Tải bản đầy đủ (.pdf) (178 trang)

(Luận án tiến sĩ) chính sách thúc đẩy các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất – tiêu thụ sản phẩm trong ngành thủy sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.54 MB, 178 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
---------------------------------

PHẠM THỊ THÙY LINH

CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY CÁC HÌNH THỨC
HỢP TÁC, LIÊN KẾT SẢN XUẤT - TIÊU THỤ
SẢN PHẨM TRONG NGÀNH THỦY SẢN VIỆT NAM
Chuyên ngành: KINH TẾ QUỐC TẾ
Mã số: 9310106

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

Người hướng dẫn khoa học: 1. GS.TS ĐỖ ĐỨC BÌNH

HÀ NỘI - NĂM 2021


1

MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Theo FAO (2018), dân số toàn cầu dự kiến sẽ đạt 9 tỷ vào năm 2050 đặt ra yêu
cầu lĩnh vực sản xuất lương thực, thực phẩm thế giới phải bảo đảm đáp ứng nhu cầu
lương thực, thực phẩm và dinh dưỡng cho dân số ngày càng tăng thông qua việc tăng
sản lượng sản xuất đồng thời giảm chất thải ra ngồi mơi trường. Gia tăng sản xuất
lương thực, thực phẩm trong bối cảnh dân số thế giới tăng, trong khi các nguồn lực cần
thiết cho sản xuất lương thực, ví dụ như đất và nước, trở nên khan hiếm hơn, mang
tính cấp thiết và do đó, lĩnh vực sản xuất này cần phải khai thác tối ưu các nguồn lực.
Sự gia tăng tác động BĐKH toàn cầu cũng đặt ra cho thế giới phải thay đổi cách thức


tiến hành các hoạt động kinh tế.
Xu hướng tồn cầu hóa và mở rộng thị trường quốc tế cũng như sự gia tăng
nhanh các tầng lớp trung lưu và thượng lưu ở các nước đang phát triển tạo ra nhiều cơ
hội cho các nhà sản xuất ở các quốc gia này trong việc sản xuất và đáp ứng nhu cầu
cho các thị trường mới nổi trong nước và quốc tế. Điều này có nghĩa là các nhà sản
xuất ở các nước phát triển phải đạt được sự kiểm sốt tốt hơn đối với q trình sản
xuất, thương mại và phân phối sản phẩm nhằm đảm bảo chất lượng và giá trị gia tăng
cho các sản phẩm của mình và hoạt động một cách hiệu quả. Hơn nữa, các nhà sản
xuất cịn phải thích ứng được với các tiêu chuẩn cao về chất lượng, an toàn thực phẩm
(ATTP), và các quy định nghiêm ngặt khác như về môi trường, trách nhiệm xã hội, lao
động…của các thị trường này (Dolan và Humphrey 2004). Tự do hóa thương mại hàng
nông sản1 đang diễn ra với mức độ ngày càng tăng. Phân công lao động trong chuỗi
giá trị hàng thủy sản toàn cầu ngày càng sâu sắc với mức độ chun mơn hóa ngày
càng cao, từ nghiên cứu, sản xuất đến ma-keting và phân phối sản phẩm. Các nước
tham gia vào chuỗi giá trị hàng thủy sản thế giới đang tìm cách để thâm nhập vào
những khâu tạo ra giá trị nhiều nhất như nghiên cứu, ma-keting và phân phối sản
phẩm. Thực tế cho thấy, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu đang là xu thế phổ biến
hiện nay, mang lại nhiều lợi ích kinh tế xã hội, kể cả đối với các nước đang và kém
phát triển.
Ngành thủy sản có vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
Việt Nam; trở thành một ngành mũi nhọn trong các ngành kinh tế quốc dân; đóng góp
tích cực cho q trình cơng nghiệp hóa hiện đại hóa nơng nghiệp và nơng thơn. Giai
1

Nơng sản bao gồm tất cả các mặt hàng nông-lâm và thủy sản


2
đoạn 2010 - 2020 giá trị xuất khẩu thuỷ sản (XKTS) Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng
bình quân 5,3%/năm. Năm 2010 tổng giá trị XKTS đạt 5.017.700 nghìn USD, đến

năm 2020 tổng giá trị XKTS đạt 8,4 tỷ USD, đóng góp vào 2,98% tổng giá trị xuất
khẩu hàng hố của cả nước (D-Fish 2020). Bên cạnh đó, ngành thủy sản góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nơng nghiệp nơng thơn, xóa đói giảm nghèo, và giải quyết
việc làm cho khoảng trên 4,5 triệu lao động thủy sản, trong đó có trên 1,89 triệu lao
động chun thủy sản cịn lại là lao động thủy sản kết hợp. Tôm nước lợ và cá Tra là
hai sản phẩm chủ lực đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu của ngành thuỷ sản. Các mặt
hàng thủy sản Việt Nam có vị trí ngày càng quan trọng trong thị trường thủy sản thế
giới.
Là một nước có nhiều lợi thế trong sản xuất các mặt hàng thủy sản, Việt Nam
có vị trí ngày càng quan trọng trên thị trường thế giới với nhiều sản phẩm chủ lực như
cá tra, tôm nước lợ, cá ngừ, mực bạch tuộc, nhuyễn thể... Hoạt động xuất khẩu thuỷ
sản hàng năm đã mang về cho ngân sách nhà nước một khoản ngoại tệ lớn , rất quan
trọng trong việc xây dựng và phát triển đất nước . Các sản phẩm được xuất khẩu ra
nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, góp phần nâng cao vị trí của Việt Nam nói
chung và ngành thuỷ sản Việt Nam nói riêng trên trường quốc tế .
Tuy nhiên, trên thực tế, các hoạt động sản xuất thuỷ sản hiện nay chủ yếu vẫn
mang tính nhỏ lẻ, phân tán, chưa tuân thủ quy trình sản xuất, chưa tạo ra sản phẩm an
tồn, chất lượng, đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng trong nước cũng như các thị
trường nhập khẩu. Các hộ sản xuất chưa chú ý tới liên kết hợp tác nhóm hộ mà vẫn sản
xuất đơn lẻ, tự phát nên chưa tạo được vùng sản xuất tập trung, vùng nguyên liệu đủ
lớn và ổn định. Bên cạnh đó, biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp cộng với quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế đều đang có những tác động sâu rộng, vừa mở ra những cơ
hội nhưng cũng tạo ra nhiều thách thức về điều kiện sản xuất cũng như thị trường.
Tình trạng người sản xuất tự phá vỡ liên kết khi giá bán sản phẩm tăng, tự ý phá giá
bán cho các thương lái khác, tự ý phá vỡ hợp đồng liên kết với doanh nghiệp thường
xuyên xảy ra do chưa có cơ chế chia sẻ rủi ro, lợi nhuận, chủ yếu liên kết theo hình
thức thương thảo, thuận mua vừa bán; công tác thị trường không được quan tâm đầy
đủ và đúng mức.
Trong bối cảnh đó, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách thúc đẩy các hình
thức hợp tác, liên kết gắn sản xuất với tiêu thụ sản phẩm trong ngành thuỷ sản nhằm

góp phần giải quyết tính manh mún, phân mảnh trong sản xuất, tạo nên sức mạnh tổng
hợp, nâng cao tính cạnh tranh cho các sản phẩm, hướng tới một ngành sản xuất có giá
trị gia tăng cao và năng lực cạnh tranh lớn không chỉ trong thị trường nội địa mà cả ở


3
quốc tế. Nhóm chính sách thúc đẩy các hình thức hợp tác, liên kết gắn sản xuất với
tiêu thụ sản phẩm trong ngành thuỷ sản đã được các Bộ, ngành và địa phương rất
quan tâm triển khai áp dụng trong thực tiễn sản xuất. Đã có nhiều tín hiệu tích cực
về sự gia tăng các mơ hình liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm thuỷ sản từ
các tổ nhóm đến hợp tác xã, từ các ao ni, tổ đoàn kết trên biển đến chuỗi giá trị…
Mặc dù vậy, thực tế cũng phản ánh khơng ít vướng mắc trong q trình triển khai
các chính sách thúc đẩy các hình thức hợp tác, liên kết gắn sản xuất với tiêu thụ sản
phẩm nên sự gia tăng dù được ghi nhận về số lượng và quy mô nhưng chất lượng
liên kết bao gồm các nội dung và mức độ cam kết vẫn chưa thực sự đáp ứng yêu
cầu. Những vấn đề như vai trị các tác nhân tham gia khơng rõ ràng, khơng hình
thành được hợp đồng liên kết hoặc có nhưng khơng được thực thi một cách đầy đủ,
phân chia lợi ích chưa rõ ràng, cơ chế chia sẻ rủi ro hầu như chưa được đề cập và
coi trọng nên chưa khuyến khích được các tác nhân tham gia liên kết…Đối tượng
thụ hưởng chính sách khó tiếp cận các chính sách do thủ tục cịn nhiều bất cập;
định mức hỗ trợ thấp, chưa thực sự đáp ứng tâm tư nguyện vọng của đối tượng thụ
hưởng. Nguồn kinh phí thực hiện chính sách rất hạn chế, nhiều địa phương chưa tự
chủ được về ngân sách dẫn đến chính sách ban hành nhưng không thực hiện được.
Mặt khác, do nội dung của nhóm các chính sách thúc đẩy các hình thức hợp tác,
liên kết gắn sản xuất với tiêu thụ sản phẩm trong nơng nghiệp nói chung và trong
ngành thuỷ sản nói riêng khơng đặt ra một cơ chế rõ ràng về việc thống kê kết quả
đã thực hiện được cũng như giám sát, hỗ trợ trong quá trình thực hiện nên việc hình
thành cơ sở dữ liệu và phản hồi chính sách đang gặp nhiều vướng mắc, gây khó
khăn cho việc chỉ đạo thực hiện. Công tác tuyên truyền, phổ biến nội dung thực
hiện chính sách thúc đẩy các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất với tiêu thụ sản

phẩm trong ngành thuỷ sản tới các cơ sở xã, xóm, nhân dân trên địa bàn các tỉnh,
thành phố cịn hạn chế, nhiều địa phương còn chưa nắm rõ được về nội dung cũng
như trình tự thủ tục tiếp cận chính sách nên việc hướng dẫn triển khai rất khó khăn.
Vì vậy, việc hồn thiện chính sách thúc đẩy các hình thức hợp tác, liên kết trong
sản xuất thuỷ sản có tầm quan trọng đặc biệt trong phát triển ngành thủy sản và rất cần
thiết trong thời điểm hiện nay. Do vậy, nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài Chính sách
thúc đẩy các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất - tiêu thụ sản phẩm trong ngành
thủy sản Việt Nam” làm nghiên cứu cho luận án tiến sỹ thuộc chuyên ngành kinh tế
quốc tế.

