũng cần phải có những nhu cầu vật chất cần thiết
như lúc còn sống. Tin như vậy, việc thờ cúng là cần thiết và việc thờ

cúng tổ tiên là việc khơng thể thiếu trong cuộc sống ở mỗi gia đình
Việt. Cổ tục còn tin rằng, vong hồn của những người đã khuất thường
luôn ngự bên bàn thờ để được gần con cháu, dõi theo con cháu trong
công việc thường ngày và giúp đỡ con cháu những con việc cần
thiết.
1.3. Ý nghĩa của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
Thứ nhất, việc thờ phụng tổ tiên là để thể hiện lòng tri ân đối
với công ơn của tổ tiên, ông bà cha mẹ đã khuất. Con cháu bày tỏ
lịng thành kính và biết ơn đối với các thế hệ đã có cơng sinh thành
và nuôi dưỡng con cháu nên người như ngày nay. Người con hiếu
thảo phải biết công ơn sinh thành, ni dưỡng của cha mẹ. Để tỏ
lịng hiếu lễ với cha mẹ thì phải biết ơn tổ tiên, ơng bà đã khuất. Đó
là nguồn gốc đã sinh ra thế hệ con cháu ngày nay. Người xưa thường
dạy: con người ta phải có tổ tiên mới có các thế hệ hiện nay. Con
cháu khơng nhớ đến cơng ơn tổ tiên, chính là quên mất nguồn gốc
bao đời của mình.
Thứ hai, việc thờ cúng tổ tiên lại có ý nghĩa thiết thực, sâu sắc,
giúp cha mẹ giáo dục con cháu lòng biết ơn tổ tiên, dòng họ của
9


mình: Học tập tấm gương, đạo đức, nhân cách trong sáng của họ,
tinh thần lao động cần cù, họ đã vượt qua bao khó khăn, gian khổ,
mới ni dưỡng được các thế hệ con cháu cho đến ngày nay. Đồng
thời, con cháu cần cố gắng khắc phục những thiếu sót của các thế hệ
đi trước, phát huy những gì tốt đẹp nhằm xây dựng gia đình, đất
nước ngày một phát triển.
Thứ ba, thờ cúng tổ tiên tổ tiên vừa là cơ hội, đồng thời lại
là mục tiêu để phát triển mối quan hệ anh em, họ hàng cùng dòng
họ, cùng nguồn gốc máu mủ chung.

Chính việc thờ cúng tổ tiên đã gắn bó khơng chỉ các thành viên
của gia đình nhỏ (cha mẹ, con cái) mà còn củng cố mối quan hệ họ
hàng, dòng họ, cùng chung một Tổ tiên. Những ngày giỗ, ngày tết là
những dịp để tập hợp đầy đủ họ hàng, thân thích gần xa. Họ gặp mặt
nhau, trước là để cúng bái tổ tiên, sau là để chuyện trị, thăm hỏi,
chia sẻ vui buồn, khó khăn, tìm cách giúp đỡ nhau.
Có nhiều dịng họ, những ngày giỗ được tổ chức long trọng. Do
trưởng họ chủ trì, với đầy đủ đại diện các chi họ đến cúng bái tổ tiên.
Sau đó, mọi người cùng bàn bạc những việc cần làm để thể hiện lịng
thành kính và biết ơn ơng Tổ chung nhiều đời của dịng họ.
Mối quan hệ họ hàng, dịng họ đến nay được duy trì, củng cố
chính từ phong tục thờ cúng Tổ tiên vẫn đang được thực hiện ở nhiều
gia đình Việt Nam và được tổ chức ngày càng nề nếp hơn.
Tháng 3 Tảo mộ, họ hàng chú, bác, cơ, dì cùng nhau đi thắp
hương, sửa sang mồ mả người thân đã khuất ở nghĩa địa làng hay
nghĩa trang dòng họ, nghĩa trang thành phố… Hiện nay, vẫn có
phong tục hàng năm cứ ngày Tết Nguyên Đán, anh em cùng dòng họ
ở thành phố, đô thị lại tập hợp nhau về quê hương, thắp hương ở nhà
thờ Tổ và đi tảo mộ… Con cháu họp nhau nhắc đến công ơn tổ tiên
10


