Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ CHÍNH SÁCH xã hội mới ở NÔNG THÔN để TĂNG CƯỜNG sức MẠNH QUỐC PHÒNG của đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (549.82 KB, 106 trang )

MỞ ĐẦU
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế tiểu nông lạc hậu.
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa đòi hỏi phải chuyển biến nền kinh tế tiểu nông lạc hậu đó thành nền nông
nghiệp sản xuất lớn, hiện đại. Trong quá trình chuyển biến lâu dài và phức tạp
đó, sự vận động và phát triển hợp quy luật khách quan của quan hệ sản xuất
trong nông nghiệp có vai trò hết sức quan trọng, là một trong những nhân tố cơ
bản để phát triển sản xuất nông nghiệp, củng cố quốc phòng. Nhận rõ các vấn đề
nêu trên, hơn ba thập kỷ qua, cùng với những việc làm quan trọng khác, Đảng,
Nhà nước và nhân dân ta đã thông qua quá trình hợp tác hoá để cải tãoh chủ
nghĩa nền nông nghiệp sản xuất nhỏ, cá thể, xây dựng quan hệ sản xuất mới,
từng bước xây dựng và phát triển nền nông nghiệp sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa
(140). Nhưng những năm qua, nông nghiệp nước ta phát triển chậm, trong thế
thiếu ổn định, kinh tế hàng hoá tốn kém phát triển, nhiều vùng vẫn ở trong tình
trạng tự cấp, tự túc, chia cắt, độc canh (130). Những tiềm năng to lớn của nông
nghiệp vẫn chưa được khai thác và sử dụng có hiệu quả, người lao động vẫn
chưa thoát khỏi những khó khăn về sản xuất và đời sống; các hợp tác xã trải qua
nhiều bước thăng trầm vẫn đang trong thế phát triển khó khăn, chế độ hợp tác xã
đứng trước những thử thách nghiệt ngã.
Trên tinh thần đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã
chỉ rõ những nguyên nhân của tình hình trên bắt nguồn từ những sai lầm và
khuyết điểm của chúng ta trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội, về cải tạo xã hội
chủ nghĩa đối với nông nghiệp nhỏ, cá thể, bệnh chủ quan duy ý chí, nóng vội
trong các chủ trương chính sách cải tạo, muốn đốt cháy giai đoạn; coi nhẹ và bỏ
qua các hình thức kinh tế trung gian, quá độ, từ thấp đến cao phù hợp với trình
độ thấp kém của lực lượng xây dựng. Nhận thức lại một cách đúng đắn học
thuyết Mác-Lênin về vấn đề đưa kinh tế tiểu nông lên chủ nghĩa xã hội và thực
tiễn cuộc sống đã đem lại cho chúng ta cách nhìn nhận mới về quá trình hợp tác
hoá, đòi hỏi chúng ta phải tiến hành trong thực tiễn việc điều chỉnh lớn quan hệ
sản xuất trong nông nghiệp nhằm tiếp tục tạo ra sự phát triển.
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh quốc tế có những diễn


biến hết sức phức tạp, các thế lực thù địch đang triệt để lợi dụng những sai lầm
và khó khăn của các nước xã hội chủ nghĩa, tiến hành cuộc phản kích nhằm xoá
bỏ chủ nghĩa xã hội. Việt Nam hiện đang là một trong những mục tiêu quan
trọng của chúng. Tình hình đó, đòi hỏi chúng ta không được mảy may lơ là
nhiệm vụ củng cố quốc phòng. Bên cạnh đó, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội
trong nước thời gian qua cũng đang đặt ra những đòi hỏi khách quan phải tăng


cường củng cố quốc phòng trên cơ sở những tư duy lý luận mới. Quá trình điều
chỉnh quan hệ sản xuất trong nông nghiệp, một mặt, xuất phát từ những đòi hỏi
khách quan của cả sự phát triển kinh tế và của cả sự nghiệp củng cố quốc phòng,
mặt khác, thực tiễn cuộc sống cũng đang đặt ra những vấn đề mới về kinh tế và
quốc phòng đòi hỏi phải được nghiên cứu có những giải pháp phù hợp để vừa
tiếp tục tạo ra những điều kiện khách quan mới cho sự phát triển của nông
nghiệp, đồng thời tăng cường củng cố sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân
phù hợp với yêu cầu mới. Chính trong bối cảnh như vậy việc nghiên cứu đề tài
này trở nên hết sức cần thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn.
Tình hình nghiên cứu đề tài này cho đến nay
Vấn đề sự phát triển của quan hệ sản xuất xã hội nói chung và quan hệ sản
xuất trong nông nghiệp nói riêng, đã được nhiều tác giả trong và ngoài nước
nghiên cứu (46), (57), (87), (99), (110), (157), (179), (199).
Song, mối quan hệ giữa sự phát triển của quan hệ sản xuất trong nông
nghiệp với vấn đề củng cố quốc phòng hãy còn rất ít được nghiên cứu (114). Từ
sau khi có nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng và thực
hiện đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, một số bài báo đã viết và đề cập cập
đến một số khía cạnh về sự biến đổi mới trong các hợp tác xã nông nghiệp và
các quan hệ kinh tế mới giữa Nhà nước với các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất
nông nghiệp và các hộ nông dân xã viên. Một số bài đề cập đến một số khía
cạnh cụ thể về việc bảo đảm lương thực, thực phẩm cho các lực lượng vũ trang
và vấn đề hậu phương quân đội. Nhưng, những tác động của việc điều chỉnh và

phát triển của các quan hệ sản xuất trong nông nghiệp đối với sự nghiệp củng cố
nền quốc phòng toàn dân ở nước ta thì chưa được nghiên cứu và phân tích một
cách cơ bản và có hệ thống trên cơ sở những thành tự mới của sự đổi mới tư duy
lý luận về kinh tế và quốc phòng.
Luận án này nghiên cứu về sự vận động và phát triển của quan hệ sản xuất
trong nông nghiệp và sự tác động của chúng đối với sự nghiệp củng cố quốc
phòng ở nước ta mong đóng góp một phần vào việc tìm ra những vấn đề nois lên
các xu hướng phát triển khách quan của sự tác động đó, trên cơ sở kế thừa có
chọn lọc thành tựu nghiên cứu của những người đi trước.
Tuy nhiên, đây là một vấn đề hết sức phức tạp và rộng lớn. Chúng ta đang
thực hiện nhất quán chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quân đội. Sự điều chỉnh
lớn các quan hệ sản xuất trong nông nghiệp đã được đặt trên cơ sở của tư tưởng
chung đó, nên nó là một sự đan xen chằng chịt, tác động nhiều chiều của các
quan hệ sản xuất thuộc các thành phần kinh tế khác nhau thuộc lĩnh vực nông


nghiệp và chúng đều có sự tác động đến củng cố nền quốc phòng toàn dân ở
nước ta. Luận án không có khả năng đề cập đến tất cả các quan hệ sản xuất
thuộc mọi thành phần kinh tế hiện đang tồn tại khách quan trong nông nghiệp;
chỉ coi sự phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội
chủ nghĩa là cái nền chung, trên cái nền chung đó, tập trung vào nghiên cứu sự
phát triển của quan hệ sản xuất trong khu vực kinh tế tập thể đối với hình thức
phổ biến là hợp tác xã nông nghiệp trong mối quan hệ qua lại với quan hệ sản
xuất xhu và các thành phần kinh tế khác trong nông nghiệp ở chặng đầu của thời
kỳ quân đội. Do đó, luận án không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót
không những do trình độ, năng lực nghiên cứu của tác giả, mà còn do vấn đề
nghiên cứu hết sức phức tạp và những đối tượng nghiên cứu cũng đang diễn
biến không ngừng.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

Mục đích của luận án là nghiên cứu sự phát triển của quan hệ sản xuất
trong nông nghiệp trong quá trình chuyển biến từ kinh tế tiểu nông lên nông
nghiệp sản xuất lớn, hiện đại trong chặng đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta, nghiên cứu những tác động chủ yếu của quá trình phát triển đó
đến công cuộc củng cố quốc phòng; từ đó góp phần vào việc luận chứng cơ sở
khoa học của những chính sách kinh tế-xã hội hiện nay của Đảng ta trong nông
nghiệp, đồng thời đề xuất một số kiến giải có tính chất pháp luận trong việc huy
động các lực lượng kinh tế nông nghiệp nước ta phục vụ cho quốc phòng.
Luận án có nhiệm vụ:
1. Chứng minh tính tất yếu và con đường để chuyển biến kinh tế tiểu nông
lên nông nghiệp sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, khẳng định sự đúng đắn của học
thuyết Mác-Lênin về chế độỗht, con đường đơn giản dễ dàng và dễ tiếp thu nhất
đối với nông dân tiến lên chủ nghĩa xã hội. Dưới ánh sáng của tư tưởng đó nhận
thức lại một cách đúng đắn, đánh giá lại một cách nghiêm túc quá trình phát
triển của phong trào hợp tác hoá nông nghiệp ở nước ta trong mấy chục năm
qua, khẳng định những thành tựu, nêu lên những sai lầm, khuyết điểm, những
mâu thuẫn nảy sinh, chứng minh sự cần thiết phải điều chỉnh quan hệ sản xuất
trong nông nghiệp và bản chất sự điều chỉnh đó.
2. Chứng minh tác động tích cực của việc điều chỉnh quan hệ sản xuất
trong nông nghiệp đối với củng cố tăng cường quốc phòng của đất nước đồng
thời cũng đặt ra những vấn đề mới trong việc bảo đảm kinh tế cho quốc phòng
từ các nguồn lực của nông nghiệp như cơ chế bảo đảm,vấn đề xây dựng nông
thôn với tính cách như là cơ sở bảo đảm nông nghiệp cho quốc phòng và là một
bộ phận quan trọng của hậu phương trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.Từ việc


phát hiện những mâu thuẫn mới, nêu lên những vấn đề phương pháp luận giải
quyết một số yêu cầu cấp bách do thực tiễn đặt ra.
Những cái mới về mặt khoa học của luận án
Với mục đích và nhiệm vụ như vậy luận án có thể đem lại những nét mới