2. Tổng quan nghiên cứu tình nghiên cứu trong và ngồi nước có liên quan
đến luận án


4
2.1. Một số nghiên cứu về hình thức liên kết tại Việt Nam
Ở Việt Nam, khi hộ nông dân đã trở thành đơn vị kinh tế tự chủ và trở thành đối
tượng trực tiếp của liên kết với các hội/hiệp hội, kinh tế tập thể theo kiểu cũ dần giải
thể thì những hình thức hợp tác, liên kết mới trong nông nghiệp nông thôn cũng dần
xuất hiện. Từ trước những năm 2000, các nghiên cứu tập trung vào việc luận giải
các vấn đề về lý luận chuyển đổi cơ chế kinh tế, tính tất yếu cũng như các định
hướng cơ bản trong đổi mới quan hệ liên kết kinh tế giữa nông nghiệp, nông dân
với nền kinh tế thông qua các điều kiện mới của thể chế. Đó là cơ sở quan trong
cho các quan hệ liên kết phát triển sau này (Lê Hữu Ảnh và cộng sự 2010). Một
hướng nghiên cứu khác tập trung làm rõ quan điểm và nội dung đổi mới liên kết và
chú trọng vào liên kết kinh tế trong các vùng nông nghiệp sản xuất hàng hóa. Trong
đó, thể hiện mối liên kết giữa nơng dân, hợp tác xã với doanh nghiệp chế biến,
doanh nghiệp tiêu thụ hoặc tổ hợp sản xuất - chế biến, hoặc sản xuất - chế biến tiêu thụ sản phẩm. Từ đó hình thành nên các giải pháp, chính sách thúc đẩy đổi mới
liên kết kinh tế trong các vùng nơng nghiệp sản xuất hàng hóa.
Nghiên cứu của Trần Minh Vĩnh, Phạm Vân Đình (2014) về “Một số giải pháp

phát triển hợp đồng liên kết - sản xuất tiêu thụ lúa gạo tỉnh Đồng Tháp” cho thấy
ngành hàng lúa gạo tại Đồng Tháp có 3 hình thức liên kết: (1) Doanh nghiệp đầu tư
(kỹ thuật, cung ứng vật tư đầu vào cho nông dân) và bao tiêu sản phẩm cho nông dân;
(2) Doanh nghiệp đầu tư, cung ứng đầu vào cho nông dân nhưng không bao tiêu sản
phẩm đầu ra; (3) Doanh nghiệp không tham gia đầu tư ban đầu nhưng kỹ hợp đồng
bao tiêu sản phẩm đầu ra cho nông dân. Nghiên cứu chỉ ra 4 vần đề gồm a) các hình
thức hợp đồng liên kết sản xuất - tiêu thụ lúa gạo chưa phù hợp; b) năng lực sản xuất
kinh doanh của nơng dân và doanh nghiệp cịn yếu kém và c) Nhà nước chưa phát huy
hết vai trị của mình trong việc hợp tác, liên kết sản xuất - tiêu thụ lúa gạo d) Các tổ
chức đại diện của nông dân (HTX và tổ hợp tác) chưa làm tốt vai trị của mình trong
việc hợp tác sản xuất - tiêu thụ sản phẩm. Từ đó, tác giả đề xuất các giải pháp gồm: i)
nhân rộng và phát triển hình thức liên kết sản xuất - tiêu thụ lúa gạo thông qua hợp
đồng mà doanh nghiệp giữ vai trò hạt nhân cung ứng đầu vào sản xuất và thu mua lúa
gạo cho nông dân ii) hỗ trợ, tạo điều kiện nâng cao năng lực sản xuất - kinh doanh của
nông dân và doanh nghiệp và iii) tăng cường phát huy vai trò của Nhà nước trong việc
sản xuất và tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng iv) củng cố và phát triển tổ hợp tác
và HTX
Góp thêm về chủ đề này, Nguyễn Duy Cần, Võ Hồng Tú và Nguyễn Văn Sánh
(2012), nghiên cứu ngành lúa gạo tại An Giang và phát hiện thêm các trờ ngại chính
trong quá trình sản xuất và tiêu thị lúa gạo của nông dân là thiếu nguồn cung ứng


5
giống tốt, nguồn vốn đầu tư hạnh chế, giá cả vật tư nơng nghiệp biến động và tình hình
được màu mất giá. Trong khi mối quan hệ “bốn nhà” thì nhìn chung cịn lỏng lẻo, mức
độ tham gia liên kết của các tác nhân có vai trị quyết định cịn hạn chế. Mặc dù mơ
hình có sự hỗ trọ nhiệt tình từ chính quyền địa phương.
Đề tài khoa học cấp Bộ “ Giải pháp tăng cường sự tham gia của doanh nghiệp
và sản phẩm Việt Nam vào mạng lưới sản xuất và phân phối toàn cầu sau khi Việt
Nam gia nhập WTO của Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công thương

(2006).
Vấn đề trọng tâm của việc phát triền các hình thức liên kết, chính là mối quan hệ
hợp đồng, tạo nên vấn đề lý luận và thực tiễn có sức hút lớn là sản xuất nông nghiệp theo
hợp đồng (contract farming) vốn được đặt vấn đề và nhân rộng bởi FAO từ năm 2001.
Đặng Kim Sơn (2001), trên cơ sở tổng kết các kinh nghiệm của thế giới và Việt Nam cho
rằng: “sản xuất nông sản theo hợp đồng (contract farming-CF) hay hệ thống hợp đồng
(contract symtem) là hình thức tổ chức sản xuất gắn kết giữa nông dân và doanh nghiệp
chế biến hoặc kinh doanh nông sản bằng hợp đồng hai chiều quy định các điều kiện sản
xuất và tiếp thị nơng sản hàng hóa”. Điểm lợi chủ yếu của hình thức hợp tác sản xuất này
là chia sẻ rủi ro, phân phối lợi nhuận hợp lý, tập hợp người sản xuất nông nghiệp với quy
mô nhỏ lẻ thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung và ổn định, tăng cường trao đổi
thông tin giữa thị trường với người sản xuất. Sản xuất nông nghiệp theo hợp đồng đã và
đang tồn tại như là một phương tiện hữu ích trong sản xuất nơng nghiệp thương mại đối
với người nông dân. Theo Lê Hữu Ảnh (2010), sự thay đổi trong sở thích tiêu dùng, cũng
như nhu cầu ngày càng cao của thương mại thế giới đối với các sản phẩm tươi sống, đảm
bảo an toàn vệ sinh đã khiến cho hình thức sản xuất nơng nghiệp theo hợp đồng ngày càng
được ưa chuộng và phát triển.
Ngoài ra, theo nghiên cứu về phát triển thế chế giao dịch nông sản ở Việt Nam,
Bảo Trung (2009) đã cho rằng phát triển thế chế giao dịch nơng sản sẽ góp phần thúc
đấy các hình thức giao dịch nơng sản phát triên đa dạng và hiệu quả. Các giao dịch
ngay tiếp tục đóng vai trị quan trọng trong nên kinh tế nước ta dưới hai hình thức là
giao dịch phân tán và giao dịch tập trung. Trong đó, giao dịch thơng qua hợp đồng là
một hình thức tiên tiến sẽ đóng góp rất lớn trong viêc giải quyết bài toán tiêu thụ nông
sản cho nông dân, nhất là các hộ nông dân sản xuất theo hợp đồng đối với một số sản
phẩm có lợi thế xuất khẩu.


