Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Khóa luận nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên đại học quốc gia hà nội trong thời đại cách mạng công nghiệp 4 0

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (740.45 KB, 75 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN
KHOA TRIẾT HỌC
-----------------------

NGUYỄN THỊ LINH

NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG MỀM
CHO SINH VIÊN ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRONG
THỜI ĐẠI CÁCH MẠNG CƠNG NGHIỆP 4.0

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa: QH – 2015 – X

Ngƣời hƣớng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Anh Tuấn

Hà Nội, 2020


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
CHƢƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CUỘC CÁCH MẠNG
CÔNG NGHIỆP 4.0 VÀ VIỆC NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG GIÁO DỤC
KỸ NĂNG MỀM CHO SINH VIÊN ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI .......... 8
1.1. Cách mạng công nghiệp 4.0 .......................................................................... 8
1.2. Sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội ........................................................... 15
1.3. Việc giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội ..... 24
Tiểu kết chƣơng 1:.............................................................................................. 41
CHƢƠNG II. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CỦA VIỆC GIÁO DỤC KỸ NĂNG MỀM CHO SINH VIÊN ĐẠI HỌC


QUỐC GIA HÀ NỘI TRONG THỜI ĐẠI CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP
4.0 ......................................................................................................................... 42
2.1. Thực trạng việc học tập kỹ năng mềm của sinh viên Đại học Quốc gia
Hà Nội trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0. ......................................... 42
2.2. Những vấn đề đặt ra đối với việc nâng cao chất lƣợng giáo dục kỹ năng
mềm cho sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội trong thời đại công nghiệp 4.0.
.............................................................................................................................. 50
2.3. Giải pháp nâng cao kỹ năng mềm cho sinh viên Đại học Quốc gia Hà
Nội trong thời đại công nghiệp 4.0.................................................................... 52
Tiểu kết chƣơng II: ............................................................................................ 57
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 58
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 61
PHỤ LỤC ............................................................................................................ 63


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, thế giới đang trong giai đoạn của cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ tư (cách mạng công nghiệp 4.0). Nếu như trong cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ nhất bắt đầu vào khoảng năm 1784 với việc sử dụng năng lượng
nước và hơi nước để cơ giới hóa sản xuất thì cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ hai sử dụng điện năng để tạo ra sản xuất đại trà. Cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ ba sử dụng các thiết bị điện tử và cơng nghệ thơng tin để tự động
hóa sản xuất. Giờ đây nhân loại đang bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ tư, được xây dựng trên cuộc cách mạng cơng nghiệp lần thứ ba, đó là cuộc
cách mạng kỹ thuật số đã được xuất hiện từ giữa thế kỷ trước với sự xuất hiện hệ
thống quản lý ảo, là sự hợp nhất các công nghệ làm mờ đi ranh giới giữa các lĩnh
vực vật lý, kỹ thuật số và sinh học. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang
ảnh hưởng trực tiếp đến tất cả các lĩnh vực trong đời sống, đặc biệt là môi trường
giáo dục - nơi trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực trực tiếp phục vụ cho cơng

nghiệp hóa hiện đại hóa. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 mang lại nhiều cơ hội
cũng như những thách thức không hề nhỏ đối với sinh viên với tư cách là đội
ngũ tri thức là lực lượng chính trong cuộc cách mạng này. Nhận thấy được việc
trang bị những kỹ năng mềm cho sinh viên là điều vô cùng cần thiết và quan
trọng trong thời kỳ cách mạng cơng nghiệp 4.0 để sinh viên có thể theo kịp cũng
như thích ứng với những biến đổi vơ cùng mạnh mẽ của nó, để thực sự trở thành
đội ngũ tri thức đóng vai trị như lực lượng sản xuất chính của xã hội có đầy đủ
kỹ năng, phẩm chất để có thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của xã hội.
Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế
thế giới với việc hoàn tất nhiều hiệp định thương mại tự do quy mô lớn như TPP,
FTA với EU, Liên minh kinh tế Á - Âu...., việc áp dụng những thành tựu cách
mạng sản xuất mới sẽ tạo ra công cụ đắc lực giúp Việt Nam tham gia hiệu quả
chuỗi giá trị tồn cầu và đẩy nhanh q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Những cải cách cơng nghệ mang tính đột phá của cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0 đem đến những kỳ diệu trong sản xuất và năng suất lao động sẽ tăng.
1


Nó cũng tạo nên sự thay đổi trong cung - cầu lao động trên thế giới nói chung và
Việt Nam nói riêng. Nền kinh tế với việc tự động hóa sẽ cao địi hỏi người lao
động phải thích ứng nhanh với sự thay đổi của sản xuất nếu không sẽ bị dư thừa.
Thị trường lao động khơng chỉ địi hỏi sinh viên có trình độ chun mơn cao, mà
cần phải có ngoại ngữ cũng như kỹ năng mềm để có thể hội nhập, cạnh tranh
trên thị trường lao động thế giới, cũng như Việt Nam. Có thể nói hiện nay phần
lớn sinh viên tốt nghiệp đều được trang bị những kiến thức chuyên môn phù hợp
với ngành nghề mà họ đang lựa chọn. Tuy nhiên các kỹ năng mềm như kỹ năng
giao tiếp, làm việc nhóm, giải quyết vẫn đề, tìm kiếm thơng tin,... của sinh viên
cịn rất hạn chế. Nhận thấy việc trang bị cho sinh viên những kỹ năng mềm cần
thiết là điều vô cùng quan trong, giúp sinh viên có thể ứng phó với những thay
đổi của thị trường lao động.

Như vậy, thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 mang lại nhiều cơ hội những
như thách thức cho kinh tế Việt Nam và giáo dục nói riêng đặc biệt trong lĩnh
vực giáo dục Đại học. Sinh viên Đại học cần thay đổi từ tư duy nhận thức đến
hành động để thích nghi với mơi trường ngày càng có nhiều biến động và phát
triển khơng ngừng hiện nay. Để làm được vậy ,sinh viên không chỉ cần trang bị
những kỹ năng cứng (những vấn đề thuộc về chuyên môn) mà cần trang bị
những kỹ năng nghề nghiệp, kỹ năng mềm cần thiết.
Xuất phát từ những vấn đề lí luận và thực tiễn trên, tôi chọn vấn đề “Nâng
cao chất lượng giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội
trong thời đại cách mạng cơng nghiệp 4.0” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp

ngành triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề về giáo dục đang là chủ đề nóng đã được nghiên cứu rất nhiều hiện
nay, đặc biệt về việc nghiên cứu vai trò, tầm quan trọng của kỹ năng mềm. Trong
thời đại cách mạng cơng nghiệp 4.0 thì vấn đề về giáo dục đang đứng trước
những cơ hội và thách thức khơng hề nhỏ. Đã có nhiều cuộc hội thảo cũng như
những cơng trình nghiên cứu khoa học đề cập tới vấn đề này.
Thứ nhất, những cơng trình nghiên cứu về cuộc cách mạng công nghiệp
4.0 :
2