về mặt khoa học sau đây:
1. Trong tình hình có nhiều xu hướng muốn phủ định chủ nghĩa MácLênin, luận án đã khẳng định con đường xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp,
khẳng định học thuyết Mác-Lênin về con đường cải tạo kinh tế tiểu nông, chứng
minh rằng những khó khăn vấp váp trong nông nghiệp cũng như của chế độ hợp
tác ở nước ta và ở nhiều nước trên thế giới là do thực hiện không đúng học
thuyết đó chứ không phải là do học thuyết đó sai. Thừa nhận sự cần thiết phải
điều chỉnh các quan hệ kinh tế nông nghiệp ở nước ta, không hiểu sự điều chỉnh
đó như một bước lùi trở về kinh tế tiểu nông mà là sự phát triển hợp với quy luật
kinh tế khách quan trong quỹ đạo xã hội chủ nghĩa.
2. Nghiên cứu tổng quát về tác động của những biến đổi trong quan hệ sản
xuất nông nghiệp nước ta đối với sự nghiệp củng cố quốc phòng. Hướng nghiên
cứu đó nối liền hai lĩnh vực lý luận và thực tiễn có quan hệ hữu cơ với nhau và
tác đọng qua lại lẫn nhau mà lâu nay ít được nghiên cứu. Đó là kinh tế chính trị
học Mác-Lênin trong lĩnh vực kinh tế nông nghiệp và kinh tế quân sự trong lĩnh
vực bảo đảm kinh tế của nông nghiệp cho quốc phòng, là những nội dung quan
trọng trong đường lối kinh tế và đường lối quân sự của Đảng. Nghiên cứu từ
nguồn gốc và bản chất sự điều chỉnh quan hệ sản xuất trong nông nghiệp để vừa
thấy những thuận lợi cơ bản đối với sự nghiệp quốc phòng do tác động tích cực
của sự điều chỉnh đó đối với sự phát triển các lực lượng sản xuất nông nghiệp;
vừa tháy những vấn đề mới được đặt ra do sự điều chỉnh ấy làm nảy sinh đối với
củng cố quốc phòng và đề xuất những kiến giải có tính chất phương pháp luận
như cơ chế bảo đảm lương thực, thực phẩm, nhân lực cho quốc phòng; các vấn
đề kinh tế xã hội cần thiết để biến nông thôn thành cơ sở tiềm lực kinh tế, chính
trị- tinh thần, quân sự của quốc phòng, thành hậu phưpng của chiến tranh.
Ý nghĩa thực tiễn của luận án
Những luận điểm và kết luận của luận án sẽ đóng góp những luận cứ khoa
học của mình vào việc hình thành những quan niệm đúng đắn trong việc vận
dụng những tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin về việc chuyển biến kinh tế tiểu
nông thành nền nông nghiệp sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa thông qua con đường
của chế độ hợp tác xã ở nước ta cũng như đổi mới cơ chế bảo đảm kinh tế cho

quốc phòng, đổi mới một số chính sách kinh tế xã hội đối với nông dân- nông
thôn và nông nghiệp để thúc đẩy nông nghiệp phát triển, tăng cường củng cố


quốc phòng trong tình hình mới. Luận án cũng có thể được dùng vào việc tham
khảo cho việc giảng dạy các chủ đề kinh tế chính trị xã hội chủ nghĩa hoặc bộ
môn kinh tế quân sự trong các học viện và nhà trường quân đội.
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đó là các luận điểm và tư tưởng của các tác giả kinh điển của chủ nghĩa
Mác-Lênin về kinh tế chính trị học, học thuyết của chủ nghĩa Mác-Lênin về bvta
xã hội chủ nghĩa, về chiến tranh và quân đội, lý luận kinh tế quân sự. Các văn
kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhất là văn kiện đại hội VI và các nghị
quyết Trung ương, Bộ Chính trị sau đại hội. Luận án cũng sử dụng một số luận
điểm của một số tác giả trong và ngoài nước; các số liệu chính thức của Tổng
cục thống kê, những báo cáo tổng kết của Ban nông nghiệp Trung ương, Bộ
Nông nghiệp; các chỉ thị báo cáo của Đảng uỷ quân sự Trung ương, Bộ Quốc
phòng, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam; các số liệu chọn lọc
qua điều tra khảo sát ở một số địa phương, cơ sở.
Về phương pháp nghiên cứu, luận án dựa trên phương pháp nghiên cứu cơ
bản của khoa học kinh tế chính trị Mác-Lênin là phương pháp trừu tượng hoá
khoa học, kết hợp lô gíc với lịch sử; đồng thời có kết hợp với những phương
pháp nghiên cứu của khoa học kinh tế cụ thể như các phương pháp thống kê,
điều tra khảo sát điển hình.v.v..
Chương I
SỰ PHÁT TRIỂN HỢP QUY LUẬT CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG
NÔNG NGHIỆP - MỘT TRONG NHỮNG NHÂN TỐ CƠ BẢN ĐỂ PHÁT
TRIỂN NÔNG NGHIỆP
Trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm
vi toàn thế giới, trong điều kiện có sự lãnh đạo ổn định, vững vàng của Đảng
Cộng sản Việt Nam, cách mạng Việt Nam sau khi đã hoàn thành về cơ bản

những nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng dân tộc- dân chủ tất yếu phải chuyển
lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Công cuộc xây dựng nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa sẽ diễn ra đồng thời cả ở thành thị và nông thôn và đối với một nước chủ
yếu là nông nghiệp như nước ta thì trong chặn đầu của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, nông nghiệp phải là "mặt trận hàng đầu", sự phát triển của nó phải
là cơ sở cho sự ổn địnhvà phát triển về kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước.
Khó khăn lớn nhất đối với nước ta khi bước vào công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội là khoảng cách rất lớn giữa điểm xuất phát rất thấp là nền sản xuất
nhỏ lạc hậu và mục tiêu phải đạt đến là nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Khó
khăn đó càng đặc biệt điển hình trong nông nghiệp.


Từ những bước thăng trầm của nông nghiệp cũng như các hợp tác xã nông
nghiệp ở nước ta trong những năm qua, có thể có hai cách giải thích: hoặc là
cho rằng con đường của chế độ hợp tác xã là sai lầm, trái quy luật, đi ngược lại
bản chất và sức sống tự nhiên của nền kinh tế tiểu năng, hoặc là con đường đó là
đúng về phương hướng nhưng sai về hình thức và bước đi, do đó không phát
huy được đầy đủ những động lực do quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa được
thiết lập đem lại, đồng thời cũng không khai thác được mặt còn tích cực của
kinh tế tiểu nông đối với sựpt của nền kinh tế quốc dân. Luận án này chứng
minh cho cách luận giải thứ hai.
I.1. vai trò của quan hệ sản xuất nông nghiệp đối với sự phát triển
nông nghiệp
Nông nghiệp là một trong những ngành sản xuất cơ bản của xã hội, ra đời
sớm nhất trong lịch sử và có vai trò hết sức quan trọng đối với sản xuất và đời
sống. Trước hết nó cung cấp cho con người và nuôi sống con người bằng các
sản phẩm có giá trị dinh dưỡng quý giá, đó là lương thực, thực phẩm mà cho
đến nay chưa ngành sản xuất vật chất nào có thể thay thế được.
Trước đây do xem xét thiếu toàn diện đã có lúc không người nghĩ rằng vấn
đề thoả mãn nhu cầu ăn chỉ là khó khăn đối với các nước kinh tế chậm phát

triển. Nhưng thực tế cuộc sống đã chứng tỏ rằng không phải hoàn toàn như vậy.
Ở những nước phát triển đã đạt đến mức bình quân lương thực đầu người trong
một năm 600 đến 700kg, sự phát triển của cơ cấu cũng như chất lượng nhu cầu
ăn vẫn cứ đặt ra những yêu cầu mới đối với sản xuất nông nghiệp. Và chăng
mặc dù đã đạt đến trình độ cao, ở các nước đó, nông nghiệp vẫn cứ còn tiếp tục
chịu sự chi phối của thiên nhiên, vẫn còn sự cần thiết phải có dự trữ lương thực,
thực phẩm đề phòng thiên tai, mất mùa và những biến động khác nữa. Trong
những năm gần đây, người ta thấy rằng, do ảnh hưởng của thời tiết, khí hậu dẫn
đến sự tăng, giảm sản lượng lương thực thế giới, và do đó giá cả lương thực,
thực phẩm trên thị trường thế giới có những biến động đáng kể.
Đối với các nước kinh tế lạc hậu, thì vai trò của nông nghiệp đối với việc
cung cấp lương thực, thực phẩm nuôi sống xã hội càng hết sức quan trọng. Hiện
nay, tại khu vực thế giới thứ ba, nạn dói và suy dinh dưỡng đang đe doạ sự tồn
vong và phát triển của nhiều cộng đồng dân tộc. Thoả mãn nhu cầu ăn với mức
thấp (ăn cho đủ no và có đủ chất dinh dưỡng tối thiểu) đang còn là mối bận tâm
hàng đầu của đa số các quốc gia, dân tộc trên thế giới hiện nay. Chính cái thực
tế đó đã dẫn nhiều chính khách của chủ nghĩa đế quốc nhất là đế quốc Mỹ, đi
đến nhận thức vai trò chiến lược của lương thực, có thể coi đó là một công cụ
chiến lược hữu hiệu để tiến hành các chính sách thực dân của chúng đối với các
nước thế giới thứ ba.


Ở Việt Nam, từ nhiều thập kỷ đã qua cho đến ngày nay, lương thực, thực
phẩm luôn luôn là một vấn đề cơ bản và cấp bách.
Thực tiễn ở nước ta đã chứng tỏ rằng nếu chưa giải phóng được vững chắc
vấn đề lương thực, chưa vượt qua được cửa ải lương thực thì vẫn chưa tạo được
tiền đề ổn định và vững chắc để tiến lên con đường công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, thiếu một cơ sở quan trọng đẻ bảo đảm sự ổn định về chính trịtinh thần trong xã hội.
Trong những năm 1981- 1985 sản xuất nông nghiệp nước ta chiếm từ 37,8
đến 41,5% trong tổng sản phẩm xã hội, từ 50,8 đến 53,1% trong tổng thu nhập

quốc dân, từ 70 đến 72% trong tổng lao động xã hội. Nếu tính cả phàn của lâm
nghiệp và ngành thuỷ sản (nông nghiệp theo nghĩa rộng) thì những chỉ số trên
còn lớn hơn nữa (117). Trong thời gian từ 1985 đến 1987, giá trị nông- lâmthuỷ sản trong kim ngạch xuất khẩu của nước ta tăng lên và chiếm tỷ trọng lớn
từ 46,9% lên 63,6% (117).
Mặc dù nông nghiệp nước ta chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong nền kinh
tế, nhưng tổng sản lượng lương thực cả nước cũng như tính bình quân theo đầu
người nước ta vẫn còn là thấp, nhìn chung còn chưa vượt quá được ngưỡng 300
kg/năm. Với tình trạng đó thì nông nghiệp chưa thể đóng được vai trò mà công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta đòi hỏi.
Ai cũng biết rằng, một nước không thể làm giàu được bằng một nền nông
nghiệp chỉ đủ nuôi sống cho dân cư của đất nước ở mức không đói và có dự trữ
tối thiểu. Một nền nông nghiệp đem lại sự giáu có phải là một nền nông nghiệp
hàng hoá, đa canh, không những sản xuất lương thực mà còn sản xuất nhiều
thực phẩm trải qua chế biến và nguyên liệu đa dạng cho công nghiệp nhẹ, công
nghiệp thực phẩm và dược phẩm trong nước, đồng thời là một nền nông nghiệp
hàng hoá ngày càng hướng vào xuất khẩu. Điều đó có nghĩa là phải tạo ra được
một nền nông nghiệp phát triển cao về mặt phân công lao động và trình độ
chuyên môn hoá.
Tuy nhiên, muốn có sự phát triển của phân công lao động, hình thành
những ngành nghề mới như vậy ở trong nông nghiệp thì đòi hỏi năng suất lao
động trong việc sản xuất lương thực phải đạt đến một trình độ có thể tạo ra một
khối lượng sản phẩm thặng dư đủ để nuôi sống tương đối dễ dàng số nhân khẩu
phi nông nghiệp hoặc nhân khẩu nông nghiệp sản xuất nguyên liệu. đúng như
C.Mác đã khẳng định: "Lao động nông nghiệp là cái cơ sở tự nhiên để biến tất
cả các ngành khác thành những ngành độc lập"( 8) .
Dĩ nhiên, không nên hiểu luận điểm lý luận này một cách máy móc, cứng
đờ, đòi hỏi tất cả các địa phương của đất nước phải tự túc lương thực, phá hoại