6
Khi nghiên cứu các sản phẩm cụ thể là lúa gạo, mía đường, chè, cà phê, sữa,
lâm sản, chăn ni lợn và thủy sản, Lưu Đức Khải (2009) cho rằng nguyên nhân hạn

chế tỷ lệ nông sản được sản xuất và tiêu thụ theo hợp đồng, bao gồm: hình thức hợp
đồng chưa cụ thể cho từng loại sản phẩm, cơ chế hợp đồng chưa cho thấy sự minh
bạch và chia sẻ rủi ro giữa các bên tham gia, và ý thức trách nhiệm thực hiện hợp đồng
của các bên tham gia. Qua đó nghiên cứu cũng đã đề xuất các biện pháp nhằm thúc
đẩy sản xuất và tiêu thụ nông sản theo hợp đồng.
Góp thêm về vấn đề hợp đồng trong sản xuất, Nguyễn Ngân Loan (2011), giải
pháp để nâng cao liên kết của các chủ thể kinh tế trong ngành thủy sản là tổ chức lại sản
xuất theo mô hình liên kết dọc, trong đó lấy người ni làm trung tâm, doanh nghiệp chế
biến có vai trị đầu tàu của mối liên kết, doanh nghiệp chế biến chủ động trong việc thực
hiện hàng loạt các hợp đồng: (1) Hợp đồng hỗ trợ và bao tiêu sản phẩm cho người nuôi;
(2) Hợp đồng với các đại lý, công ty cung cấp đầu vào như giống, thức ăn, thuốc thú y
thủy sản; (3) Hợp đồng với ngân hàng nhằm cung cấp tài chính, tín dụng (4) Hợp đồng
bảo hiểm với các công ty bảo hiểm; (5) Hợp đồng với các Hiệp hội để được cung cấp các
thông tin thương mại về giá cả, thị trường ; (6) Hợp đồng với các Viện , Trường, Tổ chức
nghiên cứu để chuyển giao, ứng dụng khoa học cơng nghệ.
Để hạn chế tình trạng bất lợi về mất cân đối cung cầu, các mối liên kết trong
ngành hàng cá tra và tơm sú đã hình thành tại Việt Nam những năm vừa qua. Theo
Nguyễn Phú Sơn (2007) xu hướng phát triển thị trường tương lai cá tra, cá basa ở
ĐBSCL là tiếp tục mở rộng diện tích ni, chất lượng sản phẩm sẽ được chú trọng
hơn, nhu cầu liên kết giữa những người nuôi thủy sản với nhau (liên kết ngang),
liên kết giữa người nuôi thủy sản và các doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu sẽ
phát triển sâu rộng.
Theo L. Cuyvers , T. Van Binh (2006), đầu ra của nông hộ nuôi cá tra được bán
trực tiếp cho các thương lái trung gian và công ty chế biến xuất khẩu. Thị trường đầu
vào và đầu ra của hộ nuôi cá tra phụ thuộc một phần vào nhóm, hội mà nơng hộ ni
cá tham gia vào (liên kết ngang). Có thể phân biệt hộ ni cá tra thành 3 nhóm: (1)
Người ni cá thể - không tham gia bất cứ câu lạc bộ hoặc hội đồn nào (khơng tham
gia liên kết ngang); (2) Nhóm thuộc thành viên của hội thủy sản (như Hội thủy sản An
Giang - AFA); (3) Nhóm thuộc thành viên Câu lạc bộ/HTX nuôi cá tra thuộc các công
ty chế biến xuất khẩu.

Hồ Quế Hậu (2013) khi nghiên cứu về “Liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp chế
biến nông sản với nông dân ở Việt Nam” đã chỉ ra rằng hoạt động liên kết giữa doanh
nghiệp chế biến nông sản với nông dân ở Việt Nam trong những năm qua đã đạt được


7
những kết quả bước đầu đáng khích lệ, đã khơng những mang lại hiệu quả kinh tế cho
các bên tham gia liên kết mà còn mạng lại hiệu quả kinh tế - xã hội rõ nét. Tuy vậy,
hoạt động liên kết này vẫn cịn ở quy mơ và số lượng hạn chế, chất lượng thấp và hiệu
quả chưa cao. Nguyên nhân là do nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của hoạt động
liên kết kinh tế này chưa đúng đắn, chế tài và các cơ chế giám sát đảm bảo cho liên kết
này vận hành còn nhiều bất cập, đồng thời Nhà nước chưa tạo môi trường thuận lợi
thúc đẩy liên kết phát triển.
Theo Lê Thanh Sang, Nguyễn Đặng Minh Thảo (2015), liên kết trong sản xuất tiêu thụ tôm tại một địa bàn nuôi tôm trọng điểm của Tây Nam Bộ Sản chủ yếu dựa
trên quảng canh truyền thống, thiếu quy hoạch và phụ thuộc vào các yếu tố đầu vào.
Đây chính là nguyên nhân dẫn đến sự thiếu ổn định cả về sản lượng lẫn chất lượng
tôm. Sự yếu kém về nguồn lực của hộ sản xuất và các chủ thể liên kết khác đã hạn chế
nhu cầu và khả năng liên kết mang tình bền vững.
Kết quả nghiên cứu “ Hợp tác liên kết nông dân trong sản xuất nông nghiệp
theo tiếp cận thúc đẩy quyền, tiếng nói, lựa chọn của nơng dân: Hiện trạng và khuyến
nghị chính sách do Oxfarm, Viện nghiên cứu và Tư vấn phát triển thgực hiện tại 3 tỉnh
mang tính đặc thù về sản xuất nông nghiệp và thị trường của 3 vùng khác nhau của
Việt Nam: Ninh Bình (Đồng bằng Bắc Bộ), Lâm Đồng (Tây Nguyên) và Đồng Tháp
(Đồng bằng sông Cửu Long), phát triển hợp tác, liên kết nông dân bền vững được xác
định là chính sách quan trọng, nhằm đổi mới tổ chức sản xuất sau một thời gian dài không
thực sự đem lại hiệu quả. Kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy hợp tác
liên kết nếu được tổ chức tốt sẽ giúp phát huy nội lực của người nông dân và hiệu quả sản
xuất, tối ưu hóa việc sử dụng nguồn lực tự nhiên và xã hội, từ đó đảm bảo lợi ích và chia
sẻ rủi ro một cách công bằng hơn giữa các bên. Trong tương lai, xu hướng liên kết qua tổ
chức của nông dân sẽ ngày càng phổ biến hơn so với hình thức liên kết trực tiếp giữa nơng

dân với doanh nghiệp qua các hợp đồng kinh tế, và là lựa chọn tốt hơn trong việc đảm bảo
quyền lợi và tiếng nói của nơng dân. Mơ hình tổ hợp tác đang tăng mạnh do nông dân
mong muốn liên kết trong điều kiện phù hợp với năng lực và nhu cầu của mình, có các giá
trị chung được chia sẻ, các nguyên tắc căn bản về tự nguyện, tự chủ, tự quản, minh bạch
được đảm bảo.
Đề tài khoa học “Tổng quan chuỗi cung ứng thuỷ sản Việt Nam”, Viện Kinh tế
và Quy hoạch thuỷ sản (2008); Báo cáo chuyên đề “Cải cách chính sách thương mại và
thuỷ sản, cấu trúc lại chuỗi cung ứng, nâng cao nhu cầu đối với quản lý bền vững
ngành thuỷ sản: trường hợp nghiên cứu tại Việt Nam” của Nguyễn Thị Hồng Vân và
cộng sự. Đề tài đã đánh giá chuỗi cung ứng cho hoạt động khai thác hải sản, phân tích


8
và đánh giá các bên liên quan trong chuỗi, phân tích đánh giá một số chính sách
thương mại và thuỷ sản ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển chuỗi cung ứng sản
phẩm hải sản khai thác đến người tiêu dùng cuối cùng cho sản phẩm tiêu thụ trong
nước và đến các nhà nhập khẩu cho các sản phẩm xuất khẩu.
Bàn về vai trò của liên kết trong sản xuất nông sản, Hồ Thanh Thuỷ (2017)
nhận định rằng liên kết chính là chìa khóa giúp phát triển một nền nơng nghiệp hiện đại,
đảm bảo hài hịa lợi ích của các chủ thể tham gia. Q trình liên kết đó có những đặc
điểm riêng và đóng vai trị quan trọng: Góp phần đảm bảo các bên cùng có lợi; làm tăng
hiệu quả trong sản xuất nơng sản; góp phần nâng cao hiệu quả, vai trò quản lý nhà nước
về kinh tế. Để phát huy vai trò của liên kết trong sản xuất nông sản, bài viết đã đề xuất
một số giải pháp cơ bản, quan trọng trong bối cảnh Việt Nam hiện nay.
Theo Trương Thuý Bình (2015), Phát triển thương hiệu cho hàng thuỷ sản xuất
khẩu là một trong những chủ đề được quan tâm hàng đầu hiện nay của nhiều doanh
nghiệp thuỷ sản Việt Nam. Nhiều giải pháp có tính hỗ trợ nhau đã được đề xuất nhằm
giải quyết cho vấn đề này. Mỗi giải pháp có tính hợp lý và vai trò riêng, bài viết này
xin được đề cập sâu đến giải pháp mang tính chất quyết định khi phát triển thương
hiệu cho hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam dưới dạng hình thức phát triển thương

hiệu tập thể, đó là "Phát triển chuỗi liên kết cung ứng hàng thuỷ sản xuất khẩu”.
Nghiên cứu về vai trò của liên kết sản xuất nông nghiệp đối với kinh tế hộ tại
đồng bằng sông Cửu Long, Huỳnh Kim Thừa ( 2018) cho rằng: Sản xuất nông nghiệp
luôn giữ vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế tại đồng bằng sơng Cửu Long,
nhưng tình trạng sản xuất manh mún, nhỏ lẻ là rào cản chính cho thế mạnh này của
vùng. Sự cần thiết của việc liên kết sản xuất và chỉ ra những mơ hình liên kết sản xuất
nơng nghiệp hiệu quả hiện nay, nhằm giúp các hộ nông dân tại đồng bằng sơng Cửu
Long có cái nhìn đúng đắn, đầy đủ, cũng như tin tưởng và tham gia các mơ hình này.
Đồng thời, nghiên cứu cũng đưa ra một số gợi ý chính sách cho các mơ hình đó phát
triển và nhân rộng trong tương lai.
2.2. Một số nghiên cứu về hình thức hợp tác tại Việt Nam
Ngồi các hình thức liên kết trong sản xuất - tiêu thụ nơng sản, hình thức hợp
tác trong sản xuất nơng nghiệp cũng hình thành và phát triển như một tất yếu. Phạm
Thị Minh Nguyệt (1996), cho rằng, kinh tế hợp tác trong nơng nghiệp là hình thức liên
kết tự nguyện của các đơn vị kinh tế trong các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế
bằng góp vốn, sức lao động để cùng nhau tiến hành sản xuất kinh doanh trong nơng
nghiệp một cách có hiệu quả, nhằm tăng sức mạnh kinh tế của các tổ chức hợp tác,


