Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

DCBG QLCL Giao ducChuong 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.37 KB, 18 trang )

Đề cương bài giảng
QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC
ThS. Phạm Phúc Tuy
Trường ĐH Thủ Dầu Một – Bình Dương

Chương 1: CHẤT LƯỢNG VÀ CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC
1. Chất lượng
1.2 Khái niệm sản phẩm
Sản phẩm là đối tượng nghiên cứu của nhiều lĩnh vực khác nhau như Kinh tế
học, Công nghệ học, Tâm lý học, Xã hội học...từ nhiều góc độ khác nhau, theo những
mục tiêu nhất định. Trong lĩnh vực kinh doanh và quản lý chất lượng, sản phẩm được
xem xét trong mối quan hệ của nó với khả năng và mức độ thoả mãn nhu của người tiêu
dùng, của xã hội với những điều kiện và chi phí nhất định.
“Sản phẩm là kết quả của các hoạt động hoặc các quá trình” (tập hợp các nguồn
lực (nhân lực, trang thiết bị, cơng nghệ, phương pháp) và hoạt động có liên quan với nhau
để biến đổi đầu vào thành đầu ra.
Cùng với sự phát triển ngày càng cao và phức tạp hơn của xã hội, từ thực tế cạnh
tranh trên thị trường, ngày nay người ta quan niệm về sản phẩm rộng rãi hơn, không chỉ
là những sản phẩm cụ thể thuần vật chất mà còn bao gồm các dịch vụ, các quá trình nữa.
Ngày nay dịch vụ phát triển mạnh mẽ, đóng vai trị quan trọng trong nền kinh tế
một nước. Người ta gọi đây là nền kinh tế mềm. Kinh tế xã hội càng phát triển thì cơ cấu
giá trị sản phẩm vật chất và sản phẩm dịch vụ trong giá trị tổng sản phẩm xã hội thay đổi
theo hướng giá trị thu nhập từ các sản phẩm dịch vụ ngày càng tăng, từ đó dẫn đến nhiều
thay đổi của nền kinh tế như thay đổi về đầu tư, phân công lao động .v.v.
1.2 Khái niệm chất lượng.
Chất lượng sản phẩm là một phạm trù phức tạp mà con người hay gặp trong các
lĩnh vực hoạt động của mình. Có nhiều các định nghĩa khác nhau về chất lượng tùy thuộc
góc độ quan tâm của mỗi người. Thế nào là một sản phẩm có chất lượng có thể có nhiều
ý kiến khác nhau. VD: Một cái đồng hồ có chất lượng, tùy theo mỗi người có thể là chính
xác, kiểu dáng đẹp, bền, chịu va chạm, chịu nước, sang trọng, đắt tiền hoặc đạt tiêu chuẩn
quốc tế …)