và từ đó đã nảy sinh nhu cầu tìm hiểu về dòng dõi nhiều đời đã qua
để biên soạn thành gia phả dịng họ.
Thứ tư, thờ cúng tổ tiên, ơng bà cha mẹ đã khuất, con cháu
không chỉ cảm phục công lao sinh thành, dưỡng dục của họ mà điều
quan trọng là cần làm rạng danh dòng họ hơn nữa trong thời đại
ngày nay. Chúng ta từ những việc làm hữu ích cho xã hội, cách ăn ở
có nghĩa, có tình với mọi người, làm tốt cơng việc chun mơn hàng
ngày, đóng góp cho sự phát triển và củng cố nền độc lập, tự do,

thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước Việt Nam, góp phần làm
rạng rỡ thêm dịng họ ơng cha ta. Như vậy, tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên là dịp để nhắc nhở con cháu noi gương những thế hệ đã khuất
và làm tốt hơn nữa công việc họ đã làm.
Con hơn cha không phải là có tài sản, tiền bạc giàu có hơn mà
ở đạo đức, nhân cách con người, cư xử nhân nghĩa, làm ăn chính
đáng, quan tâm giúp đỡ anh em họ hàng, người nghèo trong xã hội.
Thứ năm, những ngày giỗ tết của gia đình khơng phải chỉ tổ
chức mâm cao, cỗ đầy là được mà điều quan trọng là cái tâm, là việc
làm chính đáng hàng ngày của con cháu các thế hệ hiện nay.
Khi chúng ta cúng bái tổ tiên thì phải tự hứa khơng làm ơ danh
họ, cái chính của việc báo hiếu ông bà cha mẹ đã khuất, chính là
phải biết nối tiếp truyền thống sống đứng đắn của họ: ứng xử theo
đạo lý làm người, hoàn thành trách nhiệm được giao phó, làm tốt
nghĩa vụ người con trong gia đình, người cơng dân của đất nước Việt
Nam.
Thứ sáu, ý nghĩa tích cực, lâu dài của phong tục thờ cúng tổ
tiên chính là chúng ta cần hướng về tương lai, mà không phải chỉ là
quay về quá khứ để luyến tiếc, ca ngợi công lao ông bà, cha mẹ đã
khuất. Điều quan trọng của việc cúng bái tổ tiên là chúng ta cần suy
11


nghĩ về cuộc sống của bản thân: có tư cách đạo đức tốt hơn, cố gắng
làm tròn trách nhiệm được giao phó.
Đây cũng là một dịp để giáo dục con cái biết phát huy và làm
rạng rỡ thêm công đức, việc làm tốt đẹp của tổ tiên, ông cha các thế
hệ đã qua. Đó chính là ý nghĩa tốt đẹp, tích cực, lâu dài của tín
ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, một nét đẹp của văn hóa Việt Nam mà
chúng ta cần giữ gìn phát huy.

1.4. Các hình thức của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
Thờ cúng tổ tiên của người Việt bao gồm ba hình thức:
- Thờ cúng tổ tiên trong gia đình: Mỗi gia đình hay cụm gia
đình, hoặc một nhánh, cành đều lập bàn thờ tổ tiên tại gia đình hoặc
tại nhà trưởng của cụm gia đình đó; trường hợp có điều kiện thì dựng
nhà thờ riêng, gọi là nhà thờ bản phái. Thông thường tại đây chỉ thờ
đến đời thứ năm, từ các đời trên đó được chuyển sang thờ ở nhà thờ
chi (“Ngũ đại mai thần chủ”).
- Thờ cúng tổ tiên của một chi họ (tổ chi), được thờ tại nhà thờ
cho họ hoặc tại nhà thờ chi họ hoặc nhà trưởng của chi đó; cũng có
khi thờ ở nhà thờ tổ.
- Thờ cúng tổ của cả dòng họ (được gọi là thủy tổ, khởi tổ, triệu
tổ,..) tại nhà thờ chung của dòng họ, gọi là nhà thờ đại tôn (hay đại
tông).
Về đồ thờ tự và các nghi lễ thờ cúng tổ tiên trong gia đình có
thể khái qt như sau:
Bàn thờ (hay cịn gọi là nhang án, hương án): được lập tại mỗi
gia đình và được đặt ở vị trí trung tâm, nơi cao ráo, sạch sẽ và trang
trọng nhất trong nhà (gian giữa đối với nhà một tầng, tầng trên cùng
đối với nhà tầng). Những gia đình khá giả, có điều kiện, nhà cửa rộng
rãi có thể lập khám thờ, ngai thờ, nhang án, cửa võng,.. Nhà bình
dân hay nhà nghèo có thể lập một bàn thờ, một bát nhang để thờ
cúng tổ tiên. Trên bàn thờ bày bát hương,bộ tam sự (đỉnh đồng, chân
12