Cuốn sách Cách mạng công nghiệp lần thứ tư của Klaus Schwab. Trong
cuốn sách của mình, GS Klaus Schwab nhấn mạnh, những cuộc cách mạng công
nghiệp trước đây đã giải phóng con người khỏi sức mạnh của lồi vật, tạo ra sản
xuất hàng loạt và mang lại sức mạnh kỹ thuật số cho hàng tỷ người. Tuy nhiên,
Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư khác biệt về bản chất. Cuộc cách mạng này
được hình thành bằng loạt cơng nghệ mới kết nối các thế giới vật chất, kỹ thuật
số và sinh học, tác động đến tất cả mọi quy luật, nền kinh tế, ngành cơng nghiệp,

và thậm chí thách thức cả định nghĩa về nhân loại.
Báo cáo tổng hợp Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư một số đăc
trưng, tác động và hàm ý chính sách đối với Việt Nam do một nhóm nghiên cứu
thuộc Trung tâm Phân tích và Dự báo, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam
xây dựng dưới sự chỉ đạo trực tiếp của GS.TS. Nguyễn Quang Thuấn, Chủ tịch
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam. Nhóm nghiên cứu bao gồm
TS.Nguyễn Thắng (Trưởng nhóm), TS. La Hải Anh, Ths. Nguyễn Thu Hương,
Ths. Phạm Minh Thái, Ths. Nguyễn Thị Kim Thái và Nguyễn Thị Vân Hà. Báo
cáo nêu lên được đặc trưng của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, tác động của
cuộc cách mạng công nghiệp tới phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam từ đó nêu ra
được một số kiến nghị, chính sách phát triển kinh tế- xã hội trong bối cảnh cách
mạng công nghiệp 4.0.
Cuốn Cách mạng công nghiệp lần thứ tư- Cuộc cách mạng của sự hội tụ và
tiết kiệm của TSKH Phan Xuân Dũng. Tác giả nêu lên lịch sử dẫn đến cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0 từ đó nêu lên đặc trưng của cuộc cách mạng công nghiệp.
Cuốn sách Hướng nghiệp 4.0 của Ths. Vũ Tuấn Anh và Ths. Đào Trung
Thành. Cuốn sách định hướng nghề nghiệp theo năng lực và đam mê của mỗi
người. Nếu muốn không bị đào thải, chắc chắn cuốn sách này sẽ là kim chỉ nam
cho hiện tại và tương lai của bạn trong thời đại công nghệ 4.0.
Cuốn sách Cách mạng công nghiệp 4.0- Vấn đề đặt ra cho phát triển kinh
tế-xã hội và hội nhập quốc tế Việt Nam của PGS.TS. Trần Thị Vân Hoa. Cuốn
sách trình bày những vấn đề cơ bản nhất về lịch sử ra đời của các cuộc cách
mạng công nghiệp, đặc biệt là cách mạng công nghiệp 4.0; các xu hướng công
nghệ của cách mạng cơng nghiệp 4.0; những tác động và chính sách ứng phó với
3


cách mạng công nghiệp 4.0; những cơ hội, thách thức và yêu cầu đặt ra của cách
mạng công nghiệp 4.0 đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, phân
tích mức độ sẵn sàng của Việt Nam trong đáp ứng các yêu cầu của cách mạng

công nghiệp 4.0 và nêu rõ những điểm phù hợp, nguyên nhân. Từ những phân
tích thực trạng tác động của cách mạng cơng nghiệp 4.0, nhóm tác giả đã mạnh
dạn đưa ra phương hướng, giải pháp xây dựng và phát triển năng lực đổi mới
sáng tạo phù hợp để tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức của cách mạng công
nghiệp 4.0 ở Việt Nam trong thời gian tới.
Một số nghiên cứu trên các tạp chí khoa học như : Tác động của cuộc cách
mạng 4.0 tới giáo dục của Việt Nam của ThS. Trần Mạnh Hùng trên Tạp chí
Cơng thương Tháng 7/2017 tác giả nêu lên khái quát về cuộc cách mạng cơng
nghiệp 4.0; lực lượng lao động trước địi hỏi của cuộc cách mạng 4.0; tác động
của cuộc cách mạng 4.0 tới giáo dục của Việt Nam. Cách mang công nghiệp lần
thứ 4 của PGS.TS Phạm Viết Thảo trong tạp chí Lý luận Chính trị 5/2017 đã nêu
lên lịch sử phát triển dẫn đến cách mạng công nghiệp 4.0 và những đặc điểm
chính của cuộc cách mạng này. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và những vấn
đề đặt ra đối với hệ thống giáo dục nghề nghiệp của TS. Nguyễn Hồng Minh trên
Tạp chí Lao động và Xã hội, số tháng 2/2017 đã nêu lên những vấn đề đặt ra
trong giáo dục nghề nghiệp từ đó nâng cao chất lượng đào tạo nghề nghiệp, đáp
ứng yêu cầu của nền kinh tế sáng tạo, trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp.
Thứ hai, những cơng trình nghiên cứu liên quan tới kỹ năng mềm cho
sinh viên:
Nghiên cứu về kỹ năng mềm, giáo dục kỹ năng mềm thì chưa có nhiều cơng
trình, mà mới chỉ có một số bài tạp chí, luận văn thạc sĩ như Bài viết Tăng cường
giáo dục, rèn luyện kỹ năng làm việc nhóm cho sinh viên yêu cầu cấp bách của
đổi mới giáo dục đại học của Bùi Loan Thủy. Trong đó tác giả phân tích thực
trạng sử dụng kỹ năng làm việc nhóm của SV Việt Nam, những lợi ích đối với
SV khi sử dụng tốt kỹ năng này. Trên cơ sở đó, bài viết đưa ra biện pháp nâng
cao hiệu quả làm việc nhóm đối với nhà trường, giảng viên và bản thân sinh viên.
Nhóm tác giả Huỳnh Văn Sơn, Trần Hoàng, Mai Mỹ Hạnh, Hồ Ngọc Kiều đã
thực hiện nghiên cứu về thực trạng công tác quản lý việc phát triển kỹ năng mềm
4



cho sinh viên hướng đến việc đảm bảo chuẩn nghề nghiệp của sinh viên. Tác giả
Lê Thi Hồng Hạnh ở trường Đại học An Giang đã thực hiện nghiên cứu về đề
xuất biện pháp tổ chức, triển khai hoạt động, giáo dục kỹ năng mềm cho sinh
viên năm cuối tại đại học An Giang. Tác giả Nguyễn Tùng Lâm, Hội tâm lý giáo
dục Hà Nội đề xuất một số giải pháp để tháo gỡ những khó khăn trong cơng tác
tổ chức triển khai hoạt động giáo dục kỹ năng mềm ở các trường hiện nay. Tác
giả Huỳnh Văn Sơn cũng đã nghiên cứu và đề xuất biện pháp các thức tổ chức
triển khai các hoạt động nhằm mục đích rèn luyện kỹ năng mềm cho sinh viên
Đại học ngành sư phạm. Có thể thấy rằng, những cơng trình nghiên cứu đó mới
chỉ tập trung phân tích tầm quan trọng của kỹ năng mềm đối với sinh viên và
những kết quả đánh giá kỹ năng mềm của sinh viên còn yếu, một số tác giả nêu
ra biện pháp nâng cao kỹ năng mềm ở trường Đại học.
Tuy nhiên, hiện nay chưa có cơng trình khoa học nào nghiên cứu việc cần
thiết phải nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên trong thời đại
cách mạng công nghiệp 4.0 với nhiều sự thay đổi mới và đưa ra những giải pháp
nhằm nâng cao ngay từ việc nhận thức về tầm quan trọng và sự cần thiết giáo dục
kỹ năng mềm cho sinh viên trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0.
Với sự phân tích sâu sắc, cụ thể, tiếp cận góc độ kĩ lưỡng, đề tài nghiên cứu
của tơi Nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên Đại học Quốc
gia Hà Nội trong thời đại cách mạng cơng nghiệp 4.0 sẽ có điểm mới khác so với
các tác phẩm, cơng trình nghiên cứu trước đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận về cuộc cách mạng công nghiệp
4.0, về giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội trong cuộc
cách mạng công nghiệp 4.0, đề tài phân tích thực trạng việc học tập kỹ năng mềm
cho sinh viên Đại học Quốc Gia Hà Nội, trên cơ sở đó, đề ra những giải pháp cơ
bản nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả việc học tập kỹ năng mềm của sinh viên.
Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích trên , báo cáo có những nhiệm vụ sau :