những vùng vốn có thế mạnh về sản xuất nông sản nguyên liệu, lùi trở lại hình

thái kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc lương thực như có một thời gian dài chúng ta
đã làm. Quan niệm đúng đắn về sự phát triển của một nền nông nghiệp hàng
hoá, của thị trường trao đổi hàng hoá nông sản trong phạm vi từng vùng lãnh
thổ và trong cả nước cũng như thế giới, cho phép ta giải phóng vấn đề một cách
hợp lý và khoa học hơn về mặt kinh tế. Tuy nhiên, xét trên phương diện quản lý
vĩ mô, thì một đất nước như nước ta với dân số không phải là nhỏ và tính đến
các biến động phức tạp của kinh tế, chính trị trong nước và thế giới, sự biến
động của các điều kiện tự nhiên…thì nông nghiệp nước ta nhất thiết về cơ bản
phải sản xuất đảm bảo được nhu cầu ăn của nhân dân nước mình.
Chính vì nhận thức đúng vai trò quan trọng có tính chất chiến lược của
nông nghiệp đối với sự phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân đồng thời
đánh giá đúng tính trạng còn thấp kém của nền nông nghiệp nước ta, nên trong
đường lối và chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của Đảng ra, thể hiện qua các
văn kiện, nghị quyết của các đại hội và các hội nghị Trung ương đều xác định
nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đều đặt ra nhiệm vụ không những cho riêng
ngành nông nghiệp mà còn cả cho toàn thể các ngành, các cấp phải tập trung sức
thúc đẩy nhanh chóng sự phát triển của nông nghiệp.
Xây dựng và phát triển mạnh mẽ nền nông nghiệp hàng đầu nhiều thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, làm cho nền nông nghiệp có một năng
suất càng cao, tỷ suất hàng hoá ngày càng lớn, có cơ cấu hợp lý, mọi năng lực
sản xuất của hết thảy mọi thành phần kinh tế của nông nghiệp được phát huy để
tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm cho xã hội là một mục tiêu chiến lược trong
chiến lược phát triển kinh tế ở nước ta không chỉ hiện nay mà cả lâu dài.
Sự phát triển mạnh mẽ của nông nghiệp không thể chỉ diễn ra một cách đơn
độc bằng sự cố gắng của các lực lượng sản xuất trong nông nghiệp mà còn phụ
thuộc vào một phần quan trọng thậm chí có tính chất quyết định bởi sự phát
triển của toàn bộ lực lượng sản xuất xã hội, của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Tuy nhiên, nhân tố trực tiếp thúc đẩy sự phát triển của nông nghiệp là lực lượng
sản xuất của bản thân nông nghiệp, là sự kết hợp một cách khoa học các yếu tố
cấu thành lực lượng sản xuất trong nông nghiệp như đất đai tư liệu sản xuất cơ

bản trong nông nghiệp, các tư liệu sản xuất khác hiện có trong nông nghiệp và
lực lượng lao động của nông nghiệp với những kỷ năng, kỹ xảo và kinh nghiệm
sản xuất đã tích luỹ được. Sự kết hợp những yếu tố sản xuất đó chỉ đem lại một
lực lượng sản xuất mới khi biết dựa trên những quy luật phát triển đặc thù của
sản xuất nông nghiệp, trong đó nhất thiết phải coi trọng những điều kiện tự
nhiên. Đúng như C.Mác đã chỉ ra rằng khác với các ngành sản xuất khác, nông
nghiệp phụ thuộc tương đối lớn vào điều kiện tự nhiên và chính tự nhiên trong


nông nghiệp nhiều khi đóng vai trò là những lực lượng sản xuất bổ sung cho lực
lượng sản xuất xã hội của con người.
Trước hết, đối tượng của sản xuất nông nghiệp là các sinh vật (cây trồng và
vật nuôi), chúng vận động, phát triển tuân theo các quy luật của giới sinh học.
Là những sinh vật, các đối tượng của sản xuất nông nghiệp gắn bó khăng khít
với môi trường tự nhiên. Gắn bó với những điều kiện thổ nhưỡng, đất đai, khí
hậu, thời tiết… Những điều kiện này hình thành một cách khác nhau tuỳ theo
điều kiện địa lý của từng vùng lãnh thổ. Sự hình thành, sự khác biệt về khí hậu
và về thổ nhưỡng.v.v. đòi hỏi, không thẻ có một mô hình cơ cấu chung cho cả
nước, do đó cần phải có những cơ cấu và phân bố lực lượng sản xuất có sự đa
dạng thích hợp với những điều kiện tự nhiên của từng vùng có tính đến những
sự khác biệt dù nhỏ nhặt. Nước ta có những sự phức tạp đó trong điều kiện tự
nhiên và việc bố trí lực lượng sản xuất trong nông nghiệp phải tính đến nếu
muốn có một hiệu quả sản xuất cao.
Ngày nay, sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học- kỹ thuật hiện đại
trên thế giới không những chỉ thúc đẩy những năng lực sản xuất vĩ đại của con
người trong những công nghệ có hàm lượng kỹ thuậtcao, trong các ngành công
nghiệp và dịch vụ mà còn tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của nông nghiệp.
Cuộc cách mạng đó cũng chứng minh dự đoán thiên tài của Các Mác về những
xu hướng phát triển của lực lượng sản xuất trong nông nghiệp. Với những thành
tự kỳ diệu trong lĩnh vực sinh học, một trong những ngành khoa học được dự

đoán là mũi nhọn của thế kỷ đang tới, sẽ hình thành và phát triển những công
nghệ sinh học hoàn toàn mới trong nông nghiệp, một cuộc cách mạng thực sự
trong sản xuất nông nghiệp đủ thoả mãn nhu cầu ăn của con người văn minh.
Cuộc cách mạng đó cũng đòi hỏi nền nông nghiệp phát triển gắn bó với lân
nghiệp và ngư nghiệp, gắn bó với việc bảo vệ môi trường sống của con người,
một nền nông nghiệp sinh thái. Điều đó hoàn toàn đúng với tư tưởng của C.Mác
về con người vớ tính cách là một chủ thể năng động chinh phục giới tự nhiên
quanh mình, nhưng đồng thời bản thân mình cũng vẫn chỉ là một bộ phận của tự
nhiên, có trách nhiệm với chính giới tự nhiên đã nuôi sống mình.
Trong quá trình khai thác đất đai, tiến hành trồng trọt và chăn nuôi, làm
cho lực lượng sản xuất nông nghiệp ngày càng phát triển cao hơn, giữa những
người lao động trực tiếp tiến hành sản xuất nông nghiệp hay phục vụ cho quá
trình đó trong những ngành kinh tế kế cận tất yếu nảy sinh trong quan hệ với
nhau, những quan hệ sản xuất mà thiếu những quan hệ đó thì quá trình sản xuất
nông nghiệp không thể diễn ra được. Cũng giống như những ngành sản xuất
khác, nông nghiệp cũng phải diễn ra trong quan hệ kép như C.Mác đã mô tả:
quan hệ giữa con người với tự nhiên và quan hệ giữa con người với nhau tức là


các quan hệ sản xuất: "Trong sản xuất, người ta không những chỉ tác đọng vào
giới tự nhiên, mà còn tác động lẫn nhau nữa. Người ta không thể sản xuất được,
nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao
đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải có những mối liên
hệ và quan hệ nhất định với nhau; và sự tác đọng của họ với giới tự nhiên, tức
việc sản xuất, chỉ diễn ra trong khuôn khổ những mối liên hệ và quan hệ xã hội
đó"( 2) .
Sản xuất xã hội không thể phát triển được nếu không có sự phù hợp tương
ứng giữa các hình thức xã hội của sản xuất với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất. Đó là quy luật kinh tế chung của mọi thời đại kinh tế. Thế
nhưng sự phù hợp đó bao giờ cũng chỉ là tương đối bởi vì sự vận động của sản

xuất diễn ra không ngừng. Yêu cầu của quy luật chung đó không thể là một
ngoại lệ đối với sản xuất nông nghiệp cho dù đối tượng của sản xuất nông
nghiệp vận động và phát triển có những đặc thù nhất định. Điều đó cũng có thể
diễn đạt theo một cách khác đó là sự phát triển hợp quy luật của quan hệ sản
xuất trong nông nghiệp là một nhân tố cơ bản để phát triển nông nghiệp.
Song thế nào là sự phát triển hợp quy luật của quan hệ sản xuất trong nông
nghiệp. Đây là một vấn đề hết sức phức tạp và rộng lớn. Tuy nhiên có thể nêu
khái quát thành một số điểm sau:
- Sự vận động và phát triển của các quan hệ sản xuất trong nông nghiệp
phải luôn phù hợp với xu hướng vận động và phát triển của nền sản xuất xã hội,
được biểu hiện cụ thể ra ở sự phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất của xã
hội và trong nông nghiệp.
- Sự vận động hợp quy lậut đó còn đòi hỏi quan hệ sản xuất trong nông
nghiệp phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội và
trong nông nghiệp ở từng giai đoạn nhất định. Dĩ nhiên, đó cũng chỉ là sự phù
hợp mang tính tương đối mà thôi.
- Sự vận động hợp quy luật của quan hệ sản xuất trong nông nghiệp cũng
đòi hỏi có sự phát triển đồng bộ giữa các yếu tố cấu thành chúng, tạo thành một
chính thể thống nhất, một bộ phận nào đó phát triển đi trước thể hiện tính tiên
tiến nhưng các bộ phận khác lại lạc hậu sẽ phá vỡ tính thống nhất, triệt tiêu lẫn
nhau và triệt tiêu luôn cả vai trò động lực của quan hệ sản xuất đối với sự phát
triển của sản xuất.
- Cuối cùng, các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất, bản thân chúng lại
cũng đòi hỏi sự thống nhất giữa nội dung và hình thức được lựa chọn sử dụng.
Đây là vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận hết sức quan trọng. Suy cho
cùng thì các yêu cầu nêu lên trên tuy giữ vị trí quyết định chủ yếu đối với sự vận