Quan niệm thế nào là cơng việc có chất lượng cũng rất khác nhau. Có ý kiến xem
xét chủ yếu vào kết quả mà cơng việc đó đạt được nhưng cũng có ý kiến cho rằng điều cơ
bản là cơng việc phải được bắt đầu đúng.
Bất kỳ ai cũng đều mong muốn sản phẩm mà họ sử dụng có chất lượng cao. Chất
lượng một sản phẩm được coi là cao hay thấp tùy thuộc vào điều kiện sống, phong tục tập
quán và thay đổi theo từng thời gian. Tùy theo đối tượng sử dụng, từ "chất lượng" có ý
nghĩa khác nhau. Người sản xuất coi chất lượng là điều họ phải làm để đáp ứng các chuẩn
mực đã qui định và các yêu cầu do khách hàng đề ra. Chất lượng được so sánh với chất
lượng của đối thủ và đi kèm theo các chi phí, giá cả. Trong nền kinh tế thị trường, các
doanh nghiệp sản xuất hoặc mua sản phẩm là để bán cho người tiêu dùng. Chính vì vậy,
cần thiết phải nhìn nhận chất lượng sản phẩm dưới quan điểm của người tiêu dùng.
Philip Crosby: "Chất lượng là sự phù hợp với nhu cầu". Các nhu cầu về sản phẩm thường
được chuyển thành các đặc tính với chuẩn qui định, có thể bao gồm các khía cạnh về tính
năng sử dụng, tính dễ sử dụng, tính tin cậy, tính sẵn sàng, tính thuận tiện bảo dưỡng, an
tồn, môi trường, kinh tế, thẩm mỹ…
Một số định nghĩa về chất lượng:
- Chất lượng là “tổng thể những tính chất, thuộc tính cơ bản của sự vật (sự việc) …
làm cho sự vật (sự việc) này phân biệt với sự vật (sự việc) khác” (theo Từ điển tiếng Việt
phổ thông).
- Chất lượng là: “Cái làm nên phẩm chất, giá trị của sự vật” hoặc là: “Cái tạo nên
bản chất sự vật, làm cho sự vật này khác sự vật kia” (theo Từ điển tiếng Việt thông dụng,
NXB Giáo dục, 1998).
- Chất lượng là “Mức hoàn thiện, là đặc trưng so sánh hay đặc trưng tuyệt đối, dấu
hiệu đặc thù, các dữ kiện, các thông số cơ bản” (theo Oxford Pocket Dictionary).
- Chất lượng là “Tiềm năng của một sản phẩm hay dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu
người sử dụng” (Tiêu chuẩn Pháp – NFX 50 – 109)
- Theo định nghĩa của ISO 9000 – 2000 “Chất lượng là mức độ đáp ứng các yêu
cầu của một tập hợp các đặc tính vốn có”. Trong đó u cầu được hiểu là các như cầu hay

mong đợi đã được công bố, ngầm hiểu hay bắt buộc.
- Theo tiêu chuẩn của Liên Xơ: “Chất lượng sản phẩm là tổng thể những thuộc
tính của nó quy định tính thích dụng của sản phẩm để thỏa mãn những nhu cầu phù hợp
với công dụng của nó”.
- Theo tổ chức kiểm tra chất lượng Châu Âu – Eropean Organization for Quality
Control – cho rằng: “Chất lượng là mức phù hợp của sản phẩm đối với yêu cầu của người
tiêu dùng”.


- Chất lượng là “Tập hợp các đặc tính của một thực thể (đối tượng) tạo cho thực
thể (đối tượng) đó khả năng thỏa mãn những như cầu đã nêu ra hoặc nhu cầu tiềm ẩn”
(Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 5814 –1994 phù hợp với ISO/DIS 8402).
- Theo Harvey & Green (1993), chất lượng được thể hiện ở các khía cạnh đó là:
+ Sự xuất chúng, tuyệt vời, ưu tú, xuất sắc.
+ Sự hồn hảo.
+ Sự phù hợp, thích hợp.
+ Sự thể hiện giá trị.
+ Sự biến đổi về chất.
Tham khảo: Khái niệm chất lượng giáo dục
Tùy thuộc vào từng đối tượng, chất lượng mang nhiều định nghĩa khác nhau và có
mối liên quan với q trình đào tạo hoặc kết quả đầu ra. Trong các tranh luận về chất
lượng giáo dục đại học, người ta thường trích dẫn quan điểm của Green (1994), trong đó
ơng phân biệt nhiều định nghĩa chất lượng khác nhau:
Chất lượng là sự xuất sắc. Trong khai niệm nay chất lượng đồng nghĩa với đạt chuẩn
cao, tức là xuất sắc, là giỏi nhất. Theo quan điểm này, khi nói đến thúc đẩy chất lượng,
mọi người thường ngầm hiểu là thúc đẩy việc hướng đến sự xuất sắc. Tuy nhiên, khi khi
nhắc đến một trường đại học chất lượng khơng có nghĩa đó phải là một trường đại học
xuất sắc. Tất nhiên, tất cả các trường đại học đều cố gắng hết sức để có chất lượng,
nhưng khơng phải trường nào cũng có thể làm được như các trường đại học của Hoa
Kỳ…Thực tế không bao giờ tồn tại một quốc gia chỉ có tồn trường đại học xuất sắc. Một