12

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Đề xuất các giải pháp hồn thiện chính sách thúc đẩy các hình thức hợp tác, liên
kết sản xuất - tiêu thụ sản phẩm trong ngành thủy sản Việt Nam đến năm 2030.
3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Hệ thống hóa và góp phần làm rõ thêm một số vấn đề lý luận và thực tiễn của
chính sách thúc đẩy phát triển các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm đối với một quốc gia.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng chính sách thúc đẩy các hình thức hợp tác, liên

kết sản xuất - tiêu thụ sản phẩm thủy sản Việt Nam trong lĩnh vực khai thác và nuôi
trồng thủy sản.
+ Đề xuất định hướng và một số giải pháp hồn thiện chính sách thúc đẩy phát
triển các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm thủy sản Việt Nam
đến năm 2030.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chính sách thúc đẩy các hình thức hợp tác,
liên kết sản xuất - tiêu thụ sản phẩm trong ngành thủy sản của Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
4.2.1. Về không gian
Luận án tập trung nghiên cứu chính sách thúc đẩy các hình thức hợp tác, liên
kết sản xuất - tiêu thụ sản phẩm trong ngành thủy sản Việt Nam nhằm nâng cao hiệu
quả sản xuất và chất lượng sản phẩm đáp ứng yêu cầu của thị trường nội địa và xuất
khẩu.
4.2.2. Về phạm vi nội dung
Luận án tập trung vào một số chính sách chủ yếu như: chính sách ưu đãi về sử
dụng đất đai, chính sách hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng, chính sách hỗ trợ tín dụng,
chính sách hỗ trợ đầu tư, chính sách thị trường ở cấp Trung ương và địa phương.
Luận án nghiên cứu chính sách thúc đẩy các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất
- tiêu thụ sản phẩm trong ngành thủy Việt Nam trên phương diện ban hành và tổ chức
thực thi triển khai chính sách.
Về sản phẩm thuỷ sản, luận án tập trung vào một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực


13
như cá trá, tôm nước lợ (đại diện cho lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản), cá ngừ (đại diện
cho lĩnh vực khai thác hải sản).
4.2.3. Về thời gian

Luận án nghiên cứu thực trạng chính sách thúc đẩy các hình thức hợp tác, liên
kết sản xuất - tiêu thụ sản phẩm trong ngành thủy Việt Nam từ năm 2013 đến năm
2020 và đề xuất giải pháp hồn thiện chính sách đến năm 2030.
4.2.4. Về chủ thể nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu chính sách hợp tác, liên kết giữa các chủ thể:
- Người sản xuất: (1) ngư dân làm nghề khai thác cá ngừ tại 3 tỉnh trọng điểm
có nghề khai thác cá ngừ phát triển nhất cả nước là Bình Định, Phú n, Khánh Hịa;
(2) Hộ/Doanh nghiệp/THT/HTX ni trồng thủy sản (2 đối tượng là tôm nước lợ và cá
tra) tại 5 tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long là Bạc Liêu, Sóc Trăng, Cà Mau, An
Giang và Đồng Tháp.
- Các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thủy sản tại Cà Mau, Bạc Liêu, An
Giang, Đồng Tháp, Khánh Hòa.
- Một số tổ chức liên quan đến hoạt động sản xuất - xuất khẩu thủy sản như
Tổng cục Thủy sản (D-Fish), Hiệp hội chế biến và xuất nhập khẩu thủy sản
(VASEP)….
4.2.5 Về góc độ nghiên cứu
Luận án đứng trên góc độ nhà khoa học để đề xuất các giải pháp đối với Nhà
nước, đối với các bộ ngành có liên quan về ban hành chính sách và tổ chức thực hiện
chính sách; Đề xuất kiến nghị với các địa phương về cụ thể hố chính sách và thực
hiện chính sách; Kiến nghị với các hiệp hội, tổ chức ngành hàng, đối với người sản
xuất, doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thuỷ sản và người tiêu dùng trong và ngoài
nước.

5. Phương pháp tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Tiếp cận nghiên cứu
Nghiên cứu sinh áp dụng tiếp cận thể chế, tiếp cận chuỗi giá trị, tiếp cận liên ngành
và tiếp cận theo xu thế hội nhập để làm rõ thực trạng, chính sách và giải pháp thúc đẩy
phát triển các các hình thức hợp tác, liên kết trong sản xuất - tiêu thụ sản phẩm thủy sản.
Cụ thể:
Tiếp cận thể chế: Các chính sách thúc đẩy các hình thức hợp tác, liên kết sản



14
xuất - tiêu thụ sản phẩm trong ngành thủy sản của Việt Nam là đối tượng nghiên cứu
quan trọng của luận án. Tuy nhiên, ảnh hưởng của chính sách và quản trị phát triển
chuỗi giá trị thủy sản phải thông qua các thể chế như các cơ quan quản lý chuỗi cung
ứng nông sản như Quản lý thị trường, Quản lý chất lượng NLTS, Bảo vệ thực vật, An
toàn thực phẩm… ở tất cả các cấp. Vì thế, tiếp cận theo thể chế được sử dụng trong
luận án này nhằm giúp khai thác được thông tin từ các cấp, các ngành có liên quan
(theo thể chế quản lí nhà nước đối với sản phẩm thủy sản xuất khẩu của Việt Nam)
phục vụ cho việc phân tích và đề xuất đề xuất giải pháp hồn thiện chính sách thúc đẩy
các hình thức hợp tác, liên kết trong sản xuất - tiêu thụ sản phẩm thủy sản xuất khẩu của
Việt Nam.
Tiếp cận theo chuỗi giá trị: Phương pháp tiếp cận theo chuỗi giá trị là phương
pháp nghiên cứu tất cả các đối tượng có liên quan đến việc tạo lập ra giá trị cuối cùng
của sản phẩm. Đối với luận án này, đối tượng nghiên liên quan đến các sản phẩm thủy
sản tiêu thụ tai thị trường nội địa và sản phẩm xuất khẩu, do vậy, chuỗi giá trị cần phải
được hiểu thêm theo nghĩa của “chuỗi giá trị toàn cầu” để đảm bảo tính hiệu quả và
đúng định hướng chuyên ngành nghiên cứu. Các nghiên cứu trước đây đã cho thấy sự
đồng bộ là yếu tố rất quan trọng trong những vấn đề tương tự. Do vậy, luận án sẽ sử
dụng phương pháp tiếp cận này để tìm hiểu những điểm mạnh, điểm yếu trong tất cả
các khâu có liên quan đến việc nâng cao khả năng canh của sản phẩm thuỷ sản Việt
Nam tại các thị trường quốc tế quan trọng. Qua đó, đề xuất giải pháp hồn thiện chính
sách thúc đẩy các hình thức hợp tác, liên kết trong sản xuất - tiêu thụ sản phẩm trong thời
gian tới.
Tiếp cận liên ngành: Xuất khẩu thuỷ sản là hoạt động kinh tế liên ngành, chịu
sự tác động của nhiều nhân tố thuộc nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau. Vì vậy,
tiếp cận theo hướng liên ngành sẽ giúp xem xét được các mối quan hệ có liên quan đến
hoạt động xuất khẩu thủy sản một cách toàn diện và từ đó chỉ ra được những yếu kém,
hạn chế, tồn tại trong các mối quan hệ này. Việc nhận biết được vấn đề và xây dựng

giải pháp khắc phục mang tính liên ngành là rất quan trọng nhằm đảm bảo các giải
pháp là thực sự có hiệu quả và vận hành tốt trong thực tế. Do vậy, luận án sử dụng
cách tiếp cận này trong cả phần khai thác thông tin và đề xuất giải pháp hồn thiện
chính sách thúc đẩy các hình thức hợp tác, liên kết trong sản xuất - tiêu thụ sản phẩm
thuỷ sản Việt Nam.
Tiếp cận theo xu thế hội nhập quốc tế: vấn đề xuất khẩu sản phẩm thuỷ sản Việt
Nam sang các thị trường là vấn đề bị tác động mạnh mẽ bởi xu thế hội nhập quốc tế
ngày càng sâu và rộng của Việt Nam trong thời gian qua cũng như trong tương lai. Tiếp


15
cận nghiên cứu theo hướng này giúp kết quả nghiên cứu của luận án gắn sát hơn với
chuyên ngành nghiên cứu kinh tế quốc tế. Với chủ trương tiếp tục mở cửa, hội nhập một
cách tồn diện thì việc nghiên cứu sinh sử dụng cách tiếp cận theo xu thế hội nhập quốc
tế là rất cần thiết, đảm bảo các giải pháp hồn thiện chính sách sau này là phù hợp với
thông lệ quốc tế cũng như đáp ứng được các yêu cầu của các hiệp định song phương
cũng như đa phương, các quy định chung của các tổ chức quốc tế mà Việt Nam là
thành viên.
5.2.Phương pháp nghiên cứu
+ Lựa chọn địa điểm nghiên cứu
Do các giới hạn về thời gian và nguồn lực nên nghiên cứu sinh chỉ khảo sát mẫu
một số khu vực có tính đại diện để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu. Căn cứ chọn
địa điểm khảo sát mẫu của luận án như sau:
- Là địa bàn tập trung nhiều hoạt động, nhiều chủ thể/đối tượng có liên quan đến
mục tiêu nghiên cứu, có khả năng cung cấp các thông tin cần thiết, khách quan phục
vụ cho công tác nghiên cứu.
- Là địa bàn có tính đại diện cao cho các vùng có các nội dung cần nghiên cứu.
Thực tế cho thấy ngành thủy sản nói chung và xuất khẩu thủy sản nói riêng có sự khác
biệt đáng kể theo vùng địa lí (miền Bắc, Trung và Nam). Do vậy, đại diện cho các
vùng này nên được cân nhắc lựa chọn để khảo sát các nội dung có liên quan.