động hợp quy lậut của quan hệ sản xuất trong nông nghiệp, thế nhưng việc đáp
ứng các yêu cầu đó đến mức nào lại phụ thuộc và thông qua việc nhận thức và

giải quyết của con người đối với yêu cầu cuối cùng này. Bởi lẽ, quan hệ sản
xuất là một phạm trù kinh tế trừu tượng, chúng pa các mối liên hệ giữa con
người ta với nhau trong quá trình sản xuất. Nhưng cái mà hàng ngày con người
gặp và phải giải quyết lại là các vấn đề cụ thể của từng mặt, từng bộ phận của
quan hệ sản xuất đó. Thông qua việc sử lý chúng mà các mối quan hệ kinh tế
giữa con người ta với nhau được thực hiện.
Để đáp ứng được các yêu cầu trên đây về sự vận động hợp quy luật của
quan hệ sản xuất trong nông nghiệp, đòi hỏi phải nắm vững và vận dụng tốt
phương pháp luận của triết học Mác-Lênin. Ai cũng biết rằng, các lực lượng sản
xuất xã hội luôn vận động và phát triển không ngừng, do đó quan hệ sản xuất
cũng phải biến đổi, thích ứng không ngừng. Điều đó càng đòi hỏi tính tự giác
của con người luôn nhạy bén trong sử dụng các hình thức kinh tế, cái mà thông
qua đó quan hệ sản xuất nói chung, các bộ phận cấu thành nó nói riêng mới có
thể bộc lộ ra bên ngoài và phát huy tác dụng.
Trong mối quan hệ giữa sự vận động của lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất thì quan hệ sản xuất thường có sự lạc hậu tương đối. Nắm vững đặc điểm
này, chúng ta sẽ phát hiện kịp thời các vấn đề mới nảy sinh hoặc các mâu thuẫn
cần giải quyết kịp thời, làm cho quan hệ sản xuất vận động hợp quy luật, thực sự
là một trong những nhân tố cơ bản để phát triển sản xuất.
Sự lạc hậu tương đối của các quan hệ sản xuất đối với các lực lượng sản
xuất; việc các quan hệ sản xuất từ những hình thức thúc đẩy sự phát triển của
các lực lượng sản xuất trở thành những hình thức kìm hãm sự phát triển chúng;
việc phát hiện ra các mâu thuẫn đó trong sự phát triển của nền sản xuất xã hội
không chỉ trong những bước chuyển lịch sử vĩ đại của các thời đại kinh tế, từ
hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác, mà còn trong
cả những bước phát triển nhỏ bé hơn, nhưng xbước phát triển có tính chất bình
thường trong những chu kỳ ngắn ngủi, việc khắc phục những mâu thuẫn thường
xuyên xuất hiện đó làm cho sản xuất tiến lên không ngừng.v.v. Tất cả những cái
đó là quy luật phổ biến của sj phát triển kinh tế trong mọi thời đại, ở tầm vĩ mô
cũng như vi mô, ở mọi ngành kinh tế, kể cả nông nghiệp.

Là một phạm trù lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử, của khoa kinh tế
chính trị Mác-Lênin, quan hệ sản xuất là sự trừu tượng hoá khoa học những
quan hệ kinh tế hiện thực. Không có sự trừu tượng hoá ấy, khoa học không thể
tiến lên được, không thể nhận thức ra được những quy luật vận động kinh tế
khách quan của lịch sử. Tuy nhiên, trong tính hiện thực của lịch sử và cụ thể,
những quan hệ xã hội của con người trong sản xuất là hết sức phong phú và đa


dạng, sự phong phú và đa dạng này phụ thuộc vào những giai đoạn phát triển
của lực lượng sản xuất của loài người, những điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi
một nền kinh tế dân tộc, thậm chí phụ thuộc vào những điều kiện đặc thù của
từng ngành sản xuất xã hội.
Chẳng hạn, khi xem xét các quan hệ sản xuất trong nông nghiệp, vấn đề
quan hệ giữa con người với con người đối với ruộng đất bao giờ cũng nổi bật
lên hàng đầu và tuỳ theo những quan hệ sở hữu và sử dụng các tập đoàn người
đối với ruộng đất mà các thời đại kinh tế trong nông nghiệp được phân biệt một
cách rõ rệt. Đó là vì, khác với trong công nghiệp, ở đó đất đai chỉ là các không
gian cần thiết để quá trình lao động có thể diễn ra, còn trong nông nghiệp, ruộng
đất vừa là tư liệu sản xuất cơ bản, vừa là đối tượng lao động chủ yếu mà không
có nó thì không thể diễn ra bất cứ quá trình phát triển sinh học nào.
Một đặc điểm quan trọng nữa của sản xuất nông nghiệp cần phải nắm vững
là sự phát triển tương đối chậm chạp của các lực lượng sản xuất cũng như quan
hệ sản xuất so với trong công nghiệp; những quan hệ hàng hoá - tiền tệ phát
triển chậm hơn trong công nghiệp. Kinh tế hàng hoá thường phát triển mạnh mẽ
ở thành thì, và chủ nghĩa tư bản thường phát triển trước hết ở thành thị rồi sau
đó mới phát triển trong nông nghiệp. Phải chăng, điều đó là do chính ngay đặc
điểm của sản xuất nông nghiệp là một ngành sản xuất gắn bó khăng khít với quá
trình phát triển của tự nhiên; là cái xu hướng nguyên thuỷ của con người là
trước hết hãy lo thoả mãn cho cái dạ dày của bản thân, là xu hướng tự cấp tự
túc, sản xuất đê tiêu dùng trước đã chứ không phải sản xuất để trao đổi và người

ta chỉ trao đổi cái phần thặng dư mà thôi, và trong một thời gian lịch sử khá dài
cái phần đó trong nông nghiệp thường không lớn lắm.
Thoát ly những vấn đề cơ bản có tính nguyên tắc trên đây rất dễ vấp phải
những sai lầm về nhận thức lý cũng như trong chỉ đạo hoạt động thực tiễn.
Có một thời kỳ dài trước đây, khi xem xét các quan hệ sản xuất cả cảu chủ
nghĩa tư bản lẫn của chủ nghĩa xã hội, người ta thường không chú ý đến tính
thống nhất, đồng bộ và những hình thức biểu hiện đa dạng phong phú của nó
cũng như những yếu tố lịch sử, cụ thể, biến động không ngừng, mà chỉ khuôn
vào từng mặt cơ bản hoặc riêng rẽ trong quan hệ sản xuất là: quan hệ về sở hữu
các tư liệu sản xuất, quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ phân phối
sản phẩm. Chính sai lầm về phương pháp luận này đã dẫn đến một thái độ chủ
quan, tự mãn về tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội, đã dẫn tới sự trì trệ, mất đi
tính nhạy cảm đối với những đòi hỏi phải đổi mới không ngừng những hình thức
cụ thể của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là trong lĩnh vực quản lý
kinh tế.


Từ sau khi phát hiện ra những mặt yếu kém đó trong tư duy lý luận kinh tế,
người ta đã muốn tìm ra những công thức, định nghĩa lại quan hệ sản xuất để
làm cho cách hiểu về quan hệ sản xuất được uyển chuyển, linh hoạt hơn. Song,
cho đến nay, hình như các nhà lý luận chưa thành công trong việc đưa ra một
định nghĩa về quan hệ sản xuất có sức thuyết phục. Phải chăng, ở đây, chúng ta
phải trở lại vấn đề phương pháp luận về mối quan hệ giữa cái chung và cái
riêng. Quan niệm về quan hệ sản xuất với ba mặt cơ bản là sự trừu tượng hoá, là
cái chung cho mọi chế độ kinh tế, cho mọi lĩnh vực kinh tế, quan niệm đó giúp
cho sự phân tích kinh tế những định hướng cơ bản để tìm tòi, phát hiện cái
phong phù, cái sâu sắc của cái chung đó. Tuy nhiên, cái chung bao giờ cũng
biểu hiện ra trong cái riêng, trong vô số những hình thức đa dạng, phong phú, cụ
thể mà nếu công tác lý luận không biết kết hợp cái chung và cái riêng lại với
nhau trong việc phân tích cụ thể một nền kinh tế cụ thể, không bao giờ có thể

tìm ra lời giải đúng cho từng bài toán kinh tế xã hội, giải quyết đúng những mâu
thuẫn trong quá trình phát triển kinh tế- xã hội.
Trước khi xuất hiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, nền nông nghiệp đã
từng biết đến những kiểu quan hệ sản xuất khác tương ứng với những hình thái
kinh tế- xã hội cơ bản đã từng tồn tại trong lịch sử cho đến ngày nay. Theo sự
phát triển khách quan của lịch sử, rồi đây quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa tất
yếu sẽ thay thế những quan hệ sản xuất khác trong nông nghiệp và sẽ là sự phủ
định đối với những quan hệ sản xuất đã từng tồn tại trước nó. Tuy nhiên, đó
không phải là một sự phủ định siêu hình có tính chất hư vô chủ nghĩa. Kinh tế
xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp sẽ biết kế thừa những yếu tố hợp lý của các
quan hệ sản xuất trước đây, những hình thức kinh tế cũ nào đấy có thể tái hiện
với những nội dung mới trong quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Lịch ssr đã từng biết đến nhiệm vụ quan hệ sở hữu ruộng đất và đi liền với
chúng là các quan hệ quản lý và phân phối tương ứng, chúng phản ánh các quan
hệ sản xuất khác nhau trong các hình thái kinh tế xã hội. Đã từng xuất hiện và
tồn tại quan hệ sản xuất dựa trên cơ sở chế độ sở hữu nhỏ của người tiểu nông
và quan hệ giữa họ với nhau hoàn toàn dựa trên cơ sở các quan hệ sản xuất tự
cấp, tự túc hay có trao đổi mua, bán. Cũng đã từng tồn tại quan hệ sản xuất kiểu
đại điền trang, sự cưỡng bước lao động đối với nộ lệ và sự bóc lột lao động nô
lệ một cách siêu kinh tế. Lại cũng đã từng tồn tại quan hệ sản xuất kiểu phong
kiến dựa trên cơ sở chế độ lĩnh canh, phát canh thu tô của vua chúa hay địa chủ
đối với nông dân lĩnh canh. Nhìn chung mối quan hệ sản xuất đó đều gắn với
một lực lượng sản xuất tương ứng nhưng đều hãy còn hết sức thấp kém và lạc
hậu. Do đó, mặc dù có những giai đoạn có những mâu thuẫn, xung đột, xong
cũng tồn tại nhiều giai đoạn mà quan hệ sản xuất có sự vận động phát triển pợh


là một trong những nhân tố cơ bản của sự phát triển sản xuất nông nghiệp. Thế
nhưng xét một cách toàn diện và nhìn sự phát triển của lịch sử nhân loại như
một quá trình tự nhiên thì rõ ràng các quan hệ sản xuất đó là sự kìm hãm sự phát