đèn và đơi hạc) hoặc ngũ sự (thêm bình cắm hương và bình cắm
hoa), mâm bồng, quả tơn, ngai thờ, khám thờ, bài vị hay hình ảnh
người quá cố. Đối với các gia đình quan lại hoặc giàu có trong xã hội
truyền thống, bàn thờ thường có ba bát hương, một bát ở giữa thờ

thần linh, 1 bát bên trái từ trong nhìn ra thờ tổ tiên, bát bên phải từ
trong nhìn ra thờ bà cơ, ơng mãnh. Nhìn vào bàn thờ có thể thấy
được đầy đủ “ngũ hành”: kim (đồ kim loại), mộc (đồ gỗ), thủy (nước)
hỏa (lửa), thổ (đất nung, hoặc cát). Theo Phan Kế Bính trong Việt
Nam phong tục “Nhà thờ Thủy Tổ có riêng một thần chủ để thờ mãi
mãi, không bao giờ thay đổi gọi là “bách thế bất diêu chi chủ”. Còn
về gia từ, nhà phú quý có đủ thần chủ bốn đời, để thờ cao, tằng, tổ,
khảo. Thần chủ làm bằng gỗ táo lấy nghĩa rằng gỗ táo sống được
nghìn năm. Dài độ một thước, ở giữa để tên, họ, chức, tước và hai
bên thì đề ngày tháng sinh tử của tổ tiên, có hộp vng che kín và
để trong long khám, khi nào cúng tế mới mở ra. Hễ đến năm đời thì
lại đem thần chủ cao tổ đi mà nhắc dần tằng, tổ, khảo lên bực trên,
rồi đem ông mới mất mà thế vào thần chủ ông khảo, gọi là “Ngũ đại
mai thần chủ”. Nhà thường dân cũng có nhà dùng thần chủ, cũng có
nhà chỉ dùng một bộ ỷ để thờ. Đồ thờ phụng thì đại khái nhà nào
cũng có một bộ đèn, nến, lư hương, bình hoa, mâm quỳ, mâm bồng,
cỗ đài rượu, hộp trầu, đài nước v.v...Người thì dùng đồ đồng đồ thiếc,
người thì dùng đồ sơn son thếp vàng thếp bạc. Nhà nào giàu có treo
hồnh biển khắc ba bốn chữ đại tự và trao kèm đối liễn đôi bên bàn
thờ, hoặc khảm trai, hoặc sơn thếp. Nhà khơng có cũng treo hồnh
biển và đơi liễn dán giấy. Đại ý trong chữ thì chỉ là ghi tụng công đức
của tổ tông. Đồ thờ phụng, càng nhà giàu thì càng trang hồng nhiều
đồ q, nhà nghèo đến đâu cũng có được một vài cây đèn nến sơn
son và một cái bình hương. Ta coi đồ thờ tự là đồ rất kính trọng,
khơng ai đem cầm đem bán bao giờ. Nếu nhà nào nghèo quá phải
cầm bán thì ai cũng chê cười”.
Trong gia đình, nghi lễ thờ cúng gia tiên được tiến hành vào
ngày mùng một (ngày sóc), ngày rằm (15) âm lịch, ngày lễ, ngày tết,
13