5


Thứ nhất, làm rõ một số vấn đề lý luận về cuộc cách mạng công nghiệp 4.0,
về giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Thứ hai, phân tích thực trạng việc giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên Đại
học Quốc gia Hà Nội.
Thứ ba, đề ra những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả việc
giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội trong thời đại
cách mạng công nghiệp 4.0.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Nâng cao chất lượng việc học tập kỹ năng mềm cho sinh viên Đại học Quốc
gia Hà Nội trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0.
- Phạm vi nghiên cứu
+ Về không gian: nghiên cứu việc giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên Đại
học Quốc gia Hà Nội
+ Phạm vi thời gian: từ năm 2015 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Quan điểm Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường
lối của Đảng Cộng Sản Việt Nam về con người và giáo dục, về khoa học – cơng
nghệ. Ngồi ra, nghiên cứu còn kế thừa và phát triển kết quả nghiên cứu của các
nhà khoa học, các cơng trình khoa học liên quan đến đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu: Đề tài vận dụng phương pháp luận biện chứng
duy vật trong nghiên cứu các vấn đề xã hội với các phương pháp nghiên cứu chủ
yếu như: Phân tích - tổng hợp; so sánh - đối chiếu; trừu tượng hóa; hệ thống - cấu
trúc; chứng minh; giải thích, quy nạp và diễn dịch, lịch sử - cụ thể, phương pháp
thu thập và xử lý tư liệu, điều tra xã hội học, phỏng vấn sâu, tham vấn ý kiến

chuyên gia…
6. Đóng góp mới của đề tài
Chỉ ra được tầm quan trọng của giáo dục kỹ năng mềm trong bối cảnh cuộc
cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra và nêu lên được những giải pháp cho
việc giáo dục kỹ năng mềm cần thiết cho sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội
trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0.
6


7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa lý luận
Hệ thộng hóa các khái niệm, lịch sử về cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và
việc hoàn thiện các vấn đề về giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên, quản lý hoạt
động giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên.
- Ý nghĩa thực tiễn:
Đánh giá được thực trạng giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên và thực trạng
quản lý giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội, chỉ ra
những bất cập và nguyên nhân.
Đề ra được những giải pháp đối với việc giáo dục kỹ năng mềm cho sinh
viên hiện nay từ phía cơ sở đào tạo cũng như từ phía sinh viên trong bối cảnh
cơng nghiệp 4.0.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Khóa luận gồm 2
chương, 6 tiết.

7


CHƢƠNG I.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP

4.0 VÀ VIỆC NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG MỀM
CHO SINH VIÊN ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
1.1. Cách mạng công nghiệp 4.0
1.1.1. Khái niệm và lịch sử hình thành cuộc cách mạng cơng nghiệp 4.0
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất được cho rằng ra đời từ
những năm 1784 với việc sử dụng động cơ hơi nước để cơ giới hóa, cơ khí hóa
sản xuất, với sự đánh dấu mở đầu bằng việc phát minh ra động cơ hơi nước và
xây dựng các tuyến đường sắt. Với việc từ khi có sự ra đời của đầu máy hơi nước
của Jame Watt vào giữa thế kỉ 18, kéo dài cho đến giữa thế kỉ 19 với nền tảng là
các phát minh cơ bản như máy hơi nước, máy kéo sợi, máy dệt, các lò luyện
thép, tàu thủy, tàu hỏa chạy bằng hơi nước, sử dụng than đá. Nó diễn ra ở một số
nước Tây Âu như Anh, Pháp, Ý, Hà Lan. Với nền tảng công nghệ là máy hơi
nước và cơng nghệ cơ khí.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất đã thay thế hệ thơng kĩ thuật cũ
có tính truyền thống của thời đại nông nghiệp kéo dài. So với trước đây chủ yếu
sử dụng gỗ và sức mạng cơ bắp đó là lao động thủ cơng, giản đơn, sức nước, sức
gió, sức kéo của động vật thì với cuộc cách mạng lần thứ nhất này với nhiều thay
đổi với nguồn động lực là máy hơi nước và nguồn nguyên, nhiên vật liệu và năng
lượng mới là sắt và than đá khiến lực lượng sản xuất được thúc đẩy và phát triển
mạnh mẽ, tạo nên sự phát triển vượt bậc của nền công nghiệp và nền kinh tế. Có
thể nói đây là giai đoạn quá độ từ nền sản xuất nông nghiệp sang nền sản xuất cơ
khí. Đặc trưng cơ bản nhất của cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra vào thời kỳ
này là, nền kinh tế giản đơn, quy mô nhỏ, sản xuất vốn dựa trên lao động chân
tay được thay thế bằng sản xuất cơng nghiệp và chế tạo máy móc quy mô lớn.
Tác động của cách mạng công nghiệp là vô cùng sâu rộng.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai bắt đầu vào khoảng năm 1870,
khi các tiến bộ về kinh tế kĩ thuật cí được phát triển nhờ sự phát triển của tàu hơi
nước, đường sắt. Đến cuối thế kỉ 19, động lực cho cuộc cách mạng công nghiệp
8



lần thứ hai là động cơ đốt trong và máy móc sử dụng điện. Cuộc cách mạng cơng
nghiệp lần thứ hai tiếp tục ngay từ nửa sau thế kỉ 19 đến đầu thế kỉ 20.
Như vậy cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai ra đời sau gần 100 năm
so với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất- từ khoảng năm 1870 đến khi
Thế chiến I nổ ra với việc sử dụng năng lượng điện để tạo ra nền sản xuất quy
mô lớn. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai diễn ra khi có sự phát triển của
ngành điện, vận tải, hóa học, sản xuất thép, và đặc biệt là sản xuất tiêu dùng hàng
loạt đã tạo nên những tiền đề mới và là cơ sở vững chắc để phát triển nền công
nghiệp ở mức cao hơn nữa.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai được chuẩn bị bằng quá trình phát
triển gần 100 năm của các lực lượng sản xuất trên cơ sở của nền sản xuất đại cơ
khí và bằng sự phát triển của khoa học trên cơ sở của nền sản xuất đại cơ khí và
bằng sự phát triển của khoa học trên cơ sở kĩ thuật. Yếu tố quyết định của cuộc
cách mạng này là chuyển sang sản xuất trên cơ sở điện, cơ khí và sang giai đoạn
tự động hóa cục bộ trong sản xuất, tạo ra các ngành mới trên cơ sở khoa học
thuần túy, biến khoa học thành một ngành lao động đặc biệt. Cuộc cách mạng
này đã mở ra một kỉ nguyên sản xuất hàng loạt, được thúc đẩy bởi sự ra đời của
điện và dây truyền lắp ráp. Công nghiệp hóa cịn lan rộng hơn tới Nhật Bản sau
thời Minh Trị Duy Tân, và thâm nhập sâu và nước Nga là quốc gia phát triển
bùng nổ vào đầu Thế chiến I.
Tóm lại, đặc trưng của cuộc cách mạng cơng nghiệp lần này là việc sử dụng
năng lượng điện và sự ra đời của các dây truyền sản xuất hàng loạt trên quy mô
lớn. Cuộc cách mạng lần thứ 2 này diễn ra khi có sự phát triển của ngành điện,
vận tải, hóa học, sản xuất thép, và sản xuất tiêu dùng hàng loạt đóng vai trị quan
trọng. Yếu tố quyết định của cuộc cách mạng này là sản xuất trên cơ sở điện - cơ
khí sang giai đoạn tự động hóa cục bộ trong sản xuất tạo ra các ngành mới trên
cơ sở khoa học thuần túy, biến khoa học trở thành một ngành lao động đặc biệt.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai đã mở ra kỉ nguyên sản xuất hàng loạt,
được thúc đẩy bởi sự ra đời của điện và dây chuyền lắp ráp. Về tư tưởng kinh tế xã hội, cuộc cách mạng này tạo ra những tiền đề thắng lợi của cuộc chủ nghĩa xã