triển của sản xuất. Điều này bộc lộ khá rõ nét đối với các nước phương Đông,
nơi mà có lúc C.Mác đưa ra một cách diễn đạt chung là các nước thuộc địa.
Phương thức sản xuất Châu Á", nơi các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong
nông nghiệp chưa thể xuất hiện.
Ở phương Tây, chủ nghĩa tư bản ra đời từ các thành thị, chứ không phải từ
nông thôn. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá,
sự xuất hiện của thị trường ngày càng mở rộng, nền nông nghiệp nhỏ, gia
trưởng, tự cấp, tự túc cũng dần dần biến đổi. Sự phân công lao động, sự chuyên
môn hoá các ngành sản xuất cũng bắt đầu diễn ra trong bản thân nông nghiệp.
Tình hình ngành sản xuất nguyên liệu dần dần tách khỏi sản xuất lương thực,
thực phẩm với mục đích sản xuất để trao đổi, xuát hiện ngày càng nhiều. Nghề
thủ công vốn trước đây là nghề phụ của nông dân, lâm vào thời gian "nông
nhàn" và như vậy là chưa tách khỏi nông nghiệp thì nay trở thành một ngành sản
xuất độc lập, sản xuất cho thị trường, không những cho thị trường địa phương
mà còn có thể cho cả các thị trường xa xôi. Công nghiệp chế biến ngày càng
tăng để đáp ứng nhu cầu bảo quản các sản phẩm nông nghiệp từ nay sẽ lưu
thông ngày càng nhiều trên thị trường chứ không còn chỉ tiêu dùng trong gia
đình nông dân như trước. Cùng với quá trình biến đổi của kinh tế nông nghiệp
đó. Sự biến đổi trong cơ cấu dân cư nông thôn, sự phân hoá giai cấp và các tầng
lớp xã hội trong nông dân cũng diễn ra song song, xuất hiện một tầng lớp vô sản
trong nông thôn chỉ có hai bàn tay trắng sẵn sàng bán sức lao động làm thuê
kiếm sống. Tất cả các quá trình kinh tế và xã hội đó là sự chuẩn bị cho sự phát
triển cao của chủ nghĩa tư bản trong nông nghiệp.
Sựpt của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp là tiến bộ
lịch sử so với nền kinh tế tiểu nông gia trưởng. Với những đồn điền và trang trại
tư bản chủ nghĩa, nền sản xuất lớn lại xuất hiện trở lại trong nông nghiệp sau
hàng chục thế kỷ thống trị của nền nông nghiệp nhỏ, lạc hậu và phân tán. Với
sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa, các tiến bộ của các khoa sinh học, hoá học, cơ
khí nông nghiệp.v.v. được áp dụng mạnh mẽ và nhanh chóng, các lực lượng sản
xuất trong nông nghiệp có những bước nhảy vọt mới, tạo ra những năng suất lao

động mới mà nền nông nghiệp nhỏ, phân tán không thể nào có được. Tuy nhiên,
cần phải có ngay một nhận xét là, cho đến nay, ở hầu hết các nước tư bản phát
triển tuy nền nông nghiệp đã trở thành một nền sản xuất lớn nhưng điều đó
không có nghĩa là nền kinh tế tiểu nông đã bị thủ tiêu, không phải tất cả hệ
thống nông nghiệp chỉ là những đồn điền tư bản chủ nghĩa. Trái lại, nền kinh tế


tiểu nông vẫn tồn tại song song cùng với những cơ sở sản xuất tư bản chủ nghĩa
trong nông nghiệp và trở thành một bộ phận của hệ thống nông nghiệp lớn, có
một vai trò xác định trong hệ thống đó. Hơn nữa, khi ta nói đến các cơ sở nông
nghiệp tư bản chủ nghĩa có quy mô lớn, tập trung tư liệu sản xuất và lao động ở
mức cao thì điều đó cũng không có nghĩa là các quy mô nhất loại như nhau. Bên
cạnh quy mô lớn còn có quy mô vừa, thậm chí cả nhỏ nữa.
Có thể cắt nghĩa tình hình này bằng sức sống dai đẳng của kinh tế tiểu
nông, tuy chịu sức ép ghê gớm của cạnh tranh trên thị trường tư bản chủ nghĩa
nhưng vẫn đứng vững được. Nhưng chắc chắn phải thừa nhận một nguyên nhân
về đặc điểm của nông nghiệp mà các nhà kinh điển C.Mác và V.I.Lênin đã nói
đến: trong nông nghiệp, sản xuất lớn chắc chắn là ưu việt hơn sản xuất nhỏ
nhưng không phải lúc nào cũng như vậy. Trong nông nghiệp, do đặc điểm của
một nền sản xuất gắn bó với điều kiện tự nhiên hết sức chặt chẽ, nhiều khi sản
xuất nhỏ lại tỏ ra có lợi hơn so với sản xuất lớn. Việc các nhà tư bản không đầu
tư vào một số ngành nào đó phản ánh đặc điểm có tính quy luật này của sản xuất
nông nghiệp. Hơn nữa, việc các cơ sở kinh doanh tư bản chủ nghĩa trong nông
nghiệp có những quy mô khác nhau, sử dụng những trình độ kỹ thuật khác nhau
cũng không phải là ngẫu nhiên mà có phần nói lên tính tất yếu về mặt kỹ thuật
cảu sản xuất nông nghiệp, mà làm khác đi sẽ ít có hiệu qảu kinh tế. Điều đó gợi
cho chúng ta những suy nghĩ, khi đưa nền kinh tế tiểu nông nước ta lên nông
nghiệp lớn xã hội.
Sự xâm nhập của những quan hệ tư bản chủ nghĩa vào trong nông nghiệp
đã đưa năng suất lao động nông nghiệp lên rất cao. Nếu như trước đây hầu như

toàn thể dân cư của một đất nước phải làm nông nghiệp mới đủ nuôi sống cả
dân tộc, thì ngày nay ở những nước có nền nông nghiệp phát triển chỉ cần một
tỷ lệ nhỏ dân cư làm nông nghiệp. Tuy nhiên, nền nông nghiệp tư bản chủ nghĩa
vẫn có tác dụng kìm hãm làm cho nền nông nghiệp không phát triển đúng với
những khả năng mà cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật có thể cho phép. Tình
trạng phát triển không đều của nền nông nghiệp tư bản chủ nghĩa là điều đập
vào mắt mọi người. Nhìn trên phạm vi toàn thế giới, ta thấy trong hệ thống tư
bản chủ nghĩa, bên cạnh các nước phát triển dư thừa lương thực và dụng lương
thực để đầu cơ về kinh tế và cả chính trị nữa thì còn biết bao nhiêu nước mà nạn
đói thường xuyên đe doạ và hàng năm làm mất đi bao nhiêu sinh mạng con
người. Nhìn trong phạm vi một nước, ngay cả nước phát triển, người ta cũng
thấy những vùng phát triển không đều nhau; các ngành của nông nghiệp cũng
phát triển không đều nhau. Điều đó là do chủ nghĩa tư bản chỉ đầu tư vào đâu có
tỉ suất lợi nhuận cao.


Chế độ kinh doanh tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp, một mặt là quá
trình bóc lột những người lao động nông nghiệp, mặt khác là quá trình bóc lột
đến kiệt quệ chính bản thân đất đai, làm xấu đi môi trường sống của con người.
Chế độ hoàn toàn mâu thuẫn với yêu cầu về một nền nông nghiệp sinh thái,
trong khi lấy từ thiên nhiên những sản phẩm nuôi sống con người thì đồng thời
con người cũng phải giữ sự cân bằng sinh thái, trả lại cho thiên nhiên nguồn
sống và vẻ đẹp của nó, để cho các thế hệ con người sau này được hưởng, tránh
được sự "trả thù" của chính thiên nhiên đối với hành vi vô trách nhiệm của con
người. Với chế độ tư hữu ruộng đất và địa tô tư bản chủ nghĩa, chủ nghĩa tư bản
có xu hướng muốn tận dụng tối đa khả năng của đất đai trong thời gian thuê
đất, việc sử dụng quá mức độ về phân hoá vô cơ và các chất hoá học khác đã
làm giảm độ phì của đất. Cùng với việc bóc lột kiệt quệ đất đai và các hành vi
khác như việc phá rừng… nguy cơ sa mạc hoá trái đất đang đe doạ con người.
Không phải ngẫu nhiên mà ở các nước tư bản chủ nghĩa ngày càng xuất hiện

nhiều hơn các phong trào xã hội, các đảng chính trị lấy mục tiêu bảo vệ môi
trường làm cương lĩnh hoạt động của mình. Những yêu sách của các phong trào
đó là những yêu sách tiến bộ nhưng trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản khó
có thể khắc phục được triệt để các tai hoạ đối với con người do lối kinh doanh
tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp tạo ra.
Sự ra đời của phương thức sản xuất xã hội cbn trong toàn bộ xã hội, sự
xuất hiện những quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp và thay
thế dần các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và các quan hệ do chế độ tư hữu
ruộng đất sinh ra sẽ mở ra cho các lực lượng sản xuất trong nông nghiệp một
bước phát triển cao hơn nữa.
Trên cơ sở tiếp thu, kế thừa một cách có phê phán những thành tựu tiến bộ
của khoa học và kỹ thuật sản xuất, tổ chức và quản lý nền sản xuất mà chủ nghĩa
tư bản để lại, đồng thời phát triển lên một trình độ cao hơn, phát huy tính ưu
việt của các quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, một nền nông nghiệp lớn xã hội
chủ nghĩa sẽ ra đời, khắc phục triệt để những tiêu cực do lề lối kinh doanh tư
bản chủ nghĩa đẻ ra mà cội nguồn của nó là chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa đối
với đất đai, tư liệu sản xuất không thể thay thế trong nông nghiệp.
Như vậy, chúng ta đã phác ra trên những mặt cơ bản quá trình phát triển
của những quan hệ sản xuất trong nông nghiệp tương ứng với lịch sử phát triển
các hình thái kinh tế-xã hội của loài người. Những quan hệ sản xuất nông
nghiệp của hình thái kinh tế-xã hội ra đời sau bao giờ cũng là một bước tiến bộ
lịch sử, đóng vai trò thúc đẩy sự phát triển của các lực lượng sản xuất trong
nông nghiệp lên một trình độ mới. Tuy nhiên, cho đến nay, trong thực tế lịch sử,
sự ra đời của các quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trên cơ sở vừa kế thừa vừa


cải tạo lại tận gốc những quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp
chưa diễn ra một cách điẻn hình lớn. Đó là vì trên thực tế, cách mạng xã hội chủ
nghĩa đã nổ ra và giành được thắng lợi không phải ở những nước tư bản phát
triển mà ở những nước mà chủ nghĩa tư bản phát triển trung bình, thậm chí chưa