ngày giỗ người đã khuất và tất cả những biến cố vui, buồn như: làm
nhà, cưới hỏi, tang ma, làm nhà mới, lập được cơng danh, ngày sinh
con, ngày có việc đi xa…Trong truyền thống, việc cúng vái gia tiên
bao giờ cũng do gia trưởng (đàn ông) làm (trừ khi gia trưởng có cơng
việc phải đi xa nhà, thì người quan trọng thứ hai trong gia đình thực
hiện. Ngày nay việc cúng vái gia tiên đã có sự thay đổi, nhiều gia
đình việc cũng lễ tổ tiên thường do người phụ nữ đảm nhiệm. Mỗi lần
cúng gia tiên đều phải có đồ lễ, và phải theo những nghi thức truyền
thống tối thiểu. Đồ lễ thông thường gồm: trầu, rượu, hoa quả, vàng
hương và nước lạnh. Trong trường hợp bất thần đêm hơm, có thể
giảm đến mức tối thiểu và chỉ cần một chén nước lạnh, một nén
hương thắp trên bàn thờ là đủ. Ngoài những đồ lễ tối thiểu kể trên,
tùy theo hồn cảnh từng gia đình, tùy từng buổi lễ, đồ lễ có thể gồm:
xơi, chè, oản, chuối, hoặc cỗ mặn, có khi có thêm đồ mã.
Trong ngày lễ, khi đồ lễ đã đặt lên bàn thờ, người gia trưởng
khăn áo chỉnh tề, thắp đèn, nến, ba nén nhang, rồi quỳ xuống hoặc
đứng trước bàn thờ khấn. Một số gia đình có chiếc chng nhỏ, người
gia trưởng sau khi thắp hương thì thỉnh chng, xong khấn. Trước khi
khấn thì vái ba vái, khi khấn xong lại vái ba vái nữa. Sau khi người
gia trưởng khấn lễ xong, mọi người khác trong gia đình (trừ trẻ nhỏ)
mới lần lượt tới lễ trước ban thờ. Người ta chờ cho tàn một tuần
nhang (tức là những nén nhang thắp lên cháy gần hết), gia trưởng
thắp tiếp một tuần nhang nữa, rồi lễ tạ. Lễ tạ xong, hạ vàng mã trên
bàn thờ để hóa (đốt đi) và có thể hạ đồ lễ xuống, cịn chén rượu cúng
thì đem rót xuống đống tàn vàng vừa hóa. Tục truyền rằng phải làm
như vậy người chết mới nhận được đồ cúng tế, vì hương khói bay lên
trời, nước (rượu) hòa với lửa mà thấm xuống đất. Nếu là ngày giỗ
người đã khuất, sau khi cúng giỗ, gia đình thường dọn thức ăn vừa
cúng xong để cùng ăn, coi như hưởng lộc của tiền nhân. Bạn bè thân

thuộc cũng được mời đến dùng bữa, tức là ăn giỗ. Trong các bàn thờ
xưa, phía trước bàn thờ thường có chiếc y mơn. Trong lúc dâng cúng,
14


chiếc y môn (rèm che trước bàn thờ) trên bàn thờ được buông xuống
để tổ tiên hưởng lễ. Sau khi lễ tạ, y môn được kéo lên.
Một biến thể của việc cúng giỗ ở các gia đình là tục thờ “hậu”
do nhà chùa hay đình làng đảm nhiệm. Trong trường hợp này người
quá cố đã cúng tiền hay ruộng vào chùa hay đình để được hưởng lễ
vật vào những ngày kỵ nhật.
Vì kính trọng tổ tiên, người Việt coi việc tang ma là trọng sự,
gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên.
Đối với nghi lễ thờ tổ họ được tiến hành vào ngày giỗ các vị tổ
chi và tổ họ (có thể tổ chức cả vào ngày giỗ cụ tổ ông và tổ bà, hoặc
chỉ tổ chức vào ngày giỗ của một cụ).