hội ở quy mô thế giới.
9


Cách mạng công nghiệp lần thứ ba xuất hiện cũng gần 100 năm sau so
với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai, tức là khoảng năm 1969-1970, với
sự ra đời và lan rộng của công nghệ thông tin, sử dụng điện tử và công nghệ
thông tin để tự động hóa sản xuất. Cuộc cách mạng này thường được gọi là cuộc
cách mạng máy tính hay cách mạng số bởi vì nó được xúc tác bởi sự phát triển
của chất bán dẫn, siêu máy tính, máy tính cá nhân và Internet (thập niên 1990).
Động lực thúc đẩy của cuộc cách mạng này là nhờ cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại. So với hai cuộc cách mạng công nghiệp trước là chỉ thay thế
một phần chức năng lao động chân tay của con người bằng máy móc cơ khí, hoặc
tự động hóa một phần, hay tự động hóa cục bộ, thì khác biệt của cuộc cách mạng
này là sự thay thế phần lớn và hầu hết chức năng của con người bao gồm lao
động chân tay lẫn trí óc bằng các thiết bị máy móc tự động hóa hồn tồn trong
q trình sản xuất nhất định.
Cơ sở năng lượng của cuộc cách mạng này là từ năng lượng hạt nhân dựa
trên nguyên tắc phân rã hạt nhân với những chất thải gây ô nhiễm môi trường,
đến dựa trên ngun tắc hồn tồn mới và ngược hẳn lại, đó là tổng hợp hạt nhân,
thường được gọi là tổng hợp nhiệt hạch. Đây là nguồn năng lượng của tương lai,
không gây ô nhiễm môi trường, không gây ra các thảm họa môi trường cho nhân
loại.
Cách mạng công nghiệp lần thứ ba này đã làm cho lực lượng sản xuất phát
triển nhanh chóng theo hai hướng chủ yếu. Thứ nhất là thay đổi chức năng và vị
trí của con người trong sản xuất trên cơ sở dịch chuyển từ nền tảng điện- cơ khí
sang nền tảng cơ- điện tử và cơ- vi điện tử. Thứ hai là chuyển sang sản xuất trên
cơ sở các ngành công nghệ cao như công nghệ thông tin, công nghệ nano, công
nghệ vật liệu, công nghệ sinh học, công nghệ năng lượng mới, công nghệ vũ trụ,..
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba dựa trên nền tảng cuộc cách mạng

khoa học và công nghệ hiện đại khơng chỉ góp phần tiết kiệm lao động sống như
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và thứ hai mà đã tạo điều kiện tiết
kiệm hơn các tài nguyên thiên nhiên và nguồn lực xã hội, cho phép chi phí tương
đối ít hơn các phương tiện sản xuất để tạo ra cùng một khối lượng hàng hóa tiêu
dùng.
10


Thuật ngữ “Cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ” hay cịn gọi là “Cơng
nghiệp 4.0”, lần đầu tiên được đưa ra tại Hội chợ Cơng nghệ Hannover, Cộng
hịa Liên bang Đức năm 2011. Trong tháng 10 năm 2012, Nhóm cộng tác của
Đức về “Cơng nghiệp 4.0” dưới sự chủ trì của Siegfried Dais (Robert Bosch
GmbH) và Henning Kagermann (Acatech) đã trình bày các ngun tắc Cơng
nghiệp 4.0 đề xuất thực hiện đối với Chính phủ Đức. Ngày 8/4/2013 cũng tại Hội
chợ Hannover, báo cáo cuối của Nhóm cơng tác Cơng nghiệp 4.0 đã được trình
bày. Đó cũng là tên gọi của làn sóng thay đổi sản xuất đang diễn ra tại Đức.
Ngày 20/1/2016 tại Diễn đàn Kinh tế thế giới lần thứ 46 đã khai mạc tại
thành phố Davos-Klosters của Thụy Sỹ, chủ đề “Làm chủ cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư” đã có sự tham gia của 2500 đại biểu từ hơn 100 quốc gia cùng
nhiều nguyên thủ và giám đốc điều hành của các tập đoàn lớn trên thế giới. Tại
diễn đàn này, Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế thế giới Davos, Giáo sư Klaus Schwad,
người Đức đã phát biểu: “Chúng ta đang tiến tới một cuộc cách mạng công nghệ,
công nghiệp làm thay đổi cơ bản lối sống, phong cách làm việc và cách thức giao
tiếp. Xét về phạm vi và mức độ và tính phức tạp, sự di chuyển này không giống
với bất kỳ điều gì mà con người từng trải qua”.
Theo định nghĩa của giáo sư Klaus Schwab thì “Cách mạng cơng nghiệp
lần đầu tiên sử dụng năng lượng nước và hơi nước để cơ giới hóa sản xuất. Cuộc
cách mạng lần 2 diễn ra nhờ ứng dụng điện năng để sản xuất hàng loạt. Cách
mạng lần 3 sử dụng điện tử và công nghệ thơng tin để tự động hóa sản xuất. Bây
giờ, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang nảy nở từ cuộc cách mạng lần

3, nó kết hợp các công nghệ lại với nhau, làm mờ ranh giới giữa vật lí, kĩ thuật số
và sinh họ” [1]. Khái niệm trên đã trở thành chủ đề chính của Diễn đàn kinh tế
lớn nhất thế giới năm 2016.
Như vật bản chất của cách mạng công nghiệp lần thứ tư là dựa trên nền
tảng cơng nghệ số và tích hợp tất cả các cơng nghệ thơng minh để tối ưu hóa quy
trình, phương thức sản xuất, nhấn mạnh những công nghệ đang và sẽ có tác động
lớn nhất là cơng nghệ in 3D, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, cơng
nghệ tự động hóa, người máy, trí tuệ nhân tạo,…

11


Bối cảnh ra đời dẫn đến cuộc cách mạng cộng nghiệp lần thứ tư do 5
ngun nhân chính có thể kể đến. Thứ nhất là cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu 2008-2009 đã đặt ra cho nhiều nước, nhiều doanh nghiệp phải điều chỉnh,
thay đổi căn bản mơ hình phát triển để hướng tới các mơ hình phát triển mới hiệu
quả hơn bền vững hơn. Thứ hai là nhiều nền kinh tế phát triển, nhất là Mỹ và
phương Tây có dấu hiệu suy yếu sau khủng hoảng tài chính tồn cầu, đang đứng
trước sức ép lớn phải tái cơ cấu kinh tế để giành lại sản xuất và việc làm, vị thế
dẫn dắt trong các ngành công nghệ cao. Thứ ba là sự phát triển như vũ bão với
nhiều đột phá mới có tính cách mạng của khoa học và công nghệ đã tạo nên
nhiều cơ hội và thách thức lớn lao cho tất cả mọi quốc gia, tổ chức và cá nhân
trên thế giới. Thứ tư là sự già hóa dân số nhanh chóng của các nước phương Tây
và cả những nước mới nổi, lực lượng lao động giảm khơng chỉ làm suy yếu tăng
trưởng , mà cịn xói mòn năng lực cạnh tranh của các quốc gia này. Thứ năm là
sự thúc ép mạnh mẽ và quyết liệt của nhà cầm quyền một số nước công nghiệp
phát triển về việc làm, đặc biệt là Hoa Kỳ buộc các nhà tư bản, các cơng ty chính
quốc phải chuyển các doanh nghiệp đang ở nước ngoài quay trở về tổ quốc mình.
Về bản chất của cuộc cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư là dựa trên nền tảng
công nghệ số và tích hợp tất cả các cơng nghệ thơng minh, cơng nghệ cao để tối

ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất; là sự kết hợp của hệ thống thực và ảo, là
sự hội tu của các giá trị sức mạnh. Không giống như các cuộc cách mạng công
nghiệp trước đây thường diễn ra theo xu hướng có phát minh mới làm lu mờ đi
phát minh cũ thì ngày nay công nghệ nền tảng của cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ tư sẽ tạo cơ sở cho các công nghệ khác, các ngành nghề khác cũng phát
triển.
Công nghệ nền tảng của cuộc cách mạng này:
1) Dữ liệu lớn;
2) Điện toán đám mây;
3) Các Robot có kết nối;
4) Internet kết nối vạn vật.
Công nghệ ứng dụng mới là:
12