phát triển. Ở nước nga, một nước tuy đã là nước đế quốc nhưng vẫn chỉ là một
nước tư bản phát triển trung bình và trong nền nông nghiệp nước Nga, quan hệ
kinh tế tiểu nông vẫn là quan hệ thống trị, còn chủ nghĩa tư bản trong nông
nghiệp chưa đặt đến trình độ phát triển như ở Tây Âu hay Bắc Mỹ. Còn đối với
những nước lạc hậu, trước đây là nửa thuộc địa hay thuộc địa, trải qua thắng lợi
của cách mạng dân tộc dân chủ chuyển sang cách mạng xã hội chủ nghĩa như ở
Việt Nam, điểm xuất phát của nông nghiệp càng thấp hơn nữa. Như vậy, một bài
toán cực kỳ phức tạp được đặt ra: công cuộc xây dựng nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa phải được tiến hành đồng thời cả ở thành thị và cả nông thôn, mà nông
thôn như ở nước ta, thực tế là một biển cả kinh tế tiểu nông, vậy thì các quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp sẽ ra đời như thế nào từ chính nền
kinh tế tiểu nông ấy, bỏ qua hẳng một thời kỳ phát triển của các quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp? Có thể đưa nông dân đi lên chủ nghĩa
xã hội hay không và đi lên như thế nào, bằng cách nào?.
Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin, đặc biệt là V.I.Lênin dã trả lời câu
hỏi này bằng sự khẳng định khả năng chuyển biến kinh tế tiểu nông lên nền
nông nghiệp sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa thông qua con đường của chế độ hợp
tác xã. Theo V.Lênin đó là con người "đơn giản" "đễ dàng" và "dễ tiếp thu nhất"
đối với nông dân để dẫn dắt họ đến chủ nghĩa xã hội. Chế độ hợp tác xã không
hoàn toàn đồng nhất với nội dung của quan hệ sản xuất hay cách mạng về quan
hệ sản xuất. Mô hình tổ chức hợp tác xã còn chứa đựng bên trong nó cả nội
dung của lực lượng sản xuất và các quan hệ kinh tế tổ chức. Tuy nhiên, trong
luận án này chúng tôi tiếp cận con đường của chế độ hợp tác xã hội mà Ph.Ăng
ghen và V.I.Lênin đã nói đến đó với tính cách là con người "đơn giản" và "dễ
dàng" để chuyển biến kinh tế tiểu nông thành nông nghiệp sản xuất lớn xã hội
chủ nghĩa hiện đại.
Nhìn vào thực tiễn chúng ta thấy việc xây dựng nền nông nghiệp xã hội chủ
nghĩa ở một số nước, cũng như ở nước ta, chúng ta thấy bên cạnh một số thành
tựu đạt được cũng có không ít vấp váp. Cho đến nay, nông nghiệp vẫn là mặt
trận còn không ít những khó khăn và chưa thể nói là đã thoát hoàn toàn khỏi

khủng hoảng. Trong tình hình đó khó tránh khỏi có những giao động về lý luận
và đường lối phát triển nông nghiệp. Thái độ nhìn thẳng vào sự thật, tìm tòi
những cách đặt vấn đề mới, đổi mới tư duy lý luận nhất là tư duy kinh tế là cần
thiết để đưa nông nghiệp tiến lên. Nhưng giao động về con đường xã hội chủ


nghĩa trong nông nghiệp, nhân danh đổi mới để xa rời con người mà Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đã vạch ra là sai lầm và nguy hiểm. Chính trong sự phức tạp
của phát triển lý luận và thực tiễn nông nghiệp hiện nay,chúng ta càng cần phải
trở lại, nắm chắc hơn tư tưởng của Ph.Ăng-ghen về cải tạo tiểu nông và tư tưởng
của V.I.Lênin và chế độ hợp tác xã, hiểu một cách sâu sắc, có hệ thống tư tưởng
của các ông. Chúng ta có thể làm được điểu đó là vì chính phải trải qua thực tiễn
thành công và thất bại của phong traomf chúng ta sẽ hiểu đến nơi đến chốn hơn
tư tưởng của cả Ph.Ăng-ghen và V.I.Lênin. Không phải những quan điểm và tư
tưởng của Ph.Ăng-ghen và V.I.Lênin về con đường để cải tạo tiểu nông, về chế
độ hợp tác xã hội không đúng mà là chúngta hiểu chưa đúng và áp dụng sai học
thuyết đó vào những điều kiện lịch sử cụ thể ở nước ta.
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước mà nền nông nghiệp về
cơ bản còn là một nền kinh tế tiểu nông là một khó khăn to lớn. Rõ ràng là nền
kinh tế đó không thể là một cơ sở kinh tế và giai cấp của chủ nghĩa xã hội.
Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội tất nhiên cần phải thay thế nền kinh tế đó
bằng một nền nông nghiệp lớn tổ chức trên những nguyên tắc của chủ nghĩa xã
hội, dựa trên những quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Thế nhưng đối với kinh
tế tiểu nông, Nhà nước chuyên chính vô sản không thể dùng những biện pháp
kinh tế như đã làm trong cải tạo xã hội chủ nghĩa nền công nghiệp lớn, không
thể bằng biện pháp quốc hữu hoá để xoá bỏ kinh tế tiểu nông. Tước đoạt đối với
nông dân là con đường tự sát của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa bởi vì đó là
con đường hảy hoại khối liên minh công nông, cái hạt nhân của đội quân chính
trị đã cho phép giai cấp công nhân giành được chính quyền từ tay giai cấp tư
sản, và cũng cũng chỉ nhờ khối liên minh công nông đó mà giai cấp công nhân
có thể giữ vững chính quyền và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Vả cũng

phải nói ngay rằng cũng nhờ khối liên minh công nông đó mới có thể bảo vệ
được Tổ quốc xã hội chủ nghĩa chống lại các cuộc chiến tranh xâm lược của chủ
nghĩa đế quốc. Con đường đúng đắn để đưa kinh tế tiểu nông và giai cấp nông
dân lên chủ nghĩa xã hội chỉ có thể là một con đường lâu dài, kiên trì thuyết
phục để cho quần chúng nông dân thông qua thực tiễn kinh tế và chính trị tự
mình thấy rõ sự cần thiết phải chuyển lên những hình thức tổ chức kinh tế mới.
Vấn đề này, khi bàn về : "Vấn đề nông dân ở Pháp và Đức"( 9) , Ph.Ăngghen đã có những chỉ dẫn quan trọng. Ông cho rằng, sau khi giành chính quyền,
với tư cách là Nhà nước, giai cấp công nhân phải hướng dẫn, đưa người tiểu
nông vào con đường hợp tác. Điều này càng thêm có ý nghĩa đối với những
nước tiểu nông chiếm đa số trong dân cư. Tuy nhiên, không thể nông nóng mà
phải biết chờ đợi họ, phải để cho người nông dân "suy nghĩ trên luống cày của
họ". Và Ph.Ăng-ghen đã đưa ra hai kết luận quan trọng: "Một là… Chúng ta


thấy trước rằng tiểu nông không tránh khỏi bị tiêu vong, nhưng chúng ta tuyệt
nhiên không có nhiệm vụ làm cho tiểu nông đi đến chỗ tiêu vong" và "hai là,
cũng hiển nhiên rằng khi chúng ta giành được chính quyền, chúng ta sẽ không
thể nghĩ đến dùng bạo lực để tước đoạt nông dân (đủ có hoặc không có bồi
thường cũng vậy)… Nhiệm vụ của chúng ta đối với tiểu nông, trước hết phải là
hướng quyền sở hữu cá nâHà Nội và nền kinh doanh cá thể của họ vào con
đường kinh doanh hợp tác, không phải bằng con đường bạo lực mà là bằng
những tấm gương và bằng sự giúp đỡ của xã hội" ( 10) .
Ở nước Nga, sau cách mạng tháng Mười, một vấn đề lý luận cực kỳ quan
trọng được đặt ra. Đó là vấn đề liệu có khả năng xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội ở riêng một nước Nga tiểu nông trong vòng vây của chủ nghĩa tư bản thế
giới không? Các trào lưu cơ hội chủ nghĩa trong Đảng Cộng sản tỏ rõ thái độ
nghi hoặc, phủ định kinh nghiệm đó. Riêng những người bôn sê vích do
V.I.Lênin đứng đầu đã trả lời một cách khẳng định.
V.I.Lênin đặc biệt tin tưởng một cách khoa học rằng kinh tế tiểu nông có
thể đi lên chủ nghĩa xã hội thông qua con đường của chế độ hợp tác xã. Tổ chức

kinh tế hợp tác xã không phải là một phát minh của chủ nghĩa xã hội, nó đã từng
tồn tại trong xã hội tư sản. Ngay trong bài viết "Những nhiệm vụ trước mắt của
chính quyền Xô Viết" viết năm 1918, khi bàn về vấn đề kiểm kê kiểm soát của
giai cấp công nhân, V.I.Lênin đã đề cập đến kinh nghiệm tổ chức, phổ cập các
"hội tiêu dùng" của chủ nghĩa tư bản, các "hợp tác xã tư sản". Trong xã hội tư
sản, hợp tác xã là một tổ chức kinh tế tư sản, nguyên tắc chi phối hoạt động sản
xuất và phân phối sản phẩm của nó là nguyên tắc kinh tế tư sản. Hợp tác xã tư
sản là sự liên hiệp hay đúng hơn là một hình thức tập trung tư bản, đúng như
V.I.Lênin nói: "Trong một nước tư bản chủ nghĩa, hợp tác xã là những tổ chức
tư bản tập thể"( 38) . Bản chất của các hợp tác xã thay đổi một cách cơ bản khi
chính quyền chuyển sang tay giai cấp công nhân và bắt đầu công cuọoc xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Trong tác phẩm "Bàn về chế đọ hợp tác xã", viết vào
những năm cuối đời, khi đã suy nghĩ và cân nhắc khá kỹ lưỡng và thận trọng
trong việc lựa chọn con đường đưa nước Nga lạc hậu, đưa kinh tế tiểu nông lên
chủ nghĩa xã hội, V.I.Lênin đã chỉ cho chúng ta một con đường đơn giản và để
tiếp thu nhất đối với nông dân là con đường của chế độ hợp tác xã.
Trước hết, V.I.Lênin nhắc nhở mọi người: "Tôi thấy hình như chúng ta
không chú ý đầy đủ đến chế độ hợp tác xã "( 38) . V.I.Lênin đề cập đến các cơ
sở kinh tế và chính trị làm cho các hợp tác xã trở thành có nội dung xã hội chủ
nghĩa: "Thật vậy, chính quyền, giai cấp vô sản liên minh với hàng triệu tiểu
nông và tiểu tiểu nông, giai cấp vô sản nắm vững quyền lãnh đạo nông
dân.v.v… phải chăng đó không phải là tất cả những điều cần thiết để có thể xây