Trưởng tộc là người được

hưởng hương hoả của tổ tiên nên có trách nhiệm phải lo việc làm giỗ
họ. Trong ngày giỗ họ, con cháu đều phải góp giỗ. Mỗi dịng họ
thường có một cuốn tộc phả ghi chép họ tên, chức tước, ngày tháng
sinh tử của tổ tơng và người trong họ theo thứ tự. Việc góp giỗ và tổ
chức giỗ họ hàng nǎm được chuẩn bị rất chu đáo. Theo phong tục chỉ
có đàn ơng trong họ trên 18 tuổi mới phải góp giỗ (được gọi là tính
theo đinh). Có nhiều họ theo quan niệm “con gái là con người ta”
nên không cho con gái dự giỗ họ nhưng con dâu “mới đúng là con
mua về” thì được tham dự. Ngày nay, quan niệm ấy đã dần được xố
bỏ. Ngày giỗ họ, khơng mời khách khứa, chỉ có con cháu trong họ.
Các ngày rằm, mồng một, ngày lễ, ngày Tết việc lễ bái sẽ do nhà

trưởng họ lo. Đến tháng Chạp thì cả họ lại họp nhau lại như ngày giỗ
Tổ. Vào dịp giỗ tổ hàng năm hoặc khi có việc họ thì cả họ tới nhà
trưởng họ dự lễ và hưởng lộc, nhà thờ tổ giao cho gia đình trưởng họ
trơng nom, hương khói. Nhà thờ tổ to hay nhỏ là tùy thuộc vào họ
lớn hay bé (do số chi hoặc phân chi, số đinh nhiều hay ít). Về kiểu
dáng, nhà thờ tổ thường mơ phỏng ngơi đên thờ Thành hồng hoặc
có thể xây dựng giống ngơi nhà ở gồm ba gian.
Có thể thấy rằng, trong phạm vi thờ cúng tổ tiên đối với những
người có cùng huyết thống thì thờ cúng tổ họ có phạm vi rộng lớn
nhất. Bởi đó là ơng tổ của cả một dòng họ, là cái “gốc”, là “cội
15


nguồn” của cả một dòng họ. Cho nên tất cả những người trong họ
đó, ngồi việc thờ cúng tổ tiên trong gia đình mình, thờ cúng tổ chi,
thì có nghĩa vụ thờ cúng tổ họ.
2. Thực trạng thờ cúng thổ tiên của người Việt hiện nay
Để phát huy tính tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên, cần có những nhận định chính xác về thực
trạng tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện nay. Thực trạng
thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện nay đang phản ánh cuộc sống
biến đổi sâu sắc, đặc biệt từ khi Đảng có chủ trương đổi mới, đặc biệt
là đổi mới trong văn hóa. Từ đó cho ta thấy được sự biến đổi trong
nếp sống, nếp nghĩ trong phong tục, tập quán của người Việt. Trên cơ
sở đó đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực,
hạn chế mặt tiêu cực.
- Đối với việc thờ tổ tiên tại gia đình: Ở nước ta hầu hết các
gia đình đều có bàn thờ tổ tiên (92%), số cịn lại đều là các gia đình
trẻ chỉ lập bàn thờ thổ công, bàn thờ tổ tiên bên nhà bố mẹ. Việc thờ
cúng tổ tiên tại gia đình thường được tiến hành quanh năm, xuất phát từ quan niệm dù

đã khuất nhưng linh hồn họ vẫn luôn ở bên cạnh con cháu. Không chỉ cúng lễ trong
các dịp quan trọng như tang ma, giỗ chạp, cưới xin…, không chỉ trong những ngày lễ
tiết như Tết nguyên đán, Thanh minh, Hàn thực, Đoan ngọ…, các ngày Sóc(ngày
mồng một), Vọng (ngày rằm) theo chu kỳ tuần trăng, mà các vị tổ tiên cịn được con
cháu kính cáo mọi chuyện vui buồn: sinh nở, ốm đau, thi cử, đỗ đạt, kiện cáo, bất hòa,
dựng vợ gả chồng… Con cháu còn kính mời các vị về hưởng thụ hoa trái đầu mùa, lễ
tạ tổ tiên khi có phúc, có lộc. Có thể nói trong tâm thức những người sống tổ tiên là bất
tử. Người Việt dâng hương, làm lễ cúng tổ tiên để báo cáo và để cầu tổ tiên phù hộ,
hay để tạ ơn khi công việc thành công. Bản chất việc thờ cúng tổ tiên của người Việt là
từ niềm tin người sống cũng như người chết đều có sự liên hệ mật thiết và hỗ trợ nhau.
Con cháu thì thăm hỏi, khấn cáo tiền nhân. Tổ tiên thì che chở, dẫn dắt hậu thế nên
việc cúng giỗ là thực hiện mối giao lưu giữa cõi dương và cõi âm. Việc thờ tổ tiên
đã có những biến đổi so với trước đổi mới (1986) thể hiện trên một
số khía cạnh:
16