Vì vậy, để nghiên cứu quá trình ban hành và triển khai thực thi các chính sách
thúc đẩy các hình thức hợp tác, liên kết trong sản xuất - tiêu thụ sản phẩm thủy sản đặc
biệt là các sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu chủ lực như tôm nước lợ, cá tra và cá ngừ,
nghiên cứu sinh lựa chọn vùng nghiên cứu là các tỉnh, thành ven biển phát triển mạnh
nhất cả nước về khai thác - chế biến - xuất khẩu cá ngừ (Bình Đình, Phú n, Khánh
Hịa), và 5 tỉnh vùng đồng bằng sơng Cửu Long (Bạc Liêu, Sóc Trăng, Cà Mau, An
Giang và Đồng Tháp) là những địa phương phát triển hai đối tượng cá tra và tơm nước
lợ. Trong đó Bạc Liêu là thủ phủ tôm công nghiệp, Cà Mau là thủ phủ tôm sinh thái,
An Giang và Đông Tháp là hai tỉnh có diện tích và sản lượng cá tra lớn nhất cả nước.
Cụ thể tại bảng 1:
Bảng 1. Địa phương - ngành hàng khảo sát số liệu
TT
1

Địa phương
Bình Định

Đối tượng sản phẩm
Cá Ngừ


16
2

Phú n

Cá Ngừ

3


Khánh Hịa

Cá Ngừ

4

Bạc Liêu

Tơm cơng nghiệp

5

Sóc Trăng

Tơm cơng nghiệp

6

Cà Mau

7

An Giang

Cá Tra

8

Đồng Tháp


Cá Tra

Tôm sinh thái

Về cơ bản, các tỉnh trên đã hình thành các vùng sản xuất quy mơ hàng hóa với
các sản phẩm chủ lực quốc gia như cá ngừ, cá tra, tôm nước lợ và có nhiều hình thức
hợp tác, liên kết theo chuỗi giá trị. Việc lựa chọn các tỉnh này trong nghiên cứu có ý
nghía về tổng kết, đúc rút bài học kinh nghiệm để nhân rộng và phát triển, làm cơ sở
cho việc đề xuất giải pháp hồn thiện chính sách thúc đẩy các hình thức hợp tác, liên
kết trong sản xuất - tiêu thụ sản phẩm thủy sản.
Ngoài ra, nghiên cứu sinh tiến hành thu thập tài liệu sơ cấp, thông tin liên quan
từ các đối tượng điều tra như hộ NTTS, HTX NTTS, Tổ đội khai thác thủy sản, ngư
dân, doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thủy sản, nậu vựa/thương lái, các tổ chức liên
quan khác.. Cụ thể tại bảng 2:
Bảng 2. Phân bổ số lượng phiếu điều tra theo các đối tượng khảo sát.
TT

Đối tượng điều tra





PY

KH

BL

ST


CM

AG

ĐT

Tổng số

30

2

2

2

2

2

2

2

2

46

1


Cán bộ ngành thủy sản

2

Hộ NTTS

-

-

-

-

30

30

60

60

60

240

3

HTX NTTS


-

-

-

-

5

5

5

5

5

25

4

Doanh nghiệp NTTS

-

-

-


-

5

5

5

5

5

25

5

Ngư dân

-

60

60

60

-

-


-

-

-

180

6

Tổ đội sản xuất trên biển

-

10

10

10

-

-

-

-

-


30

7

Thương lái/nậu vựa

-

3

3

3

3

3

3

3

3

24

8

Doanh nghiệp CBXK


-

3

2

5

-

-

2

5

5

22

9

HTX dịch vụ nông nghiệp

-

2

2


2

2

2

2

2

2

16

10

Dịch vụ hậu cần nghề cá

-

5

5

5

5

5


5

5

5

40

10

85

84

87

52

52

84

87

87

648

Tổng



17
+ Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp và thứ cấp.
Nghiên cứu sinh đã sử dụng phương pháp điều tra kinh tế - xã hội, phương pháp
phỏng vấn, đánh giá nơng thơn có sự tham gia của cộng đồng (PRA) trong đó tiến
hành phỏng vấn trực tiếp người dân, đại diện HTX, THT, tổ đội sản xuất trên biển,
doanh nghiệp, đại diện chính quyền địa phương, các cán bộ quản lý để thu thập thông
tin và các số liệu cần thiết. Dựa vào cộng đồng để điều tra bổ sung về các kinh nghiệm
trong hợp tác, liên kết trong sản xuất - tiêu thụ sản phẩm thủy sản.
Thu thập các số liệu về kinh tế - xã hội từ địa phương, trong đó quan trọng nhất
là các số liệu có liên quan các đến chính sách thúc đẩy phát triển các hình thức hợp tác,
liên kết trong sản xuất - tiêu thụ sản phẩm thủy sản của trung ương và địa phương.
+ Phương pháp chuyên gia:
Nghiên cứu sinh trực tiếp tham vấn ý kiến một số chuyên gia tại cơ quan và một
số cục, vụ liên quan ở cấp trung ương và địa phương về các chính sách, giải pháp trong
lĩnh vực hợp tác, liên kết trong sản xuất - tiêu thụ sản phẩm thủy sản.
+ Phương pháp xử lý thông tin, số liệu điều tra:
- Kiểm tra, làm sạch phiếu điều tra: Sau khi hồn thành cơng tác điều tra thu
thập thông tin, nghiên cứu sinh tiến hành phân loại phiếu để kiểm tra, làm sạch số liệu.
Kiểm kê số lượng phiếu điều tra, phân loại theo tỉnh, thành phố điều tra và đối tượng
cần điều tra.
- Nhập thơng tin:
Sau khi hồn thành cơng tác kiểm tra, làm sạch phiếu điều tra, nghiên cứu sinh
thực hiện mã hóa phiếu điều tra theo các câu hỏi trong các mẫu phiếu; kiểm tra lại tồn bộ
thơng tin nhập vào máy. Phần mềm SPSS sẽ kiểm tra, rà soát các sai sót do nhập liệu.
- Xử lý thơng tin
Tất cả thơng tin đạt tiêu chuẩn chất lượng được thu thập từ điều tra mẫu sẽ được
nhập vào máy và lưu thành các cơ sở dữ liệu thô sẵn sàng phục vụ việc xử lý trích rút
kết quả điều tra.

Q trình xử lý số liệu điều tra sẽ sử dụng phần mềm thống kê chuyên dụng để
xử lý trích rút kết quả. Sử dụng phần mềm SPSS hoặc phần mềm khác để xử lý.
Thơng tin được xử lý trích rút là những thông tin cơ bản dựa theo các biểu bảng
kết quả đầu ra đã được thiết kế sẵn.
+ Phương pháp phân tích số liệu
Phương pháp thống kê mơ tả: luận án sử dụng các số tương đối, số tuyệt đối, số


18
bình quân, tốc độ tăng trưởng, so sánh để phân tích, đánh giá tác động và hiệ quả của
các chính sách thúc đẩy các hình thức hợp tác, liên kết trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm
thuỷ sản. Số liệu thu thập được tiến hành phân tổ thống kê, tổng hợp thống kê và tính
tốn các loại số tương đối, số tuyệt đối, số bình quân. Các số liệu theo dãy thời gian
cũng được tổng hợp, phân tích nhằm đánh giá thực trạng các vấn đề liên quan theo từng
giai đoạn, thời kỳ thông qua những thông tin, số liệu thành hệ thống các bảng, sơ đồ và
đồ thị.
Ngoài ra, luận án sử dụng phương pháp thang đo Likert để đánh giá mức độ ảnh
hưởng của các yếu tố đến việc thực thi các giải pháp vượt rào cản của doanh nghiệp
xuất khẩu thuỷ sản. Phiếu điều tra dự kiến được thực hiện trên cơ sở thang đo Likert 5
mức độ từ 1 là “hồn tồn khơng đồng ý” đến 5 là “hoàn toàn đồng ý”.

6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án được kết
cấu thành 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và kinh nghiệm quốc tế về chính sách thúc đẩy
các hình thức hợp tác, liên kết trong sản xuất - tiêu thụ sản phẩm trong ngành thuỷ sản.
Chương 2: Thực trạng chính sách thúc đẩy các hình thức hợp tác, liên kết trong sản
xuất - tiêu thụ sản phẩm trong ngành thuỷ sản Việt Nam từ năm 2013 đến năm 2018.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp và kiến nghị nhằm hồn thiện chính sách thúc
đẩy các hình thức hợp tác, liên kết trong sản xuất - tiêu thụ sản phẩm trong ngành thuỷ

sản Việt Nam đến năm 2030.