trường đại học có thể lựa chọn không hướng đến sự xuất sắc, mà hướng đến việc đào tạo
nhân lực cao cho xã hội. Một trường đại học địa phương với sứ mạng phát triển quốc gia
sẽ theo đuổi mục đích chất lượng khác với những trường đại học hàng đầu khác.
Chất lượng là sự phù hợp mục tiêu. Với khái niệm này về chất lượng, câu hỏi cơ bản
nhất đặt ra cho một trường đại học là liệu họ có đạt được những mục tiêu đã đề ra hay
không. Khái niệm này liên quan đến chất lượng trong quy trình vận hành và ý nghĩa tập
trung vào sự cải thiện. Tuy nhiên, cách tiếp cận trên có bảo đảm đạt được ngưỡng chất
lượng đã đề ra hay không, do việc đánh giá mục tiêu không được đề cập ở đây. Một
trường có thể đặt ra mục tiêu dưới tầm và họ sẽ đễ dàng đạt được mục tiêu đó. Điều này
có nghĩa là chúng ta không những phải quan tâm đến sự phù hợp với mục tiêu mà cịn
phải xem xét tính phù hợp của mục tiêu đó.
Chất lượng là một ngưỡng đánh giá. Theo quan điểm này chất lượng được xem là
đạt được những mức yêu cầu đã đặt ra. Đây chính là cơ sở cho hoạt động kiểm định. Vấn
đề là không phải lúc nào chúng ta cũng có thể xác định định đúng mức chất lượng cơ bản.
Việc thiết lập các ngưỡng chất lượng và luôn tuân thủ các ngưỡng chất lượng sẽ khơng
kích thích được sự sáng tạo và đổi mới.
Chất lượng là giá trị gia tăng. Khái niệm này nhấn mạnh lên những tác động lên sinh


viên. Bản chất của giáo dục là đem lại cho người học những lợi ích nào đó. Ở đây chất
lượng có nghĩa là đem lại giá trị gia tăng cho sinh viên trong qu1a trình giáo dục và đào
tạo. Đây cũng là phương pháp xác định kết quả học tập dự kiến và kết quả đầu ra của sinh
viên tốt nghiệp. Câu hỏi đặt ra ở đây là các sinh viên đã học được những gì từ trường đại
học.
Chất lượng là đáng đồng tiền. Khái niệm này nhấn mạnh vào tính hiệu quả, có so
sánh kết quả đầu ra với nguồn lực đầu vào. Đây là một khái niệm được chính phủ ủng hộ
vì nó thường gắn liền với trách nhiệm giải trình.
Chất lượng là sự hài lịng của khách hàng. Cùng với sự xuất hiện của quan điểm
xem sinh viên là khách hàng, chất lượng được mô tả như sau: cái có chất lượng là cái đáp
ứng được nhu cầu của khách hàng, chất lượng là đem lại sự hài lịng cho khách hàng.

Từ các phân tích nêu trên, định nghĩa chất lượng là sự phù hợp với mục tiêu được
nhiều chuyên gia đảm bảo chất lượng cho là định nghĩa có giá trị nhất bởi vì đây là định
nghĩa khá linh hoạt, có thể bao hàm tất cả các định nghĩa khác và phù hợp với mọi mơ
hình đại học. Tuy nhiên, với công thức chất lượng là phù hợp với mục tiêu , một vấn đề
khác lại nảy sinh: thế nào là mục tiêu, phù hợp với mục tiêu là gì. Bên cạnh đó, quan
điểm về chất lượng còn phụ thuộc vào các đối tượng tiếp nhận khác nhau.