1) Cơng nghệ in 3D
2) Máy móc tự động hóa
3) Trí tuệ nhân tạo
4) Tích hợp con người- máy móc
Sự phân loại công nghệ nền tảng hay công nghệ ứng dụng trong giao đoạn
này đều chỉ là tương đối, bởi vì cá lĩnh vực khoa học và cơng nghệ quyện lẫn
nhau, tích hợp với nhau để hỗ trợ nhau cùng phát triển.
1.1.2. Những đặc trưng cơ bản của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với đặc trưng cơ bản là sự hợp
nhất, giữa các lĩnh vực công nghệ, vật lý, kĩ thuật số và sinh học khơng cịn ranh
giới. Vấn đề đó dẫn đến xu hướng kết hợp giữa các hệ thống ảo với thực tế,
Internet vạn vật (IoT) và các hệ thống kết nối Internet (IoS). Thành tựu của cuộc
cách mạng 4.0 là làm thay đổi cách thức sản xuất hiện đại với khả năng cơng
nghệ được hình thành, các máy móc được kết nối Internet và liên kết với nhau
qua một hệ thống có thể định dạng được quy trình sản xuất, từ đó đưa ra các

quyết định sẽ thay thế dần các dây chuyền sản xuất mang tính truyền thống. Toàn
bộ thế giới diễn ra sự kết nối cực lớn, hàng tỉ người thông qua trên thế giới thông
qua các thiết bị di động và khả năng tiếp cận với cơ sở dữ liệu lớn (big data) để
trao đổi từ văn hóa, chính trị, kinh tế. Điều đó cho thấy cuộc cách mạng cơng
nghiệp 4.0 với những tính năng xử lý thơng tin chính xác, cùng với những đột
phá cơng nghệ trong các lĩnh vực như trí tuệ nhân tạo sẽ tạo ra: công nghệ người
máy, xe tự lái, công nghệ in 3D, vạn vật kết nối (IoT), công nghệ nano, công
nghệ sinh học, khoa học vật liệu, lưu trữ năng lượng và tính tốn lượng tử, các
ngành tự động hóa sẽ làm thay đổi thế giới một cách nhanh chóng.
Cuộc cách mạng cơng nghiệp 4.0 được dự đốn sẽ mở ra kỷ nguyên mới
cho các nước trên thế giới nếu xác định chủ trương “đi tắt đón đầu” về các cơ hội
đầu tư cho công nghệ, làm tăng năng suất và tạo điều kiện cho sự gia tăng về đời
sống vật chất và tinh thần, các quốc gia nắm bắt được thành tựu của cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0 thể hiện ở sự áp dụng thành công trong lĩnh vực robot, vạn
vật kết nối, dữ liệu lớn, điện thoại di động và công nghệ in 3D, kỹ thuật điện toán
13


đưa vào sản xuất tạo ra năng suất lao động cao, nhiều ngành, nghề mới. Thế giới
sẽ là chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu, những thành tựu của các cuộc cách mạng
công nghiệp trước đây không chỉ được kế thừa mà còn được phát huy trên các
lĩnh vực khi được ứng dụng vào sản xuất. Mặt khác cuộc cách mạng cơng nghiệp
4.0 cịn tạo ra bước đột phá lớn về tốc độ phát triển phạm vi và mức độ tác động
chưa từng có trong lịch sử của q trình sản xuất mang tính tồn cầu. Sự khác
biệt giữa cuộc cách mạng 4.0 với các cuộc cách mạng trước đây từ quy mơ, cơng
nghệ, năng suất lao động, vị trí con người trong quá trình sản xuất đều phát triển
nhanh hơn, rộng hơn, chất lượng hơn, trí tuệ hơn. Như vậy, cuộc các mạng công
nghiệp 4.0 sẽ làm biến đổi sâu sắc nền công nghiệp ở các quốc gia cả về bề rộng
và chiều sâu, tạo nên hệ thống sản xuất, quản lý và quản trị mang tính chất tồn
cầu.

Thành tựu của các cuộc cách mạng trước đây là cố gắng sử dụng tối đa các
nguồn lực nhưng cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 không chỉ dựa vào các nguồn
lực đó, mà cịn sử dụng năng lượng mới và cơng nghệ mới tạo ra hiệu quả cho
quá trình sản xuất cả về góc độ kinh tế lẫn mơi trường. Do đó, cuộc Cách mạng
cơng nghiệp 4.0 sẽ làm thay đổi cơ bản khái niệm đổi mới công nghệ, trang thiết
bị trong các dây chuyền sản xuất. Bên cạnh đó, cịn có các thiết bị sử dụng trong
sản xuất sẽ được tăng theo khả năng áp dụng công nghệ, giúp nhà sản xuất nâng
cao phần mềm để bổ sung các tính năng mới cho hệ thống thông minh tạo ra sự
thay thế cho các dây truyền sản xuất trước đây chủ yếu phụ thuộc vào sức lao
động của con người. Thế giới tạo ra nền sản xuất hàng hóa đa dạng, năng suất
cao, ít sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên nhưng vẫn đáp ứng được nhu cầu
của khách hàng từ mẫu mã đến chất lượng sản phẩm.
Như vậy, cuộc cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư có những đặc trưng sau:
“Một là, nhờ khả năng kết nối thông qua các thiết bị di động và khả năng tiếp cận
với cơ sở dữ liệu lớn, những tính năng xử lý thơng tin sẽ được nhân lên bởi
những đột phá công nghệ trên nhiều lĩnh vực. Hai là, tốc độ của cuộc cách mạng
cơng nghiệp lần thứ tư là khơng có tiền lệ trong lịch sử. Nếu các cuộc cách mạng
công nghiệp trước đây diễn ra với tốc độ tuyến tính, thì tốc độ phát triển của cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ tư là theo hàm số mũ. Ba là, cuộc cách mạng lần
14


này làm thay đổi căn bản cách thức con người tạo ra sản phẩm, từ đó tạo nên
"cách mạng" về tổ chức các chuỗi sản xuất - giá trị” [1].
1.2. Sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội
1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển Đại học Quốc Gia Hà Nội
Đại học Quốc gia Hà Nội được thành lập theo Nghị định số 97/ CP ngày 10
tháng 12 năm 1993 của Chính phủ trên cơ sở tổ chức, sắp xếp lại 3 trường đại
học lớn ở Hà Nội: Đại học Tổng hợp Hà Nội, Đại học Sư phạm Hà Nội I và Đại
học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội. Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN) chính

thức bước vào hoạt động theo Quy chế do Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày
5/9/1994.
Nhìn lại lịch sử quá trình hình thành và phát triển có thể thấy Đại học Quốc
gia Hà Nội phát triển dựa trên tinh thần đào tạo tinh hoa, kế thừa những giá trị
truyền thống tốt đẹp. Có thể điểm lại những dấu mốc quan trọng tạo nên một Đại
học Quốc gia Hà Nội hiện nay như sau.
Năm 1906, Thành lập Trường Đại học Đông Dương, tiền thân của Đại học
Quốc gia Hà Nội ngày nay (Quyết định số: 1514a, ngày 16/5/1906 của Tồn
quyền Đơng Dương). Trường Đại học Đông Dương đặt trụ sở tại 19 - Lê Thánh
Tông - Hà Nội. Sau Cách mạng tháng Tám, cơ sở này thuộc về Đại học Quốc gia
Việt Nam. Sau khi hồ bình lập lại ở miền Bắc do Trường Đại học Tổng hợp Hà
Nội quản lý, sử dụng và nay là một trong những cơ sở chính của Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Năm 1945, Trường Đại học Quốc gia Việt Nam khai giảng khoá đầu tiên
vào 15/11/1945 dưới sự chủ toạ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây là trường đại
học đa ngành, đa lĩnh vực đầu tiên được thành lập dưới chính thể Việt Nam Dân
chủ Cộng hồ. Trường Đại học Quốc gia Việt Nam trực tiếp kế thừa truyền thống
khoa học và giáo dục của Trường Đại học Đông Dương.
Năm 1951, Nhà nước ta thành lập Trường Khoa học Cơ bản (tại Chiến khu
Việt Bắc). Đây là một trong những trường tiền thân của Trường đại học Tổng
hợp Hà Nội được thành lập năm 1956 - trường đại học Khoa học cơ bản (Khoa
học Tự nhiên và Khoa học Xã hội & Nhân văn) đầu tiên ở miền Bắc sau hồ bình
lập lại. Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội trực tiếp kế thừa truyền thống và cơ sở
15