dựng từ chế độ hợp tác xã, và chỉ riêng chế độ hợp tác xã mà trước đây chúng ta
khinh miệt nó vì coi nó là có tính chất con buôn, và giờ đây, dưới chính sách
kinh tế mới, về một vài mặt nào đó, chúng ta có quyền coi như thế- phải chăng
đó không phải là tất cả những điều cần thiết để xây dựng chủ nghĩa xã hội trọn
vẹn hay sao?"( 38) . Ngay đối với cái gọi là "tính chất con buôn" của các hợp
tác xã, V.I.Lênin cũng có những chỉ dẫn quan trọng. V.I.Lênin cho rằng, với các

hợp tác xã: "Chúng ta đã tìm ra được mức độ kết hợp lợi ích tư nhân, lợi ích
thương nghiệp tư nhân với việc Nhà nước kiểm soát và kiểm tra lợi ích đó, mức
độ làm cho lợi ích tư nhân phục tùng lợi ích chung, điều mà trước đây là nan
giải với rất nhiều người xã hội chủ nghĩa"( 38) . V.I.Lênin còn đề cập đến văn
hoá của thương nghiệp hợp tác xã xã hội chủ nghĩa: "Hiện nay, toàn bộ vấn đề
là phải biết kết hợp cài đà cách mạng, cái nhiệt tình cách mạng đã được chúng ta
biểu lộ và biểu lộ đầy đủ và đã đạt đến kết quả hoàn toàn- là phải biết kết hợp
cái đó với bản lĩnh của một thương nhân thông minh và có học, cái bản lĩnh đó
hoàn toàn đủ để thành một người công tác hợp tác xã giỏi"( 38) . V.I.Lênin đã
kết luận rằng: "Khi các tư liệu sản xuất đã thuộc về xã hội, khi giai cấp vô sản,
với tư cách là giai cấp đã thắng giai cấp tư sản- thì chế độ của những hợp tác xã
văn minh là chế độ xã hội chủ nghĩa" ( 38) rằng chế độ hợp tác xã là "con
đường đơn giản nhất, dễ dàng nhất, dễ tiếp thu nhất, đối với nông dân"( 38)
rằng do đặc điểm của chế độ chính trị Xô Viết mà "chế độ hợp tác xã là hoàn
toàn đồng nhất với chủ nghĩa xã hội" ( 38) và "nếu chúng ta tổ chức được toàn
thể nông dân vào hợp tác xã thì chúng ta đứng vững được hai chân trên miếng
đất xã hội chủ nghĩa"( 38) .
Như vậy là, sự thắng lợi của chế độ hợp tác xã trong nông nghiệp cũng là
cơ sở cho sự ra đời và thống trị của các quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong
nông nghiệp, là một bước quan trọng sự chiến thắng của con đường xã hội chủ
nghĩa đối với con đường tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp. Trong những điều
kiện kinh tế và chính trị đã thay đổi, hợp tác xã không còn là sự liên hiệp của tư
bản nữa mà là sự liên hiệp của những người lao động nông nghiệp. Có thể rằng,
trong giai đoạn đầu và ở những hình thức thấp, nguyên tắc phân phối theo tỷ lệ
tài sản đóng góp vào hợp tác xã còn có một vai trò nhất định. Tuy nhiên, cái
nguyên tắc chi phối hoạt động của hợp tác xã là nguyên tắc phân phối theo lao
động, là sự xoá bỏ từng bước vững chắc các tàn dư của chế độ người bóc lột
người. Điều này càng biểu hiện rõ rệt trong giai đoạn sau và ở những thức cao
của chế độ hợp tác xã.
Theo V.I.Lênin, chế độ thx với tính cách là con đường quá độ để đưa

người tiểu nông lên chủ nghĩa xã hội nhất thiết phải quán triệt nguyên tắc tự
nguyện trong toàn bộ quá trình vận động của nó một cách nghiêm túc, nhất


quán, không có bất cứ một sự cưỡng ép, mệnh lệnh hành chính nào. Con đường
xây dựng hợp tác xã nông nghiệp bằng các biện pháp hành chính, quan liêu, dội
từ cấp trên xuống là sự phá hoại chế độ hợp tác xã từ bên trong. Các hợp tác xã
có thể được thành lập nên nhanh chóng, theo chỉ tiêu quy định sẵn, được hoạch
định một cách tập trung từ bên trên, nhưng các hợp tác xã đã được lập ra kiểu đó
khó có thể được củng cố vững mạnh, thậm chí những mầm mống tan rã của
chúng đã bắt đầu được tích luỹ lại chờ dịp để phá bung ra mà thôi. Ngày nay,
dưới ánh sáng của tổng kết thực tiễn phong phú của quá trình xây dựng các hợp
tác xã ở nước ta và trên thế giới chúng ta càng hiểu sâu sắc hơn rất nhiều tư
tưởng của V.I.Lênin về nguyên tắc tự nguyện.
Nguyên tắc tự nguyện không chỉ được đặt ra khi vận động nông dân tập
trung tư liệu sản xuất, gia nhập hợp tác xã. Nguyên tắc tự nguyện phải được
quán triệt trong mọi bước, mọi khâu của quá trình phát triển của chế độ hợp tác
xã. Gia nhập hay chưa gia nhập hợp tác xã, điều đó phải để nông dân bàn bạc,
suy nghĩ và tự quyết định đã đành, nhưng ở tất cả c c bước, các khâu khác của
quá trình vận động: lựa chọn hình thức, hợp tác xã, trình tự phát triển, quy mô
to hay nhỏ, cơ cấu ngành nghề, cơ chế quản lý.v.v. cũng phải để nông dân tự
nguyện, bàn bạc và quyết định. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sự giúp đỡ
của Nhà nước có ảnh hưởng quan trọng đến sự lựa chọn đó, không thể để nông
dân tự phát mò mẫm; tuy nhiên, không thể nôn nóng, mệnh lệnhh, làm thay và
áp đặt, vi phạm nguyên tắc tự nguyện. Ở đây chúng ta thấy đằng sau nguyên tắc
tự nguyện là sự vận động của các quy luật kinh tế khách quan. Tự nguyện là một
phạm trù thuộc về tâm lý, ý thức, nó chi phối hành vi của con người. Việc tuân
thủ nguyên tắc tự nguyện trong quá trình phát triển của các hình thức kinh tế
nông nghiệp đi từ kinh tế tiểu nông lên nền nông nghiệp lớn xã hội chủ nghĩa,
việc quần chúng nông dân chấp nhận hình thức tổ chức và quản lý sản xuất,

phân phối sản phẩm này hay khác nói lên tính quy luật kinh tế khách quan. Sự
đồng tính hay phản đối, hưởng ứng hay bác bỏ trong ý thức của quần chúng
nông dân đối với hình thức kinh tế này hay hình thức kinh tế khác trong đa số
trường hợp nói lên sự phát triển kinh tế đã đến lúc cần thiết hay chưa cần thiết
phải thay thế hình thức kinh tế này đã lỗi thời trở ngại cho sản xuất bằng những
hình thức kinh tế khác mới mẻ, thúc đẩy sản xuất phát triển. Cái động lực kinh
tế biến thành nhận thức của con người, thành động cơ thúc đẩy hành động là các
lợi ích kinh tế. Một sự lãnh đạo, quản lý khôn ngoan là phải bám sát, phát hiện
những suy nghĩ và nguyện vọng của quần chúng, về kinh tế phát hiện ra một
cách nhạy bén và đúng đắn các yêu cầu khách quan; ủng hộ, tạo điều kiện cho
cái mới chóng ra đời, đồng thời hướng dẫn, uốn nắm những xu hướng lệch lạc
tiêu cực, lỗi thời. Đây chính là quá trình đổi mới không ngừng tư duy kinh tế


của Đảng một cách đúng đắn dựa trên cơ sở thực tiễn kinh tế, tránh rơi vào con
đường chủ quan, duy ý chí trong chính sách nông nghiệp.
Từ những quan điểm trên đây của V.I.Lênin về chế độ hợp tác xã có thể
thấy rằng chế độ đó tất yếu phải chưa đứng rất nhiều hình thức kinh tế hết sức
đa dạng, phong phú, không những giữa các dân tộc mà ngay trong một quá trình
dân tộc. Việc xây dựng chế độ hợp tác xã không phải chỉ tiến hành trong một
thời gian ngắn vài năm, bằng cách đưa nông dân vào hợp tác xã nông nghiệp,
công hữu hoá các tư liệu sản xuất cơ bản coi như thể là đã chuyển xong kinh tế
tiểu nông thành kinh tế tập thể, sự phát triển tiếp theo chỉ là củng cố, hoàn thiện
quan hệ kinh tế tập thể, làm cho người nông dân từ chỗ làm ăn cá thể quen dần
với lề thói làm ăn tập thể và trên cái cơ sở kinh tế tập thể đó các lực lượng sản
xuất trong nông nghiệp sẽ phát triển mạnh mẽ. Có một thời gian tương đối dài
chúng ta đã suy nghĩ và làm như vậy, đã đồng nhất chế độ tác xã với công cuộc
tập thể hoá nông nghiệp.
Thế nhưng, nếu chúng ta nghiên cứu kỹ những tư tưởng của V.I.Lênin về
chế độ hợp tác xã thì chúng ta thấy V.I.Lênin nói rất nhiều đến những hình thức

thấp của chế độ hợp tác xã, nói đến những "hội tiêu dùng" mà Nhà nước chuyên
chính vô sản phải tìm cách đưa tất cả dân cư vào các hợp tác xã. Như vậy là
V.I.Lênin trong những bước đầu trên của thời kỳ quân đội, của việc thực hiện
chính sách kinh tế mới, rất chú ý đến việc tổ chức các hình thức hợp tác trong
lĩnh vực lưu thông. Theo V.I.Lênin, quá trình hình thành và phát triển của chế
độ hợp tác xã dưới nền chuyên chính vô sản chiếm một thời gian lịch sử không
ngắn, thông qua những hình thức kinh tế trung gian quân đội, đi từ thấp đến cao,
từ lĩnh vực lưu thông đến lĩnh vựci sản xuất và ngay trong từng lĩnh vực cũng đi
từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp theo tinh thần "bắc những nhịp cầu
nho nhỏ để đưa nông dân lên chủ nghĩa xã hội". Nhà nước chuyên chinh vô sản
cần thiết lập những mối liên hệ phong phú, đa dạng giữa thành thị và nông
thôn, công nghiệp với nông nghiệp, củng cố liên minh công nông về mặt kinh tế.
Trước hết, cần giúp nông dân tổ chức những hình thức hợp tác trong lĩnh vực
lưu thông ở khâu trước và sau quá trình sản xuất, trong đó các khâu tín dụng,
cung ứng vật tư, dịch vụ và tiêu thụ sản phẩm có ý nghĩa hàng đầu. Sau đó, cần
giúp đỡ nông dân tiến lên các hình thức hợp tác trong lĩnh vực sản xuất với
những hình thức đa dạng phong phú thích hợp với từng vùng lãnh thổ, từng
ngành sản xuất đi từ những liên kết kinh tế đơn giản đến phức tạp hơn, với các
quy mô kinh tế thích hợp với yêu cầu sản xuất và khả năng quản lý, quá trình
phát triển đó của các hình thức của chế độ hợp tác xã cũng là quá trình tổ chức
lại sản xuất, phân công lại lao động trong sản xuất nông nghiệp mà các biến đổi
tiêu biểu của nó là từ nền kinh tế tiểu nông gia trưởng, tự cấp tự túc với năng


suất lao động thấp, xuất hiện sự chuyên môn hoá các nghề nghiệp, các quá trình
lưu thông và chế biến sản phẩm như các hoạt động tín dụng, thương nghiệp và
tiểu thủ công nghiệp được tách khỏi hệ nông dân thành những hoạt động độc
lập. Chính trong quá trình kinh tế đó mà từ các hệ nông dân sẽ nảy sinh nhu cầu
liên hiệp lại trong sản xuất dưới nhiều hình thức từ bộ phận đến toàn bộ, từ
phạm vi hẹp đến phạm vi rộng, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn…