19

CHƯƠNG 1.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ
CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY CÁC HÌNH THỨC HỢP TÁC, LIÊN KẾT
TRONG SẢN XUẤT - TIÊU THỤ SẢN PHẨM TRONG
NGÀNH THUỶ SẢN
1.1. Một số khái niệm và vai trò của hợp tác, liên kết trong sản xuất - tiêu
thụ sản phẩm
1.1.1.Khái niệm, các hình thức và nguyên tắc của hợp tác trong sản xuất tiêu thụ sản phẩm
1.1.1.1. Khái niệm về hợp tác
Hợp tác lao động được thực hiện từ khi loài người xuất hiện và ngày càng phát
triển. Cùng với tiến trình phát triển xã hội, phân cơng lao động xã hội và chun mơn
hóa sản xuất ngày càng phát triển cả chiều rộng và chiều sâu, do đó nhu cầu về hợp tác
lao động ngày càng tăng, mối quan hệ hợp tác ngày càng chặt chẽ và mở rộng. Nó
khơng bị giới hạn trong phạm vi từng đơn vị, từng ngành, từng địa phương, trong một
nước, mà còn mở rộng trên phạm vi quốc tế.
Hợp tác trong kinh tế là hình thức quan hệ tự nguyện, phối hợp, trợ giúp lẫn
nhau giữa các chủ thể kinh tế, kết hợp sức mạnh của từng thành viên với ưu thế sức
mạnh tập thể giải quyết tốt hơn những vấn đề của sản xuất kinh doanh và đời sống
kinh tế nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và lợi ích của mỗi thành viên.
Hợp tác là hình thức tất yếu trong lao động sản xuất và hoạt động kinh tế của con
người. Hợp tác bắt nguồn từ tính chất xã hội của hoạt động nói chung, của lao động sản
xuất và hoạt động kinh tế nói riêng của con người. Do vậy, sự phát triển của hợp tác gắn
liền và bị quy định bởi tiến trình nâng cao trình độ xã hội hóa sản xuất và hoạt động kinh
tế. Trong lao động sản xuất, hợp tác có tác dụng làm tăng năng suất lao động. Sự phát
triển của các hình thức và tính chất thích hợp của hợp tác có tác dụng thúc đẩy phát triển

kinh tế.
Hợp tác có nhiều hình thức với các đặc điểm, tính chất, trình độ khác nhau: hợp
tác ngẫu nhiên, nhất thời; hợp tác thường xuyên, ổn định; hợp tác lao động như Mác đã
phân tích về ba giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản trong công nghiệp; hợp tác
giữa các đơn vị, các ngành; v.v...
Hợp tác trong lĩnh vực nơng nghiệp nói chung và thuỷ sản nói riêng là một nhu


20
cầu khách quan. Đó là con đường phát triển tất yếu của kinh tế hộ nông dân. Trong
lĩnh vực sản xuất nơng nghiệp, khơng phân biệt chế độ chính trị, xã hội, xuất phát từ
mục tiêu kinh tế nông dân đều có nhu cầu hợp tác từ hình thức giản đơn đến phức tạp,
từ đơn ngành đến đa ngành. Lực lượng sản xuất càng phát triển thì nhu cầu hợp tác
càng tăng, mối quan hệ hợp tác ngày càng sâu rộng, do đó tất yếu hình thành và ngày
càng phát triển các hình thức kinh tế hợp tác ở trình độ cao hơn.

1.1.1.2. Các hình thức hợp tác
Từ thực tế của Việt Nam và nhiều nước trên thế giới cho thấy mối quan hệ nói
trên có thể thực hiện dưới các dạng sau:
* Kinh tế hợp tác giản đơn
a. Tổ, hội nghề nghiệp
Trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn nước ta hiện nay đang tồn tại các loại
tổ, hội nghề nghiệp như: tổ nuôi ong, tổ làm vườn, tổ nuôi cá, tổ nuôi tôm, tổ trồng
rừng, tổ trồng cây cảnh v.v...
Tổ, hội nghề nghiệp được hình thành trên cơ sở tự nguyện của các chủ thể kinh
tế độc lập có hình thức và mục đích hoạt động kinh doanh giống nhau, nhằm cộng tác,
trao đổi kinh nghiệm, giúp đỡ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất- kinh doanh, tiêu thụ
sản phẩm, vì mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của mỗi thành viên (ở đây khơng nói đến
các tổ, hội hoạt động, vì thú vui khơng có mục tiêu lợi nhuận).
Tổ, hội nghề nghiệp gồm từ 5- 30 thành viên tự nguyện gia nhập, hoặc rút khỏi

tổ. Thông thường, các tổ loại này có xây dựng quỹ hội do các thành viên tự thỏa thuận.
Tổ, hội nghề nghiệp hoạt động khơng có điều lệ, khơng có tư cách pháp nhân. Quan hệ
ràng buộc giữa các thành viên chủ yếu được xây dựng trên cơ sở quan hệ tình cảm, tập
quán, truyền thống cộng đồng, khơng mang tính pháp lý.
Nội dung hoạt động mang tính khuyến nơng, khuyến lâm, khuyến ngư: họ giúp
nhau trao đổi kinh nghiệm hoạt động sản xuất, chăm sóc, phát hiện và phịng trừ sâu
bệnh, chọn giống, giúp nhau về thông tin tiếp cận thị trường: về nhu cầu, giá cả, nơi
tiêu thụ, về quan hệ cung - cầu, phối hợp trong khâu cung ứng đầu vào và tiêu thụ sản
phẩm để giảm chi phí lưu thơng...
Hoạt động của tổ, hội nghề nghiệp có tác dụng hạn chế mức độ rủi ro cho người
sản xuất, góp phần tích lũy kinh nghiệm, tăng năng suất lao động, phát triển sản xuất
và tăng tỷ suất lợi nhuận cho các thành viên.


21
Hiện nay, hình thức này đang phát triển và có tác dụng tốt trong lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn, bao gồm: nông, lâm, ngư nghiệp (nuôi trồng và khai thác thủy sản)
ở nhiều địa phương trong cả nước.
b. Tổ, nhóm hợp tác
Đây là loại hình kinh tế hợp tác giản đơn do các chủ thể kinh tế độc lập tự
nguyện thành lập, xuất phát từ nhu cầu của các thành viên. Các tổ, nhóm hợp tác hoạt
động theo nguyên tắc tự nguyện, gia nhập hoặc ra khỏi tổ, thành lập hoặc giải thể tổ
chức, quản lý dân chủ, cùng có lợi. Tổ, nhóm hợp tác rất đa dạng với nhiều tên gọi
khác nhau.
+ Tổ, nhóm hợp tác "đơn mục đích": là loại tổ, nhóm hợp tác của những chủ thể
hoạt động kinh doanh giống nhau, như tổ trồng rừng, tổ trồng nấm, tổ ni cá lồng v.v...
+ Tổ, nhóm hợp tác "đa mục đích": là loại tổ, nhóm hợp tác của những chủ thể
hoạt động sản xuất - kinh doanh tổng hợp, như trồng trọt kết hợp với chăn nuôi, chế
biến, làm dịch vụ v.v...
+ Tổ, nhóm hợp tác có quy mô nhỏ (từ 5-10 thành viên): quan hệ hợp tác khơng

mang tính ổn định thường xun, khơng xây dựng quy chế hoạt động thành văn bản,
khơng mang tính pháp lý, khơng có tư cách pháp nhân. Quan hệ hợp tác giữa các thành
viên được xây dựng trên cơ sở quan hệ tình cảm, truyền thống cộng đồng, làng, xóm. Họ
tự nguyện thỏa thuận “quy ước nội bộ” và chỉ hợp tác khi có nhu cầu như: hợp tác đổi
cơng cho nhau trong khâu gieo trồng, thu hoạch để bảo đảm tính thời vụ. Quan hệ hợp tác
khơng tính đến giá trị ngày công. Các thành viên trong tổ tự thỏa thuận lịch đổi cơng cho
nhau. Khi khơng có nhu cầu thì tổ hợp tác hầu như khơng hoạt động.
Đây là loại hình hợp tác giản đơn nhất. Nó đã có từ xa xưa trong nơng thơn
nước ta. Hiện nay, hình thức này vẫn phát huy tác dụng, đặc biệt ở những nơi sản xuất
nơng nghiệp cịn mang tính tự cấp tự túc. Nông dân hợp tác để giúp cho công việc của
họ kịp thời vụ, cùng nhau khắc phục thiên tai, sâu bệnh v.v... Loại hình tổ, nhóm hợp tác
kiểu này cũng thường gặp ở những nơi sản xuất cây cơng nghiệp hàng hóa tập trung, như
trồng chè, cà phê, mía, nguyên liệu giấy, v.v... Các chủ thể hợp tác đổi công cho nhau
theo từng khâu công việc, phổ biến hơn cả là khâu thu hoạch, vận chuyển bán nguyên
liệu cho cơ sở chế biến. Tổ hợp tác kiểu này cịn có tên gọi là tổ đổi cơng (khơng thường
xuyên).
c. Tổ kinh tế hợp tác, thường gọi tắt là “tổ hợp tác”
Đây là loại hình kinh tế hợp tác giản đơn, có quy mơ lớn hơn, thường từ 5 - 30