1.3 Quan niệm về chuẩn mực chất lượng
Chất lượng là khái niệm khó định nghĩa. Ý tưởng về chất lượng rất rộng, quan
niệm chất lượng thường mang tính cảm xúc và đạo đức hơn những chỉ số khách quan.
Đưa ra một quan niệm chính xác cho khái niệm chất lượng là không khả thi. Tuy nhiên,
cách hiểu chất lương theo quan điểm của Sallis (1993) là khả dĩ hơn cả.
Theo Sallis, chất lượng được hiểu theo nghĩa tương đối và nghĩa tuyệt đối. Khái
niệm chất lượng dùng trong cuộc sống hàng ngày thường mang ý nghĩa tuyệt đối. Theo
quan niệm này, thuật ngữ chất lượng thường được dùng để nói về những thứ tuyệt hảo,
tồn mỹ. Do đó, những thứ được coi là có chất lượng sẽ có những chuẩn mực rất cao
khơng thể vượt qua được. Chính sự tuyệt hảo của nó làm cho nó có giá trị và uy tín trong
chính bản thân nó. Sự hiếm hoi của các sản phẩm này cũng bao hàm trong “tính chất
lượng” của nó. Chất lượng hiểu theo nghĩa này chính là chất lượng cao, hay chất lượng
cao nhất. Hiểu chất lượng theo nghĩa này rất không thực tiễn, bởi đại bộ phận dân chúng
chỉ có thể ngưỡng mộ những sản phẩm có chất lượng, chỉ một số người trong họ muốn
được sở hữu chúng, nhưng rất ít người trong số đó có đủ điều kiện để sở hữu. Theo cách
hiểu này, rất ít cơ sở giáo dục – đào tạo có thể cung cấp dịch vụ đào tạo “chất lượng cao”
cho người học.
Quan niệm chất lượng theo nghĩa tương đối khơng xem chất lượng là thuộc tính
của đồ vật hoặc dịch vụ mà là cái người ta gán cho nó. Sản phẩm hay dịch vụ được coi là
có chất lượng khi chúng đạt những chuẩn mưc nhất định được quy định trước. Chất lượng


khơng được coi là cái đích mà nó được coi là phương tiện, theo đó sản phẩm hay dịch vụ

được đánh giá. Sản phẩm hay dịch vụ theo nghĩa này khơng nhất thiết phải đắt và đặc
biệt. Chúng có thể đẹp nhưng không nhất thiết phải như vậy. Chúng không nhất thiết phải
đặc biệt mà chúng có thể bình dân, gần gũi. Các vật dụng thông thường ta dùng hàng
ngày được coi là có chất lượng khi chúng đạt các chuẩn mực nhất định.
Định nghĩa chất lượng theo người tiêu dùng phân biệt ý nghĩa nghĩa tiêu dùng của
nó. Người sản xuất đưa ra các chuẩn mực chất lượng chưa chắc đã bảo đảm sự phù hợp
của sản phẩm. Guaspari (1985) viết: “Khách hàng quan tâm đến câu trả lời cho câu hỏi
đơn giản: sản phẩm được sản xuất ra có đúng như tơi cần hay khơng? Nếu câu trả lời là
có thì sản phẩm được sản xuất ra có chất lượng. Nếu câu trả lời là khơng, thì sản phẩm
làm ra khơng có chất lượng.”. Tại thời điểm đó sản phẩm hay dịch vụ được sản xuất ra
không phải khơng có chất lượng theo nghĩa đáp ứng các chuẩn mực người sản xuất mà nó
khơng phù hợp với u cầu của người tiêu dùng.
Crosby (1984), coi “chất lượng là sự phù hợp với những yêu cầu”. Theo ông, việc
xác định các yêu cầu của một sản phẩm hay dịch vụ là điều quan trọng nhất để hình dung
người sản xuất hay người cung cấp dịch vụ muốn làm ra cái gì và phục vụ như thế nào.
Người tiêu dùng là người xác định chất lượng (Sallis, 1993). Điều này rất đơn giản
vì người tiêu dùng là người phán quyết cuối cùng về chất lượng và nếu thiếu họ, các cơ
sở sản xuất và cung cấp dịch vụ khơng cịn lý do để tồn tại. Người tiêu dùng, theo Artzt
(1992), bao gồm người bán lẻ và người tiêu dùng ở khâu cuối cùng. Để có thể đưa ra các
chuẩn mực phù hợp với yêu cầu của khách hàng, nhà sản xuất phải nghiên cứu nhu cầu
của khách hàng và có đủ kiến thức để chuyển các nhu cầu đó vào sản phẩm theo cách
thức sáng tạo mới.
Như vậy, chất lượng có thể được định nghĩa là cái làm hài lịng, vượt những nhu
cầu và mong muốn của người tiêu dùng. Đây là định nghĩa thiết thực nhất. Khi mua sản
phẩm, thông thường người tiêu dùng sẵn sàng trả tiền cao cho các sản phẩm phù hợp với
họ và không phụ thuộc vào loại hàng gì.
Khách hàng là người phán xét chất lượng cuối cùng. Trước đó người sản xuất phải
tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ với chuẩn mực nhất định. Những chuẩn mực này phải phù
hợp với các chuẩn mực của khách hàng. Như vậy sẽ xuất hiện hai loại chuẩn mực: chuẩn
mực của sản phẩm, dịch vụ và chuẩn mực của người tiêu dùng. Chuẩn mực của sản