Không còn nghi ngờ gì nữa, chế độ hợp tác xã theo tư tưởng của V.I.Lênin
sẽ đưa kinh tế tiểu nông lên kinh tế nông nghiệp lớn xã hội chủ nghĩa. Không
một phút nào được giao động cái định hướng xã hội chủ nghĩa đó. Không nền vì
một số khó khăn, vấp váp mà quay lại phủ định nền kinh tế tập thể, tuyệt đối
hoá một chiều, khuyến khích và thả nổi nền kinh tế tiểu nông. Cần chú ý tới một
đặc điểm lớn là con đường từ kinh tế tiểu nông lên chủ nghĩa xã hội là một con
đường tương đối lâu dài. Trên con đường đó, "Chúng ta phải hiểu những đường
lối, thể thức, thủ đoạn và phương cách trung gian cân thiết để chuyển từ những
quan hệ tiểu tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội. Đó là mấu chốt của vấn đề"(
38) . Một nước mà đi lên chủ nghĩa xã hội từ một điểm xuất phát càng thấp như
nước ta thì thời gian quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong toàn bộ nền kinh tế nói
chung cũng như trong nông nghiệp nói riêng càng phải dài, càng phải qua nhiều
bước quá độ nhỏ, với những hình thức kinh tế trung gian kế tiếp và đan xen vào
nhau. Rời bỏ cái nhận thức lý luận cơ bản đó, chúng ta sẽ lập tức rơi vào bệnh
chủ quan duy ý chí, sẽ gặp nhiều khó khăn, vấp váp và cuối cùng càng làm cho
thời gian xây dựng chủ nghĩa xã hội càng dài hơn và khó khăn hơn.
I.2. Quá trình phát triển của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong
nông nghiệp nước ta và việc điều chỉnh quan hệ sản xuất nông nghiệp hiện
nay
Sau thắng lợi của cách mạng dân tộc, dân chủ, nước ta quá độ lên chủ
nghĩa xã hội từ một nền kinh tế lạc hậu- một nền nông nghiệp sản xuất nhỏ, kỹ
thuật canh tác lạc hậu, năng xuất lao động hết sức thấp kém, tự cấp, tự túc. lịch
sử đã để lại cho chúng ta một giai cấp nông dân cần cù, có kinh nghiệm sản xuất
phong phú, yêu nước và rất anh hùng, một lòng tin theo Đảng. Song, mặt khá họ
cũng là sản phẩm của nền sản xuất nhỏ với đầy đủ những đặc trưng của người
tiểu nông, hơn nữa, còn là người tiểu nông gắn liền với cái mà C.Mác gọi là
"phương thức sản xuất châu Á".
Xuất phát từ những điều kiện lịch sử đó, thuấm nhuần những ttcủa chủ
nghĩa Mác-Lênin về con đường đưa kinh tế tiểu nông lên chủ nghĩa xã hội, ngay
từ đầu đảng ra đã khẳng định: "Kinh tế nước ta căn bản là kinh tế nông nghiệp.

Chúng ta phải lấy hợp tác xã nông nghiệp làm khâu chính đẻ thúc đẩy toàn bộ
công cuộc cải toạ xã hội chủ nghĩa" ( 127) .


Theo định hướng đó, hơn ba thập kỷ qua nền kinh tế tiểu nông nước ta đã
được cải tạo theo chủ nghĩa xã hội, đưa nôn giáo dụcân vào các hình thức của
chế độ hợp tác xã. Đó cũng là một quá trình hình thành, phát triển đầy biến động
và phức tạp của quan hệ sản xuất mới trong nông nghiệp và của chế độ hợp tác
xã ở nông thôn nước ta.
Từ những bước thăng trầm của chế độ hợp tác xã ở nước ta, cùng với
những diễn biến phức tạp, khủng hoảng của nền kinh tế ở một số nước xã hội
chủ nghĩa (trong đó có vấn đề nông nghiệp), mấy năm lại đây người ta bàn luận
nhiều đến chế độ hợp tác xã. Cùng một hiện tượng đó, nhưng dường như đã
hình thành hai cách giải thích: hoặc cho là con đường của chế độ hợp tác xã là
sai lầm, là trái quy luật, đi ngược lại bản chất và sức sống của kinh tế tiểu nông;
hoặci là con đường đó là đúng về phương hướng cơ bản nhưng áp dụng vào thực
tiễn sai về hình thức và bước đi và chính những sai lầm này nói lên rằng, quá
trình hợp tác hoá về những hình thức và bước đi như ở nước ta không phù hợp
với những yêu cầu của quy luật khách quan của quan hệ sản xuất trong nông
nghiệp, đồng thời cũng trở thành nguyên nhân của sự trì trệ, suy thoái và khủng
hoảng của nông nghiệp nước ta.
Cần phải có sự đánh giá tình hình phát triển của quan hệ sản xuất trong
nông nghiệp nước ta thông qau sự vận động và phát triển của phong trào hợp
tác hoá trên cơ sở của tư duy lý luận mới dưới ánh sáng của những nhận thức
đúng đắn những tư tưởng của Ph.Ăng-ghen và V.I.Lênin về con đường cải tạo
kinh tế tiểu nông, dẫn dắt nông dân đến chủ nghĩa xã hội thông qua chế độ hợp
tác xã. Qua đó, xác định đúng những phương hướng cơ bản cũng như những
hình thức và bước đi mới trong quá trình điều chỉnh quan hệ sản xuất trong
nông nghiệp hiện nay.
Để giúp cho sự đánh giá thuận lợi, cần thiết phải có sự phân chia quá trình

phát triển của chế độ hợp tác xã ở nước ta, theo chúng tôi có thể phân thành hai
giai đoạn lớn. Dĩ nhiên sự phân chia đó cũng chỉ mang tính tương đối về mặt
thời gian.
Giai đoạn thứ nhất: từ giữa những năm 50 đến khoảng cuối thập kỷ 70.
Giai đoạn hình thành và phát triển của chế độ hợp tác xã trong nông nghiệp với
những đặc trưng nổi bật là quá trình hợp tác hoá cũng đồng thời là quá trình tập
thể hoá nhanh chóng, có nhiều biến động; sự khẳng định vai trò quan tọng của
các hợp tác xã trong những năm chiến tranh chống Mỹ cứu nước; sự bộc lộ rõ
ràng những trì trệ, suy thoái và khủng hoảng của nông nghiệp hợp tác hoá sau8
chiến tranh và yêu cầu khách quan phải có sự điều chỉnh quan hệ sản xuất trong
nông nghiệp.


Giai đoạn thứ hai từ khoảng cuối những năm 70, đầu những năm 80 cho
đến nay. Đặc trưng cơ bản của giai đoạn này là diễn ra sự điều chỉnh lớn các
quan hệ sản xuất trong nông nghiệp và theo đó, sự vận động và phát triển của
chế độ hợp tác xã có những hình thức và bước đi mới; bước đầu đem lại những
kết quả đáng khích lệ trong phát triển sản xuất cải thiện đời sống người lao
động. Nhưng khái quát và cắt nghĩa sự điều chỉnh đó như thế nào và dự báo
đường hướng của sự phát triển sắp tới còn có những ý kiến khác nhau.
Về giai đoạn thư nhất:
Ở miền Bắc, sau khi hoàn thành cải cách ruộng đất một thời gian không
lâu, chúng ta đã chủ trương đưa nhanh nông dân vào con đường tập thể hoá, xây
dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nông thôn. Về nhận thức lý luận,
chúng ta đã đồng nhất hợp tác háo và tập thể hoá, cho nên tư tưởng chỉ đạo của
chúng ta là cần chuyển từ quan hệ sản xuất dựa trên chế độ sở hữu người nông
dân do kết quả cải cách ruộng đất đem lại, sang chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa
bằng con đường hợp tác hoá dưới hình thức kinh tế tập thể.
Trước sau, Đảng ta vẫn trung thành với những nguyên lý của chủ nghĩa
Mác-Lênin về con đường dẫn đắt nông dân đến chủ nghĩa xã hội bằng chế độ

hợp tác, thông qua hợp tác hoá để xây dựng quan hệ sản xuất mới ở nông thôn.
Đồng thời, chúng ta đã có sự vận dụng sáng tạo nhất định những nguyên lý đó
vào thực tiễn Việt Nam, thể hiện ở một số hình thức và bước đi, sự bổ sung phát
triển nội dung nguyên tắc tự nguyện… phong trào đổi công, vần công- một hình
thức thấp của sự hiệp tác- việc tổ chức các tổ đoàn kết sản xuất, tập đoàn sản
xuất nông nghiệp, hợp tác xã bậc thấp; việc đưa vào thực tiễn nguyên tắc tự
nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ- là những biểu hiện cụ thể của sự vận
dụng sáng tạo đó. Song, chúng ta đã chưa nhận thức thật đúng đắn và đầy đủ
những quan điểm của Ph.Ăng-ghen về việc cải tạo tiểu nông, nhất là những tư
tưởng của V.I.Lênin về chế độ hợp tác xã với tính cách là hình thức cụ thể, là
con đường "đơn giản" và "để tiếp thu nhất" đối với nông dân trong tổ chức thực
tiễn. Trong một thời gian dài chúng ta đã làm mất đi những hình thức phong
phú, đa dạng của nấc thang trung gian, quá độ của chế độ hợp tác xã tiến hành
tập thể hoá một cách máy móc, triệt để các tư liệu sản xuất va lao động nông
nghiệp. Chúng ta đã coi mức độ cao hay thấp của việc tập thể hoá các tư liệu
sản xuất, tập thể hoá lao động và quy mô hợp tác xã như những tiêu chuẩn cơ
bản để đánh giá mức độ cao thấp về tính chất xã hội chủ nghĩa của các hợp tác
xã đó, cũng như mức độ hoàn thành hợp tác hoá. Do đó, quá trình hợp tác hóa ở
nước ta thực chất chỉ là quá trình tập thể hoá một cách đơn giản. Đây là cơ sở
sâu sắc đưa đến những chủ trương và hành động trái với yêu cầu quy luật khách
quan, biểu hiện sự nong vội, chủ quan, duy ý chí.


×