22
hộ thành viên. Quan hệ hợp tác mang tính ổn định, thường xuyên, có cơ cấu tổ chức và
bộ máy quản lý lãnh đạo. Tổ hoạt động theo quy chế được các thành viên thảo luận
dân chủ và xây dựng thành văn bản. So với hợp tác xã thì tổ hợp tác loại này có nội
dung, nguyên tắc hoạt động gần giống hợp tác xã nhưng khác nhau ở chỗ tổ hợp tác
hoạt động khơng có điều lệ, khơng có tư cách pháp nhân.
Tổ hợp tác hoạt động đa dạng trong nhiều lĩnh vực khác nhau (sản xuất nông
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ), với nhiều tên gọi: tổ kinh tế hợp
tác có gắn với địa danh nơi tổ hoạt động, hoặc tính chất nghề nghiệp- lĩnh vực tổ hợp
tác hoạt động như: tổ tín dụng, tổ đường nước, tổ đường điện, tổ nuôi cá, tổ trồng và

bảo vệ rừng, tổ làm vườn, tổ sản xuất - kinh doanh v.v...
* Hợp tác xã
Hợp tác xã là loại hình kinh tế hợp tác phát triển ở trình độ cao hơn loại hình
kinh tế hợp tác giản đơn. Ở nhiều nước trên thế giới, hợp tác xã đã có lịch sử hình
thành và phát triển hơn 100 năm. Trong Luật Hợp tác xã của nhiều nước cũng như một
số tổ chức quốc tế đều có các định nghĩa về hợp tác xã.
Liên minh hợp tác xã quốc tế (International cooperative alliance - ICA) được thành
lập tháng 8 năm 1895 tại Luân Đôn, Vương quốc Anh, đã định nghĩa hợp tác xã như sau:
“Hợp tác xã là một tổ chức tự trị của những người tự nguyện liên hiệp lại để đáp ứng các
nhu cầu và nguyện vọng chung của họ về kinh tế, xã hội và văn hóa thơng qua một xí
nghiệp cùng sở hữu và quản lý dân chủ”. Năm 1895, định nghĩa này đã được hoàn thiện:
“Hợp tác xã dựa trên ý nghĩa tự cứu giúp mình, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng, cơng bằng
và đồn kết. Theo truyền thống của những người sáng lập ra hợp tác xã, các xã viên hợp
tác xã tin tưởng vào ý nghĩa đạo đức, về tính trung thực, cởi mở, trách nhiệm xã hội và
quan tâm chăm sóc người khác”(Nguyễn Chơn Trung, 1996).
Tổ chức lao động quốc tế (ILO) định nghĩa hợp tác xã là sự liên kết của những
người đang gặp phải những khó khăn kinh tế giống nhau, tự nguyện liên kết nhau lại
trên cơ sở bình đẳng quyền lợi và nghĩa vụ, sử dụng tài sản mà họ đã chuyển giao vào
hợp tác xã phù hợp với các nhu cầu chung và giải quyết những khó khăn đó chủ yếu
bằng sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm và bằng cách sử dụng các chức năng kinh doanh
trong tổ chức hợp tác phục vụ cho lợi ích vật chất và tinh thần chung v.v... Mặc dù, có
nhiều định nghĩa khác nhau về hợp tác xã, cũng như sự khác nhau về đặc điểm, cơ chế
tổ chức, phương thức hoạt động v.v... của các mơ hình hợp tác xã ở các nước trên thế
giới, song các loại hình hợp tác xã đều có một số đặc điểm chung sau đây:


23
Hợp tác xã là một tổ chức kinh tế do các chủ thể kinh tế tự nguyện góp vốn, góp
sức hình thành. Hoạt động của hợp tác xã chủ yếu nhằm mục đích phục vụ hoạt động
kinh tế của các thành viên tham gia với phương châm giúp đỡ lẫn nhau (cũng là giúp

đỡ chính mình). Ngồi ra, hoạt động của hợp tác xã cịn mang tính cộng đồng xã hội tương trợ, giúp đỡ cộng đồng. Bởi vậy, lợi nhuận không phải là mục tiêu duy nhất của
hợp tác xã (Luật HTX, 2003).
Nguyên tắc cơ bản của hợp tác xã là tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và quản
lý dân chủ.
Ở các nước tư bản, kinh tế hợp tác mặc dù chỉ là dòng “kinh tế phụ”, nhưng nó
đặc biệt quan trọng đối với nơng dân. Hợp tác xã giúp đỡ các chủ trang trại nông dân
tồn tại trước những tác động của kinh tế thị trường và ảnh hưởng của các tổ chức độc
quyền lớn. Do vậy, ngồi mục tiêu kinh tế, hợp tác xã cịn là loại hình kinh tế mang
tính chất xã hội - nhân đạo.

1.1.1.3. Bản chất của hợp tác
Về cơ bản, bản chất của hợp tác thể hiện qua loại hình tổ chức kinh tế và quan
hệ kinh tế trong hình thức hợp tác.
Về quan hệ kinh tế và tính hỗn hợp của liên kết trong mơ hình HTX, trong một
nghiên cứu về hợp tác, Cook (1995) cho rằng một HTX có hai thuộc tính miêu tả
kiểu hợp nhất dọc đặc biệt: (1) hợp nhất giữa các xã viên và HTX và (2) tất cả xã
viên cùng sở hữu HTX. Khi nhìn nhận theo sở hữu, quan hệ giữa các hộ mang tính
liên kết ngang, nhưng khi nhìn về lợi ích của quan hệ hợp tác, xã viên và HTX lại
có tính liên kết dọc, hay HTX cũng chính là loại liên kết hỗn hợp trong mơ hình
kinh tế hợp tác. Hợp tác đáp ứng nhu cầu chung về hàng hoá và dịch vụ của tất cả
các thành viên tham gia; thành viên tham gia hợp tác có quyền bình đẳng và biểu
quyết ngang nhau, khơng phụ thuộc vốn góp trong việc quyết định tổ chức, quản
lý và hoạt động của các hình thức hợp tác.
Về loại hình tổ chức kinh tế của HTX: bản chất HTX là tổ chức kinh tế
nhấn mạnh tính tập thể. HTX ở Việt Nam cơ bản thể hiện đầy đủ các tiêu chí bản sắc,
giá trị và nguyên tắc cốt lõi của quan niệm HTX như ICA. Luật HTX (2012) đã thể
hiện tính chất “đồng sở hữu” cho phép xác nhận sự khác biệt về bản chất của tổ chức
kinh tế hợp tác với các loại hình doanh nghiệp khác. Từ đó, Việt Nam xác định rõ bản
chất của HTX là tổ chức kinh tế tập thể trong khi các nước Thái Lan, Philippines nhận
định HTX là tổ chức phi chính phủ, Pháp nhận định HTX là doanh nghiệp, Canada xác



24
định HTX vừa là tổ chức cá nhân vừa là doanh nghiệp (GRET, 2009).

1.1.1.4. Nguyên tắc của hợp tác
Theo ICA, giá trị cơ bản của HTX là việc đảm nhận trách nhiệm cá nhân và
trách nhiệm giữa các thành viên với nhau. Theo sát tư tưởng của những người sáng
lập, thành viên tham gia vào HTX với đạo đức dựa trên nền tảng là sự trung thực, tính
minh bạch, trách nhiệm xã hội và lịng vị tha. Vì vậy, ICA nêu rõ HTX có 7 ngun
tắc để hình thành nên tư tưởng chủ đạo để các HTX thực hiện các giá trị của mình: 1/
Tự nguyện; 2/ Dân chủ; 3/ Các thành viên đều tham gia vào hoạt động kinh tế; 4/ Tự
chủ và độc lập; 5/ Đào tạo, tập huấn và thông tin; 6/ Hợp tác giữa các HTX; 7/ Cam
kết cộng đồng (Cardoso Cancado, Arruda Souza, M.de F., & Pereira, J.R, 2014).
Ở Việt Nam, Luật Hợp tác xã (2012) nêu rõ 7 nguyên tắc hoạt động của HTX
gồm: 1/ Tự nguyện; 2/ Kết nạp rộng rãi các thành viên; 3/ Có quyền bình đẳng, được
cung cấp thơng tin; 4/ Tự chủ, tự chịu trách nhiệm; 5/ Có trách nhiệm thực hiện cam
kết theo hợp đồng; 6/ Giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng; 7/ Chăm lo phát triển bền vững
đời sống cộng đồng. Các nguyên tắc trên về cơ bản đã thể hiện tinh thần của ICA, cập
nhất các tiến bộ về giá trị HTX của các nước đang phát triển trên thế giới.

1.1.2. Khái niệm, các hình thức, phương thức và nguyên tắc liên kết trong sản
xuất - tiêu thụ sản phẩm
1.1.2.1. Khái niệm về liên kết
So với sản xuất quy mô nhỏ lẻ, manh mún, thủ công, liên kết để sản xuất - tiêu
thụ sản phẩm với qui mơ lớn sẽ mang lại nhiều lợi ích về kinh tế và xã hội. Một trong
những hướng đi tất yếu để một sản phẩm, một lĩnh vực phát triển lâu dài và bền vững
là sản xuất theo chuỗi, liên kết và hợp tác giữa các tác nhân tham gia chuỗi.
Theo Từ điển Kinh tế học hiện đại “liên kết kinh tế chỉ tình huống khi mà các
khu vực khác nhau của nền kinh tế, thường là khu vực công nghiệp và nông nghiệp

hoạt động phối hợp với nhau một cách có hiệu quả và phụ thuộc lẫn nhau, là một yếu
tố của quá trình phát triển” (David W. Pearce, 1999).
Theo Phạm Thị Minh Nguyệt (2006), “liên kết chính là những phương thức
hoạt động của các hình thức hợp tác kinh tế, liên kết kinh tế phát triển ngày càng
phong phú, đa dạng theo sự phát triển của hợp tác kinh tế; tất cả các mối quan hệ kinh
tế được hình thành giữa hai hay nhiều đối tác với nhau dựa trên những hợp đồng đã ký
kết với những thảo luận nhất định được gọi là liên kết kinh tế”.
Như vậy, liên kết kinh tế chính là sự biểu hiện của các hình thức hợp tác, phản


25
ánh mối quan hệ về hợp tác và phân công lao động trong các quá trình sản xuất xã hội
của các ngành, các đơn vị kinh tế, các thành phần kinh tế. Liên kết kinh tế là sự hợp
tác phối hợp giữa các chủ thể kinh tế trên cơ sở tự nguyện nhằm thúc đẩy sản xuất
kinh doanh theo hướng có lợi nhất.