- Có sự phục hồi mạnh mẽ trở lại và có phần sơi đọng hơn
trước (do trong chiến tranh bị mai một). Bên cạnh đó nó cũng có sự
biến đổi theo nhiều xu hướng khác nhau: suy giảm, đơn giản hố,
phơ trương, thương mại hóa...
+ Nghi thức tang lễ cúng giỗ sau một thời gian dài tiến hành
giản tiện (do chiến tranh hoặc do điều kiện kinh tế) hiện nay đang
trở lại với những hình thức cầu kỳ, phức tạp: mời nhà sư đến cầu kinh
trong tang lễ; xu hướng gửi linh hồn người chết lên chùa (để nhà
chùa thường xuyên hương khói).
+ Bàn thờ thường được đưa lên vị trí trên cùng của tầng lầu do
kiến trúc nhà tầng xây dựng ngày càng nhiều.
+ Việc chăm sóc mồ mả tổ tiên những năm gần đây được chú
trọng nhiều hơn trước. Ngoài việc đắp thêm mộ trong ba ngày (sau khi người

thân chết), các gia đình, dịng họ thường đi thăm mộ, cúng tế sửa sang mồ mả vào dịp
Tết Thanh minh tháng ba. Việc cúng tế tại mộ thường diễn ra đơn giản hơn nhiều so
với cúng tại nhà, nhưng trước khi cúng trước mộ người thân người ta phải khấn cáo
xin phép thổ công. Thăm nom sang sửa mồ mả tổ tiên, một mặt là hình thức thể hiện
lòng hiếu thảo của con cháu, mặt khác bởi quan niệm mồ mả vô cùng quan trọng đối
với cuộc sống của cả gia đình, gia tộc. Người Việt cho rằng, nếu vị trí đặt mồ mả
khơng tốt, hướng khơng đúng thì con cháu làm ăn sẽ lụi bại, khơng thể nào phát triển
được
+ Tư tưởng bản vị, đầu óc hẹp hịi, cổ hủ của người nơng dân
khi xưa có xu hướng được hồi sinh mạnh mẽ hơn. Có những gia đình
nghèo, kinh tế khó khăn, nhưng sợ dư luận hàng xóm cho là bất hiếu
nên đành vay mượn để tuân theo các nghi thức thờ cúng tế cầu kỳ,
rườm rà. Mặt khác, có thể thấy rõ tính chất vụ lợi trong việc thờ cúng
hiện nay. Người ta sẵn sàng mua những đồ mã đắt tiền để dâng cho
tổ tiên chỉ mong tổ tiên phù hộ, cho lại họ nhiều như thế. Nhiều
người thờ tổ tiên chẳng phải vì lịng biết ơn (khi cha mẹ cịn sống thì
đối xử tệ bạc, nhưng khi chết lại cúng mâm cao cỗ đầy) với mục đích
cầu sự'phù trợ của người âm cho bn may bán đắt...
+ Cách thức bài trí ban thờ tổ tiên, ban thờ dịng tộc cũng có
17