vật chất, kỹ thuật của các Trường Đại học Đông Dương (1906), Trường Đại học
Quốc gia Việt Nam (1945) và Trường Khoa học Cơ bản (1951). Thành lập
Trường đại học Sư phạm Hà Nội, trong đó có khoa Ngoại ngữ, sau này tách ra
thành Trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội (Cả hai trường đại học: Đại

học Tổng hợp Hà Nội và Đại học Sư phạm Hà Nội cùng chung Quyết định thành
lập số 2183/TC ngày 4/6/1956 của Chính phủ).
Năm 1967, Thành lập Trường đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội trên cơ
sở khoa Ngoại ngữ của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I.
Năm 1993, Thành lập Đại học Quốc gia Hà Nội trên cơ sở tổ chức, sắp xếp
lại 3 trường đại học lớn ở Hà Nội: Đại học Tổng hợp Hà Nội, Đại học Sư phạm
Hà Nội I và Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội (Nghị định 93/CP ngày
10/12/1993 của Chính phủ). Đây là mơ hình đại học đa ngành, đa lĩnh vực, kết
hợp chặt chẽ đào tạo và nghiên cứu khoa học, được giao quyền tự chủ cao, được
ưu tiên đầu tư về cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ để thực hiện đào tạo và nghiên
cứu khoa học chất lượng cao.
Ngày 10.12.1993, Chính phủ ban hành Nghị định số 97/CP thành lập Đại
học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN) trên cơ sở sát nhập 3 trường đại học: Trường
Đại học Tổng hợp Hà Nội, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội và Trường Đại học
Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội. Trở thành trường thành viên của ĐHQGHN,
Trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội được đổi tên thành Trường Đại học
Ngoại ngữ - ĐHQGHN.Đại học Ngoại ngữ là một trong những trường đại học
đầu ngành về đào tạo ngoại ngữ của cả nước. Đến với ULIS bạn sẽ có cơ hội
được học tập và lấy bằng nước ngồi với hơn 20 chuyên ngành. Là sinh viên Đại
học Ngoại ngữ, bạn sẽ được trang bị sự tự tin và hành trang cần thiết để sẵn sàng
bước ra ngoài thế giới, khám phá nhiều nền văn hóa, ngơn ngữ đa dạng. Khoảng
95% sinh viên ULIS ra trường đều có việc làm ngay sau khi tốt nghiệp, 5% còn
lại theo học ở bậc học cao hơn ở trong và ngoài nước. Vì vậy, học ngoại ngữ sẽ
giúp bạn mở ra nhiều cơ hội việc làm trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế như
hiện nay.
Ngày 10/12/1993, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định 97/CP thành
lập Đại học Quốc gia Hà Nội, trong đó có Trường Đại học Khoa học Xã hội và
16



Nhân văn, được thành lập trên cơ sở các khoa xã hội của Đại học Tổng hợp Hà
Nội. Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn (USSH). Trường có sứ mệnh đi đầu
trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao; nghiên cứu, sáng tạo
và truyền bá tri thức về Khoa học xã hội và nhân văn, phục vụ sự nghiệp xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế. Hiện tại trường có 22 ngành đào tạo,
thỏa sức để các bạn học sinh, sinh viên lựa chọn ngành học phù hợp với mình.
Trường đào tạo các ngành học như chính trị học, cơng tác xã hội, báo chí, hán
nơm, khoa học quản lí, lịch sử, triết học, nhân học, quản lý thông tin, quốc tế học,
đông phương học học về ngoại ngữ và văn hóa, văn học, xã hội học, lưu trữ học.
Các ngành học rất đa dạng, mỗi ngành học lại có một đặc thù riêng mà theo đó
sinh viên có những đặc điểm riêng khác nhau nhưng nhìn chung sinh viên rất
ham học hỏi, tìm hỏi, đặc thù là một trường chuyên về xã hội địi hỏi sinh viên
ln phải nỗ lực tìm tịi tài liệu để nâng cao kiến thức, kỹ năng cũng như đạo
đức.
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội được
thành lập theo Nghị định số 97/CP ngày 10/12/1993 của Chính phủ Đại học
Khoa học Tự nhiên (HUS), Với hơn 100 năm truyền thống xây dựng và phát
triển, Đại học Khoa học Tự nhiên được biết đến như một trường đại học hàng
đầu tại Việt Nam về lĩnh vực khoa học tự nhiên. Trường sẽ giúp bạn mở ra nhiều
cơ hội nghề nghiệp thơng qua 25 chương trình đào tạo đại học và trên 100
chương trình đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ. Trường có các khoa như khoa Tốn-CơTin, khoa Vật lý, khoa Sinh học, Địa lý, Hóa học, Địa chất, Mơi trường, Khí
tượng thủy văn và Hải dương học. Sinh viên khơng chỉ được học về những kiến
thức và kỹ năng nghề nghiệp trong một lĩnh vực cụ thể mà còn được trang bị
năng lực học tập suốt đời, năng lực sáng tạo, năng lực lãnh đạo và kỹ năng giải
quyết vấn đề.
Năm 2001, Chính phủ ban hành Nghị định số 07/2001/NĐ-CP ngày
1/2/2001 về Đại học Quốc gia. Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số
16/2001/QĐ-TTg ngày 12/2/2001 ban hành Quy chế về Tổ chức và hoạt động
của Đại học Quốc gia; Quyết định số 14/2001/QĐ-TTg ngày 12/2/2001 về việc
tổ chức lại Đại học Quốc gia Hà Nội. Đây là mốc lịch sử quan trọng đánh dấu

17


bước phát triển mới của Đại học Quốc gia Hà Nội. Sau 8 năm xây dựng và phát
triển Đại học Quốc gia Hà Nội, một mơ hình đại học đa ngành, đa lĩnh vực có
quy mơ lớn, hoạt động theo cơ chế tự chủ cao, có nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân
lực chất lượng cao và nhân tài khoa học, công nghệ cho đất nước, đã được khẳng
định.
Tháng 12 năm 2003 Giai đoạn I xây dựng Đại học Quốc gia Hà Nội đã được
khởi động. Ngày 20 tháng 12 năm 2003 Thủ tướng Phan Văn Khải đã chính thức
động thổ xây dựng Đại học Quốc gia Hà Nội tại Hoà Lạc.
Năm 2004, Thành lập Viện Việt Nam học và Khoa học Phát triển trên cơ sở
Trung tâm nghiên cứu Việt Nam và Giao lưu văn hóa và thành lập Trường Đại
học Công nghệ trên cơ sở nâng cấp và phát triển Khoa Công nghệ. Đại học Công
nghệ (UET) là một trong những trường đại học đầu ngành về lĩnh vực cơng nghệ
trong cả nước với hai nhiệm vụ chính là đào tạo nguồn nhân lực trình độ đại học,
sau đại học và bồi dưỡng nhân tài thuộc lĩnh vực khoa học, công nghệ, thứ hai là
nghiên cứu và triển khai ứng dụng khoa học, công nghệ đáp ứng nhu cầu phát
triển kinh tế - xã hội. UET là nơi để sinh viên trải nghiệm môi trường đào tạo
chuẩn mực, làm chủ được công nghệ trong thời đại công nghiệp 4.0. Sinh viên
được tạo điều kiện để phát huy tối đa năng lực sáng tạo trong học tập và nghiên
cứu. Hoạt động giảng dạy của trường luôn gắn liền với nghiên cứu khoa học và
nhu cầu của doanh nghiệp, nhằm trang bị cho sinh viên những kiến thức và kỹ
năng nghề nghiệp trong các lĩnh vực để sẵn sàng làm việc ngay khi có cơ hội.
Năm 2007, Thành lập Trường Đại học Kinh tế trên cơ sở nâng cấp Khoa
Kinh tế. Thành lập Viện Vi sinh vật và Công nghệ sinh học trên cơ sở nâng cấp
Trung tâm Công nghệ sinh học. Trường Đại học Kinh tế hiện đang có 8 ngành
đào tạo bậc cử nhân, 11 ngành đào tạo bậc thạc sĩ, 5 ngành đào tạo bậc tiến sĩ;
trong đó có 1 ngành đại học bậc đại học và 2 ngành đại học bậc thạc sĩ liên kết
với nước ngoài. UET không ngừng cải tiến chất lượng đào tạo để tạo ra môi