phẩm, dịch vụ là những chỉ số cụ thể trong khi đó chuẩn mực của người tiêu dùng là mức
độ hài lòng.


Chuẩn mực chất lượng
Chuẩn mực của sản phẩm, dịch vụ
+ Sự phù hợp với các chỉ số

Chuẩn mực của người tiêu dùng
+ Sự hài lòng của người tiêu dùng

+ Sự phù hợp về mục đích và việc tiêu + Mức độ vượt qua kỳ vọng
dùng
+ Sư hài lòng của khách hàng
+ Không hư hỏng
+ Dùng lần đầu, dùng các lần sau
1.4 Đặc điểm của chất lượng:
+ Chất lượng được đo bởi sự thỏa mãn nhu cầu. Nếu một sản phẩm nào đó khơng
đáp ứng được nhu cầu, khơng được thị trường chấp nhận thì phải bị coi là chất lượng
kém, cho dù trình độ cơng nghệ để chế tạo ra sản phẩm đó có thể rất hiện đại.
+ Chất lượng được đo bởi sự thỏa mãn nhu cầu, mà nhu cầu luôn biến động theo
thời gian, nên tiêu chuẩn chất lượng cũng luôn thay đổi theo thời gian, không gian, điều
kiện sử dụng. Quan niệm chất lượng phụ thuộc người tiêu dùng và được gắn liền với điều
kiện cụ thể của nhu cầu thị trường về các mặt kinh tế, kỹ thuật, xã hội, phong tục tập
quán. Vì vậy, nhà sản xuất định kỳ phải xem xét lại các yêu cầu chất lượng.
+ Chất lượng có thể áp dụng cho mọi thực thể, đó có thể là sản phẩm, một hoạt
động, một quá trình, một tổ chức hay một cá nhân.
+ Cần phân biệt giữa chất lượng và cấp chất lượng. Cấp chất lượng là phẩm cấp
hay thứ hạng định cho các đối tượng có cùng chức năng sử dụng nhưng khác nhau về yêu
cầu chất lượng. Ví dụ; khách sạn 1 sao, 2 sao...

1.5 Chất lượng tổng hợp:
Khái niệm chất lượng trên đây được hiểu theo nghĩa hẹp. Rõ ràng, trong thực tiễn
kinh doanh, khi nói đến chất lượng chúng ta không thể bỏ qua các yếu tố giá cả và dịch
vụ trong và sau khi bán. Đó là yếu tố mà khách hàng nào cũng quan tâm sau khi thấy sản
phẩm mà họ định mua thỏa mãn nhu cầu của họ. Ngoài ra, vấn đề giao hàng đúng lúc,
đúng thời hạn cũng là yếu tố vô cùng quan trọng trong sản xuất hiện đại. Để thỏa mãn


nhu cầu cũng cần quan tâm đến các yếu tố khác như: dịch vụ tiếp xúc với khách hàng,
cảnh quan, môi trường là việc của công ty. Trong những năm gần đây, khái niệm chất
lượng còn được mở rộng đến đạo đức cộng đồng trong sản phẩm dịch vụ.
Khi nói đến chất lượng, người ta thường có xu hướng nghĩ đến chất lượng sản
phẩm, nhưng trong quản lý chất lượng, chất lượng công việc mới là mối quan tâm hàng
đầu. Từ những phân tích trên đây người ta đã hình thành khái niệm chất lượng tổng hợp
được mô tả như sau:
Thỏa mãn nhu cầu