nhiều thay đổi. Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính mơ tả đồ thờ
trước kia trong nhà thờ như sau: “Nhà thờ Thủy tổ có riêng một thần
chủ để thờ mãi mãi, không bao giờ thay đổi, gọi là “bách thế bất diêu
chi chủ”. Còn về gia từ nhà phú quý có đủ thần chủ bốn đời, để thờ
cao, tằng, tổ, khảo. Thần chủ làm bằng gỗ táo, lấy nghĩa rằng gỗ táo
sống lâu được nghìn năm. Dài một thước, ở giữa đề tên, họ, chức
tước và hai bên thì đề ngày tháng sinh tử của tổ tiên, có hộp vng
che kín và để trong long khảm, khi nào cúng tế mới mở ra. Hế đến

năm đời thì lại đem thần chủ Cao tổ mai đi mà nhắc lần Tằng, Tổ,
Khảo lên bực trên, rồi đem Ông mới nhất mà thế vào thần chủ ông
Khảo, gọi là “Ngũ đại mai thần chủ”. Nhà thường dân cũng có nhà
dùng thần chủ, cũng có nhà chỉ dùng một bộ ỷ để thờ”. Ngày nay,
cách thức thờ cúng này rất ít gia đình cịn duy trì được. Hầu hết các
ban thờ gia tiên, đặc biệt là các ban thờ gia tiên tại thành phố khơng
có thần chủ, khơng có long khảm đặt thần chủ, khơng có bài vị Cao,
Tằng, Tổ, Khảo. Một số ít gia đình, nhiều hơn tại các vùng làng q
cịn giữ được Thần chủ, một số gia đình khơng giữ được thần chủ
nhưng vẫn còn Long khảm trên ban thờ. Hiện nay, xu thế một số nhà
thờ họ dựng lại Long khảm đặt trên ban thờ gia tộc dòng họ. Tuy
nhiên, ý nghĩa của Thần chủ, Long khảm không mấy ai tường tận. Vì
vậy, phương thức thờ “Ngũ đại mai thần chủ” khơng cịn được duy
trì. Khơng có Thần chủ, khơng có bài vị các bậc Cao, Tằng, Tổ, Khảo
nên giờ đây người ta khơng cịn khái niệm chỉ thờ cúng tổ tiên năm
đời. Những gia đình nào cịn may mắn giữ lại được bài vị tổ tiên từ
trước thì mãi mãi lưu giữ khơng tính đến chuyện đời thứ 5 thì phải
mai đi thay thế hệ mới vào đó nữa. Bài vị tổ tiên được cọi như bảo
vật cần được gìn giữ.
- Đối với việc thờ cúng tổ tiên trong dòng họ: Tầm quan trọng
của thờ cúng tổ tiên bên cạnh sự biểu hiện qua không gian thờ cúng
tổ tiên trong gia đình cịn thể hiện qua sự chú trọng xây dựng hệ
thống nhà thờ tổ, nhà thờ dòng tộc. Trong những năm gần đây, nhiều
nhà thờ họ đã được tu bổ, xây mới. Nhiều gia đình chi phí đóng góp
18


xây dựng nhà thờ tộc, nhà thờ họ lên tới vài tỉ đồng. Xu thế xây dựng
nhà thờ tộc được phục hồi nhưng xu thế cá nhân hóa thờ cúng tổ tiên
cũng phát triển rất mạnh mẽ. Tính cá nhân hóa mà chúng tơi đề cập