trường học tập chất lượng cho sinh viên. Khơng chỉ có vậy, trường đã tiến hành
tổ chức kiểm định 2 chương trình đào tạo theo bộ tiêu chí của mạng lưới các
trường đại học Đông Nam Á (AUN) và kiểm định 2 ngành đại học bậc đại học
theo bộ tiêu chuẩn của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Đặc biệt, tỷ lệ sinh viên tốt
18


nghiệp đại học có việc làm là 96,7%, đây chính là minh chứng cho chất lượng
đào tạo tại UET .
Năm 2008, Thành lập Trung tâm Truyền thông và Quan hệ công chúng trên
cơ sở tổ chức và sắp xếp lại Bản tin và Bộ phận website của Đại học Quốc gia Hà
Nội.
Năm 2009, Thành lập Trường Đại học Giáo dục trên cơ sở nâng cấp Khoa
Sư phạm, Trung tâm nghiên cứu Biển và đảo, Trung tâm Quốc tế nghiên cứu
biến đổi toàn cầu, Trung tâm giáo dục Thể chất và Thể thao trên cơ sở sắp xếp và
tổ chức lại các bộ môn giáo dục thể chất của các đơn vị đào tạo. Đây là sự ra đời
của một mô hình đào tạo mới trong lịch sử khoa học giáo dục Việt Nam, hướng
tới sự liên thông tuyệt đối trong đại học đa ngành, đa lĩnh vực, chất lượng cao.
Trường chủ yếu xây dựng chương trình đào tạo, giảng dạy kiến thức nghiệp vụ
sư phạm, giáo dục cho những đối tượng cử nhân khoa học nhằm cung cấp nguồn
nhân lực chất lượng cao cho các bậc học và ngành giáo dục. Triết lý giáo dục của
nhà trường là nhân bản và khai phóng, hướng đến mục tiêu giáo dục là đào tạo
người học có nhân cách trưởng thành, vững kiến thức chun mơn và kỹ năng
nghề nghiệp, có tinh thần chuyên nghiệp, thái độ tận tâm và sự sáng tạo trong
công việc.
Đến tháng 5/2010 thành lập 3 đơn vị mới là: Trung tâm Nghiên cứu Đô thị,
Ban Quản lý và phát triển dự án, Khoa Y Dược. Ngày 10/6/2010, thành lập
Trung tâm ứng dụng Công nghệ thông tin trên cơ sở hợp nhất và tổ chức lại các
đơn vị: Trung tâm Quản trị mạng VNUnet trực thuộc Viện Công nghệ Thông tin,
Trung tâm nghiên cứu và phát triển Công nghệ Phần mềm trực thuộc Trường Đại

học Công nghệ và Trung tâm Tích hợp dữ liệu trực thuộc Văn phịng Đại học
Quốc gia Hà Nội Ngày 05/7/2010, đổi tên Trung tâm Đảm bảo chất lượng đào
tạo và nghiên cứu phát triển giáo dục trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội thành
Viện Đảm bảo chất lượng giáo dục.
Ngày 21/7/2014, Đại học Việt Nhật – trường đại học thành viên thứ 7 thuộc
ĐHQGHN được thành lập. Trường là mơ hình đại học mới ở Việt Nam được kỳ
vọng sớm trở thành trường đại học đẳng cấp quốc tế. Đây cũng là biểu tượng của
mối quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam và Nhật Bản. Trường hợp tác với nhiều đối
19


tác uy tín như ĐH Ibaraki, ĐH Osaka, ĐH Ritsumeikan, ĐH Tokyo, ĐH
Tsukuba, ĐH Yokohama, ĐH Waseda... để mang lại chất lượng đào tốt nhất.
Đồng thời trường cũng tận dụng nguồn lực tối đa từ các trường thành viên khác
của Đại học Quốc gia nhằm mang lại môi trường học tập tốt nhất cho sinh viên.
Ngồi ra cịn có 5 khoa trực thuộc bao gồm: Khoa Luật, Khoa Quốc tế,
Khoa Y Dược, Khoa Quản trị và Kinh doanh, Khoa các khoa học liên ngành.
Ngoài ra Đại học Quốc gia Hà Nội cịn có 7 viện nghiên cứu thành viên và trực
thuộc, 2 trung tâm đào tạo và nghiên cứu, 13 đơn vị phục vụ và dịch vụ.
Vị trí của Đại học Quốc gia Hà Nội trong tương quan trong khu vực và thế
giới được cải thiện liên tục qua các năm. Theo công bố của tổ chức xếp hàng QS
World University Rankings năm 2019 ĐHQG Hà Nội vẫn là trường có thứ hạng
trong top 1000 trường Đại học hàng đầu trên thế giới, và ở vị trí thứ 124 Đại học
hàng đầu châu Á. Mới đây nhất, Đại học quốc gia Hà Nội vẫn duy trì đại học
hàng đầu ở Việt Nam. Đại học quốc gia Hà nội cũng là cơ sở giáo dục duy nhất ở
Việt Nam có lĩnh vực vật lí được xếp hàng thứ 502 thế giới về vật lí trong các
trường đại học tốt nhất hàng đầu do báo Tin tức Hoa Kỳ bình chọn. Sự phát triển
của Đại học Quốc Gia Hà Nội dựa trên triết lí “Đạt đỉnh cao dựa vào tri thức” và
dựa trên cốt lõi chất lượng cao, sáng tạo, tiên phong, tích hợp, trách nhiệm xã hội
cao và phát triển bền vững. Các giá trị này thể hiện mạnh mẽ trong các hoạt động

đào tạo, nghiên cứu và hợp tác phát triển. Trên phương diện đào tạo Đại học
Quốc gia Hà Nội đang là sự lựa chọn hàng đầu của những sinh viên xuất sắc tại
Việt Nam cũng như sinh viên quốc tế nhờ vào các chương trình đào tạo chất
lượng cao, đa ngành, đa lĩnh vực với hàng trăm ngành đào tạo trên mọi lĩnh vực.
Bên cạnh các ngành học truyền thống Đại học Quốc gia Hà Nội tiên phong xây
dựng nhiều ngành đào tạo mới đáp ứng nhu cầu xã hội và cập nhật xu hướng thế
giới như: biến đổi khí hậu, quản lí khoa học cơng nghệ, quản lí tài nguyên thiên
nhiên, khoa học bền vững, an ninh phi truyền thống, hàng không vũ trụ, quản trị
trường học, công nghệ kỹ thuật xây dựng, nông nghiệp công nghệ cao. Sinh viên
của Đại học Quốc gia Hà Nội tự hào được học tập trong môi trường quy tụ lực
lượng đông đảo cán bộ nghiên cứu, giảng dạy là các chuyên gia đầu ngành và đội
ngũ giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, tiến sĩ khoa học đứng đầu trong các cơ sở giáo
20