Giao hàng

………………………………… Giá cả

Dịch vụ
1.6 Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng:
1.6.1 Nhóm yếu tố bên ngồi:
* Địi hỏi của thị trường:
- Nhu cầu của thị trường về sản phẩm đó: Trên từng thị trường (trong nước hay nước
ngồi) lại có những u cầu khác nhau về đối tượng sử dụng. Nghiên cứu thường xuyên
về thị trường để định hướng cho các chính sách chất lượng trong hiện tại và tương lai là
một nhiệm vụ quan trọng khi xây dựng chiến lược phát triển sản xuất hướng về thị trường
của doanh nghiệp. Vì vậy, cần phải tiến hành nghiên cứu thị trường một cách thận trọng

và nghiêm túc trước khi tiến hành thiết kế, sản xuất sản phẩm.
- Trình độ phát triển của nền kinh tế, nền sản xuất: Đó là khả năng kinh tế (tài ngun,
tích lũy, đầu tư…) và trình độ kỹ thuật cơng nghệ (trang thiết bị, bí quyết, con người)
cho phép lựa chọn mức chất lượng phù hợp với sự phát triển chung của xã hội. Đảm bảo
chất lượng luôn là vấn đề nội tại của bản thân nền sản xuất xã hội nhưng việc nâng cao
chất lượng không thể vượt ra ngồi khả năng cho phép của nền kinh tế... Vì thế, muốn
nâng cao chất lượng phải nâng cao trình độ sản xuất, trình độ kinh tế.


- Các chính sách kinh tế: có tầm quan trọng đặc biệt ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm.
Chẳng hạn như hướng đầu tư, hướng phát triển các loại sản phẩm và mức thỏa mãn các
loại nhu cầu, chính sách thuế khóa, qui định xuất nhập khẩu, chính sách hợp tác kinh
tế .v.v., tạo ra điều kiện thuận lợi hay không thuận lợi cho sự phát triển của chất lượng
sản phẩm.
* Sự phát triển của khoa học kỹ thuật:
Ngày nay, khoa học kỹ thuật đã và đang trở thành một lực lượng sản xuất trực
tiếp, chất lượng của bất kỳ sản phẩm nào cũng bị chi phối bởi sự phát triển của khoa học
kỹ thuật, đặc biệt là việc ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Các
hướng chính của việc áp dụng khoa học kỹ thuật hiện nay là: Sáng tạo ra vật liệu mới hay
vật liệu thay thế; Cải tiến đổi mới công nghệ; Cải tiến sản phẩm cũ và chế thử sản phẩm
mới.
* Hiệu lực của cơ chế quản lý:
Trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết, quản lý của nhà nước, thông qua các
biện pháp kinh tế, kỹ thuật, hành chính, xã hội, được cụ thể hóa bằng nhiều chính sách
như cính sách đầu tư, chính sách giá, chính sách thuế, tài chính, chính sách hỗ trợ,
khuyến khích phát triển đối với một số doanh nghiệp, cách thức quản lý nhà nước về
pháp luật... Nhà nước có thể tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ổn định sản xuất, nâng
cao chất lượng sản phẩm.
1.6.2 Nhóm yếu tố bên trong (4M):
- Men : con người, lực lượng lao động trong doanh nghiệp. Bao gồm tất cả các thành

viên trong doanh nghiệp, từ những người lãnh đạo cấp cao nhất cho đến nhân viên thừa
hành. Năng lực, phẩm chất của mỗi thành viên và mối liên kết giữa các thành viên có ảnh
hưởng trực tiếp đến chất lượng.
- Methods: phương pháp quản trị, cơng nghệ, trình độ tổ chức quản lý và tổ chức sản
xuất của doanh nghiệp. Với phương pháp công nghệ thích hợp, với trình độ tổ chức quản
lý sản xuất tốt sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể khai thác tốt nhất các nguồn lực
hiện có, góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm.
- Machines: khả năng về cơng nghệ, máy móc thiết bị doanh nghiệp. Có tác động rất lớn
trong ciệc nâng cao những tính năng kỹ thuật của sản phẩm và nâng cao năng suất lao
động.