tới ở đây để chỉ xu thế thờ cúng tổ tiên ngày nay được chuyển vào
từng thành viên trong gia đình. Nếu trước đây, thờ cúng tổ tiên được
tập trung tại nhà dòng trưởng (trưởng tộc, trưởng họ, trưởng chi, con
trưởng) thì nay, mọi thành viên trong gia đình đều thờ cúng tổ tiên
tại gia đình mình. Nhiều gia đình vẫn cịn giữ được tục lệ cứ giỗ tết
tập trung lại vào nhà con trưởng để làm giỗ.Ở nhiều làng quê hầu
hết dòng họ nào cũng có nhà thờ họ được xây dựng khang trang. Tuy
nhiên nhiều nơi nhà thờ họ xây dựng lòe loẹt, phơ trương…Các nhà
thờ họ thi nhau xây dựng, dịng họ dựng sau cố gắng ganh đua xây
to hơn, bề thế hơn họ trước.
Nhiều dòng họ lưu giữ được gia phả (bằng chữ Hán, chữ quốc
ngữ) ghi chép nguồn gốc dòng họ, quá trình di chuyển từ nơi này tới
nơi khác, chức tước, cơng trạng…phát triển văn hố dịng họ. Ngày
giỗ họ tổ chức linh đình, con cháu từ nhiều nơi về tề tựu đông đủ,
xây dựng mồ mả, khu nghĩa trang riêng cho từng dòng họ...
Nếu trước đây, thờ cúng tổ tiên được tập trung tại nhà dòng
trưởng (trưởng tộc, trưởng họ, trưởng chi, con trưởng) thì nay, mọi
thành viên trong gia đình đều thờ cúng tổ tiên tại gia đình mình.
Nhiều gia đình vẫn cịn giữ được tục lệ cứ giỗ tết tập trung lại vào
nhà con trưởng để làm giỗ. Tuy nhiên, tại nhiều gia đình, ngày giỗ
khơng còn là ngày con cháu tập trung như trước nữa. Hình thức cúng
giỗ mang tính cộng đồng chung các thành viên trong gia đình được
chuyển thành hình thức cúng giỗ cá thể. Mỗi thành viên trong gia
đình làm lễ cúng giỗ người đã mất tại nhà mình. Như vậy, giả dụ một
ơng bố có 5 người con, khi ơng bố mất đi, nếu theo hình thức cúng
giỗ trước kia, các con sẽ tập trung tại nhà con trai trưởng để làm lễ
cúng giỗ bố vào ngày giỗ và không làm tại nhà riêng của mình thì
ngày nay cả 5 người con không phân biệt trai hay gái sẽ tiến hành
làm lễ cúng giỗ bố tại nhà riêng của mình. Nếu cho rằng người mất
19



có thể về được để hưởng thụ những vật phẩm mà người thân của
mình cúng tế vào ngày giỗ thì ông bố này sẽ phải đi tới 5 ngôi nhà để
hưởng 5 mâm cỗ thay vì một mâm như trước kia.

20


KẾT LUẬN
Tóm lại, tín ngưỡng thờ cúng tố tiên đã gắn bó với người dân
Việt Nam từ lâu đời. Mỗi người dân Việt khơng ai là khơng có ý thức
về cội nguồn, về làng xóm, về quê hương đất nước, về các đấng sinh
thành. Họ thì có tổ họ, làng thì có Thành Hồng, nước thì có Vua
Hùng là tổ nước. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên vì vậy có tác động rất
lớn đến đời sống mỗi con người và xã hội Việt Nam. Tín ngưỡng này
khơng chỉ dạy người ta biết hiếu thảo với ông bà cha mẹ, hiều đễ với
anh chị em trong gia đình mà cịn nhắc nhở họ nhớ về cội nguồn.
Người Việt Nam dù đi đâu cũng không cảm thấy lạc lõng bơ vơ, mọi
người trên mảnh đất này đều ý thức mình là con Rồng cháu Lạc, phải
biết yêu thương đùm bọc lẫn nhau. Đoàn kết là một truyền thống
quý báu của dân tộc ta, thơng qua tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, và
nhờ tín ngưỡng này, truyền thống đó được vun đắp thêm nhờ những
ý niệm tâm linh. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên mang đến những tác
động tích cực vì tự bản thân tín ngưỡng này bao hàm những ý nghĩa
sâu sắc. Tuy nhiên, thơng qua những hoạt động của mình, tín ngưỡng
này gặp phải khơng ít những hạn chế, tiêu cực. Cần nhìn nhận những
hạn chế ấy để có biện pháp khắc phục kịp thời, trả lại cho tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên những vẻ đẹp của nó.


21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Đăng Duy: Văn hóa tâm linh, Nxb Hà Nội, 1996,
tr.181.
2. Hà Văn Tăng, Trương Thìn: Tín ngưỡng và Mê tín, Nxb Thanh
Niên, 1999, tr.150.
3. Việt Nam phong tục, Nxb Văn hóa thơng tin, 2005, tr. 25 –
26.
4.

/>
to-tien-trong-xa-hoi-viet-nam-duong-dai.
5. />
22



×