1.1.2.2. Các hình thức liên kết
Căn cứ theo chức năng liên kết, theo Hồ Quế Hậu (2002) có 4 loại hình liên kết:
- Liên kết trao đổi: là kiểu liên kết nhằm trao đổi một đối tượng này để nhận về
một đối tượng khác có giá trị tương đương.
- Liên kết hợp lực: các bên liên kết cùng nhau đóng góp nguồn lực kinh tế như
đất đai, vốn, nguồn nhân lực, công nghệ… để cùng sản xuất, kinh doanh, cùng chịu
trách nhiệm và chia sẻ lợi nhuận, rủi ro theo mức độ đóng góp.
- Liên kết phân chia: là hình thức liên kết trong đó các bên cùng thỏa thuận
phân chia khu vực cung ứng nguyên vật liệu đầu vào hoặc thị trường đầu ra để giảm
thiểu rủi ro do cạnh tranh lẫn nhau. Các bên liên kết thường là các đối tác kinh doanh
chứ không phải là đối thủ cạnh tranh.
- Liên kết ủy nhiệm là một bên ủy nhiệm cho bên kia liên kết thực hiện một
nhiệm vụ nào đó và chi trả các chi phí phát sinh.
Dựa theo các phân loại này, chúng ta có thể phân biệt được chức năng tham

gia của các bên trong liên kết và là cơ sở quan trọng để đánh giá kết quả, hiệu quả
của liên kết.
Căn cứ theo chủ thể liên kết, cũng theo Hồ Quế Hậu (2002) có các hình thức
liên kết sau:
- Liên kết giữa nơng dân với nông dân: nông dân tự nguyện hợp tác thành các
tổ/đội/nhóm hợp tác, hợp tác xã cùng nhau sản xuất một sản phẩm. Hình thức liên kết
này góp phần tạo nên thế cân bằng trong các giao dịch, đàm phán với các tác nhân
khác trong chuỗi giá trị nông sản.
- Liên kết giữa nông dân với doanh nghiệp: đây được xem là hình thức quan
trọng nhất trong các hình thức liên kết. Quyền lợi và nghĩa vụ cũng như các điều khoản
liên quan đến giá cả, chất lượng, mẫu mã sản phẩm và các trường hợp phát sinh trong
quá trình thực hiện liên kết được quy định tại một hợp đồng kinh tế, là căn cứ pháp lý để
bảo đảm các bên thực hiện đầy đủ và các bên tham gia liên kết cùng có lợi.
- Liên kết theo chuỗi: là hình thức hợp đồng sản xuất bao gồm nhiều chủ thể


26
khác nhau cũng tham gia như doanh nghiệp, nông dân, nhà khoa học, nhà chính sách
và các tổ chức tín dụng…Khi có nhiều tác nhân tham gia liên kết chuỗi thì sẽ xuất hiện
vai trị trung tâm điều hành và quyết định quá trình liên kết.
Cách phân loại này sẽ đánh giá được vai trò của các tác nhân trong liên kết, xác
định rõ vai trị chính, vai trị phụ trong từng hình thức liên kết.

1.1.2.3. Bản chất của liên kết
Liên kết là sự hợp tác để cùng phát triển của các bên tham gia không kể quy mô
hay loại hình sở hữu. Bản chất của liên kết là các bên tìm cách bù đắp sự thiếu hụt của
mình từ sự phối hợp hoạt động với đối tác.
Trong liên kết, các thành viên tham gia liên kết có cùng tiếng nói và trách
nhiệm nên dễ dàng chia sẻ thơng tin, kiểm sốt chi phí, nâng cao chất lượng, hạ giá
thành sản phẩm trong khi sản phẩm tạo ra có chất lượng, giá đầu ra đáp ứng nhu cầu

thị trường…
Như vậy, bản chất của liên kết thể hiện quá trình phối hợp và giao dịch giữa các
tác nhân, biểu thị các cấu trúc quản trị theo nhiều dạng thức và hướng đến hiệu quả
kinh tế nhờ liên kết.

1.1.2.4. Nguyên tắc của liên kết
- Tự nguyện và cam kết tham gia: liên kết kinh tế diễn ra giữa các chủ thể kinh
tế tự do nên sự liên kết chỉ được hình thành và phát triển khi các bên nhận thấy lợi ích
của mình (kèm theo nghĩa vụ thực hiện) lớn hơn các phương thức khơng liên kết, từ đó
tự nguyện và cam kết tham gia để xác lập mối quan hệ. Đây chính là cơ sở kinh tế
quan trọng giúp cho các mối liên kết bền vững. Tính cam kết trong thực hiện nghĩa vụ
khẳng định trách nhiệm và uy tín trong quá trình thực hiện liên kết lâu dài và bền vững
giữa các bên tham gia liên kết.
- Cam kết chia sẻ rủi ro và lợi ích: Đây là đặc trưng cơ bản của liên kết kinh tế
theo quan hệ hợp tác, bạn hàng. Chia sẻ lợi ích trong kinh tế đòi hỏi xử lý hài hòa mối
quan hệ giữa các bên một cách cơng bằng tương xứng với chi phí và cơng sức mỗi bên
bỏ ra và góp phần làm cho chuỗi sản phẩm bền vững. Chính sự cam kết sẽ nâng cao
trách nhiệm trong liên kết cả khi thuận lợi cũng như khó khăn để các bên liên kết cùng
chung sức phát triển quá trình liên kết lâu dài và bền vững.
- Các bên tham gia thực hiện quyền và nghĩa vụ trên cơ sở những ràng buộc
pháp lý trong hợp đồng liên kết. Lúc này, hợp đồng kinh tế được coi là khế ước, là


27
thỏa thuận, điều khoản ràng buộc trách nhiệm, quyền lợi, nghĩa vụ giữa các bên tham
gia liên kết, được pháp luật thừa nhận và bảo hộ.

1.1.2.5. Phương thức liên kết
Liên kết dọc
Liên kết dọc là liên kết giữa hai hay nhiều thành viên tham gia chuỗi sản xuất ở

các cấp khác nhau (giữa các khâu trong chuỗi giá trị) thông qua các hợp đồng được
đảm bảo bởi pháp luật, như liên kết giữa nhà cung cấp đầu vào với người sản xuất, liên
kết giữa nhà sản xuất nguyên liệu với công ty chế biến,...”
Liên kết dọc được điều tiết thông qua cả quá trình sản xuất và phân phối. Liên
kết dọc phản ánh độ dài của chuỗi cung ứng.
Liên kết ngang
Là mối liên kết giữa các thành viên cùng 1 cấp tham gia chuỗi sản xuất.
Chẳng hạn ngư dân liên kết trong những tổ hợp tác, hợp tác xã trên biển... Liên kết sẽ
mang lại lợi nhuận cao hơn do sản phẩm tạo ra có chất lượng hơn, chi phí đầu vào sản
xuất thấp hơn do giảm chi phía ở các khâu trung gian.
Ở quy mô lớn hơn, liên kết ngang là hình thức hiệp hội, liên minh hợp tác xã….
Mục đích của hình thức liên kết này chủ yếu nhằm hỗ trợ về chính sách, tài chính,
nghiên cứu thị trường, thống kê, dự báo, hướng dẫn, đào tạo và huấn luyện nâng
cao năng lực cho các tổ chức thành viên.
Liên kết ngang phản ánh độ rộng của chuỗi cung ứng.
Liên kết “nhiều nhà”
“Theo cách tiếp cận chuỗi giá trị, để phát triển bền vững chuỗi sản phẩm thì ngồi
liên kết ngang và liên kết dọc được đề cập ở trên cịn có sự hỗ trợ riêng lẻ cho từng tác
nhân trong chuỗi như về kỹ thuật từ các Viện, Trường, cán bộ khuyến nông, công ty cung
ứng vật tư đầu vào, công ty chế biến về xúc tiến thương mại, kiểm soát thị trường và
chất lượng; hoặc ngân hàng hỗ trợ về vốn cho cho tồn chuỗi, chính sách từ chính quyền
địa phương các cấp,… Đây là mối liên kết “nhiều nhà”, một đảm bảo cao hơn cho sự phát
triển bền vững chuỗi ngành hàng.”
Liên kết khu vực
“Liên kết vùng giữa các nhà sản xuất cùng ngành hàng trong cùng khu vực địa lý
được hình thành nhằm cân bằng cung-cầu sản phẩm trên thị trường, tránh khủng hoảng
“thừa - thiếu” sản phẩm, dự báo thị trường tốt hơn thông qua quy hoạch sản xuất bảo đảm



×