dục của cả nước. Ngoài ra sinh viên của Đại học Quốc gia Hà Nội cịn được lựa
chọn chương trình đào tạo bằng tiếng anh, chương trình đào tạo liên kết quốc tế,
chương trình đào tạo trao đổi của các đối tác Đại học Quốc gia Hà Nội trong khu
vực và trên thế giới. Đại học Quốc gia Hà Nội là cái nôi đào tạo và bồi dưỡng
nhân tài cho đất nước. Nhiều cựu sinh viên của Đại học Quốc gia Hà Nội là các
chính trị gia, doanh nhân, nhà khoa học nổi danh không chỉ ở Việt Nam mà còn
trên thế giới. Đại học Quốc gia Hà Nội tập trung vào bốn mũi nhọn chính là khoa
học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học công nghệ và thực phẩm, và
các khoa học liên ngành liên lĩnh vực. Chất lượng đào tạo của Đại học Quốc gia
Hà Nội giữ vị trí hàng đầu của Việt Nam. Sinh viên tốt nghiệp ở Đại học Quốc
gia Hà Nội được trang bị đầy đủ kiến thức chuyên môn, kỹ năng phân tích đánh
giá, kỹ năng nghề nghiệp, bổ trợ và trình độ ngoại ngữ quốc tế.
Ngồi các ngành, chun ngành truyền thống, Đại học Quốc gia Hà Nội
luôn tiên phong xây dựng, phát triển các ngành, chuyên ngành mới có tính liên
ngành như Khoa học Mơi trường, Tốn - Tin, Quản lý tài nguyên thiên nhiên,

Hóa dược, Vật liệu và linh kiện nanơ, Biến đổi khí hậu, Việt Nam học, Nhân
học… phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời đại
“Công nghiệp 4.0”.
Hàng năm có trên 800 học sinh trung học phổ thông năng khiếu về khoa
học tự nhiên và ngoại ngữ tốt nghiệp tiếp cận chuẩn quốc tế, tạo nguồn cho các
chương trình đào tạo tài năng, chương trình tiên tiến, chương trình đạt chuẩn
quốc tế. Học sinh Trung học phổ thông Chuyên đã giành được nhiều huy chương
trong các kỳ thi Olympic quốc tế. Nhiều nhà khoa học hàng đầu thế giới đã
trưởng thành từ ĐHQGHN như GS. Ngô Bảo Châu (giải thưởng Fields trong lĩnh
vực toán học năm 2010), GS. Đàm Thanh Sơn (ĐH Washington)...
Đại học Quốc gia Hà Nội tiên phong phối hợp với các trường đại học nước
ngồi có uy tín cao để đào tạo thạc sỹ về chính sách cơng, quản lý khoa học cơng
nghệ, quản lý xã hội thuộc Đề án 165 “Đào tạo bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản
lý ở nước ngoài bằng nguồn ngân sách nhà nước” do Ban Tổ chức Trung ương
chủ trì. Đại học Quốc gia Hà Nội là đơn vị tiên phong trong việc nghiên cứu xây
dựng và triển khai áp dụng bộ tiêu chuẩn kiểm định chất lượng đào tạo theo các
21


mức chuẩn quốc gia, chuẩn khu vực và chuẩn quốc tế; hoàn chỉnh hệ thống văn
bản quy phạm nội bộ (quy chế, quy định, hướng dẫn) về đào tạo đại học và sau
đại học.
Đại học Quốc gia Hà Nội tích cực tổ chức các chương trình đào tạo, bồi
dưỡng, tập huấn cho cán bộ của các bộ, ngành (như Bộ Ngoại giao, Bộ GD&ĐT,
Bộ Tài nguyên Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn...), cấp tỉnh,
huyện, các tổ chức nghiên cứu và tun truyền về chính sách cơng, công nghệ
thông tin, kiểm định chất lượng, pháp luật, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và phát
triển bền vững, phát triển tài nguyên miền núi; bồi dưỡng các môn lý luận chính
trị cho giảng viên các trường đại học, cao đẳng; bồi dưỡng về phương pháp giảng
dạy tiên tiến cho giáo viên các trường trung học phổ thơng… góp phần quan

trọng nâng cao chất lượng, năng lực cho cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ
chuyên môn.
Sinh viên tốt nghiệp Đại học Quốc gia Hà Nội hiện đang đảm nhiệm nhiều
vị trí quan trọng trong các cơ quan quản lý nhà nước cũng như trong các tổ chức
chính trị xã hội, các cơ quan quản lý các tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương,
có mặt và đóng góp vào nhiều thành công trong hoạt động nghiên cứu triển khai
của nhiều viện nghiên cứu khoa học lớn của đất nước. Số lượng sinh viên tốt
nghiệp làm việc trong các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp nước ngoài
ngày càng tăng.
Trong quá trình xây dựng và phát triển Đại học Quốc gia Hà Nội đã từng
bước khẳng định uy tín cao trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ
cao, bồi dưỡng nhân tài, từng bước tiếp cận chuẩn quốc tế, đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước, góp phần “có được
nhiều nhân tài cho đất nước trong thế kỷ 21”.
1.2.2. Đặc điểm sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội
Thứ nhất, Sinh viên luôn được tạo điều kiện tốt nhất trong học tập: từ thơng
tin về chương trình đào tạo, các mơn học, khai thác và sử dụng tài liệu học tập
(sách, giáo trình, tạp chí, các dữ liệu online) đến việc tham gia nghiên cứu khoa
học dưới sự hướng dẫn, giảng dạy của đội ngũ giáo sư, tiến sĩ, giảng viên uy tín,
v.v…
22


Thứ hai, Sinh viên rất tích cực tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa
học. Hoạt động nghiên cứu khoa học được sinh viên tham gia rất tích cực với quy
mô và chất lượng ngày càng cao. Các sinh viên tham dự mà đạt kết quả cao từ
cấp khoa sẽ lên tới cấp trường rồi cuối cùng được xét gửi cơng trình dự thi cấp
Đại học Quốc Gia, cấp Bộ Giáo dục và Đào tạo, được cộng điểm và bảng thành
tích học tập cũng như có cơ hội được nhận nhiều suất học bổng từ các tổ chức,
doanh nghiệp trong và ngồi nước, có cơ hội được đi du học nước ngồi và có

thể được giữ lại trường làm giảng viên sau khi tốt nghiệp.
Thứ ba, Sinh viên tham gia các cuộc thi, các hoạt động phong trào được
triển khai xuyên suốt năm học như các hoạt động chào mừng năm học, hoạt động
văn nghệ chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam, các giải bóng đá trong trường,
cuộc thi Aerobic học sinh, sinh viên; cuộc thi Mr&Miss,…thu hút rất nhiều sinh
viên tham gia, được đông đảo sinh viên hưởng ứng.
Thứ tư, sinh viên nhiệt tình đăng ký tham gia hoạt động tình nguyện với các
hoạt động như: “Tiếp sức mùa thi tuyển sinh THPT chuyên”, “Tiếp sức mùa thi
tuyển sinh đại học, cao đẳng”, “Xung kích tại các địa phương”, “Làng trẻ”, “Đội
sinh viên tình nguyện hoạt động vì mơi trường”, v.v… Các hoạt động tình
nguyện của Trường đã để lại dấu ấn trong lịng hàng nghìn hộ dân tại các địa
phương nơi đội xung kích hoạt động, hàng vạn thí sinh thi vào các trường Đại
học và Cao đẳng tại Hà Nội, Hà Tây và trong lòng nhiều em nhỏ của các làng trẻ.
Thứ năm, Sinh viên tham gia giữ gìn, phát huy và quảng bá các giá trị văn
hóa lịch sử của Thủ đơ và đất nước. Các bạn sinh viên tham gia hoạt động đều là
những bạn sinh viên có ý thức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm cao; có khả năng
giao tiếp bằng ngoại ngữ và có niềm u thích tham gia các hoạt động tình
nguyện vì cộng đồng.
Thứ sáu, sinh viên có tinh thần chủ động và ý thức trách nhiệm cao. Điều
này thể hiện không chỉ với việc học mà với các hoạt động tình nguyện hoạt động
xã hội mà sinh viên tham gia, thể hiện sự năng động, nhiệt tình của sinh viên
trong các hoạt động khơng những từ phía Nhà trường và còn từ xã hội.

23


×