- Materials: vật tư, nguyên vật liệu, hệ thống tổ chức đảm bảo vật tư, nguyên vật liêu
của doanh nghiệp. Nguồn vật tư, nguyên nhiên liệu được cung cấp đúng số lượng, đúng
thời hạn sẽ tạo điều kiện nâng cao chất lượng sản phẩm.
Trong 4 yếu tố cơ bản trên, yếu tố con người được xem là quan trọng nhất. Ngồi ra,
chất lượng cịn chịu tác động của nhiều yếu tố khác như thông tin (Information), môi
trường (Enviroment), đo lường (Measure), hệ thống (System) .
2. Chất lượng giáo dục
2.1 Quan niệm về chất lượng giáo dục
Vấn đề chất lượng GDĐH được học giả nhiều nước quan tâm đã từ lâu. Tuy nhiên
để xác định thế nào là chất lượng GDĐH thì cịn nhiều ý kiến tranh cãi. Một vấn đề đặt ra
là nếu không định nghĩa chất lượng GDĐH là gì thì làm sao có thể xác định được chất
lượng và nâng cao chất lượng? Quan niệm về chất lượng của sản phẩm đào tạo thì những
ý tưởng ở những người khác nhau sẽ rất khác nhau.
6 quan điểm về chất lượng trong giáo dục đại học:
+ Chất lượng được đánh giá bằng “Đầu vào”
Một số nước phương Tây có quan điểm cho rằng “Chất lượng một trường đại học
phụ thuộc vào chất lượng hay số lượng đầu vào của trường đó”. Quan điểm này được gọi
là “quan điểm nguồn lực” có nghĩa là: Nguồn lực = chất lượng. Một trường đại học

tuyển được sinh viên giỏi, có đội ngũ cán bộ giảng dạy uy tín, có nguồn tài chính cần
thiết để trang bị các phịng thí nghiệm, giảng đường, các thiết bị tốt nhất được xem là
trường có chất lượng cao.
+ Chất lượng được đánh giá bằng “Đầu ra”
Quan điểm này cho rằng “đầu ra” của giáo dục đại học có tầm quan trọng hơn
nhiều so với “đầu vào” của q trình đào tạo. “Đầu ra” chính là sản phẩm của giáo dục
đại học được thể hiện bằng mức độ hồn thành cơng việc của sinh viên tốt nghiệp hay
khả năng cung cấp các hoạt động đào tạo của trường đó.
+ Chất lượng được đánh giá bằng “Giá trị gia tăng”
Quan điểm này cho rằng một trường đại học có tác động tích cực tới sinh viên khi
nó tạo ra được sự khác biệt trong sự phát triển về trí tuệ và cá nhân của sinh viên. “ Giá
trị gia tăng” được xác định bằng giá trị của “đầu ra” trừ đi giá trị của “đầu vào”, kết quả
thu được: là “giá trị gia tăng” mà trường đại học đã đem lại cho sinh viên và được đánh
giá là CLGDĐH.
+ Chất lượng được đánh giá bằng “Giá trị học thuật”
Đây là quan điểm truyền thống của nhiều trường đại học phương Tây, chủ yếu dựa
vào sự đánh giá của các chuyên gia về năng lực học thuật của đội ngũ cán bộ giảng dạy


trong từng trường trong q trình thẩm định cơng nhận chất lượng đào tạo đại học. Điều
này có nghĩa là trường đại học nào có đội ngũ giáo sư, tiến sĩ đơng, có uy tín khoa học
cao thì được xem là trường có chất lượng cao.
+ Chất lượng được đánh giá bằng “Văn hoá tổ chức riêng”
Quan điểm này dựa trên nguyên tắc các trường đại học phải tạo ra được “Văn hố
tổ chức riêng” hỗ trợ cho q trình liên tục cải tiến chất lượng. Một trường được đánh giá
là có chất lượng khi nó có được “Văn hố tổ chức riêng” với nét đặc trưng quan trọng là
không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo.
+ Chất lượng được đánh giá bằng “Kiểm toán”
Quan điểm này xem trọng quá trình bên trong trường đại học và nguồn thơng tin
cung cấp cho việc ra quyết định. Kiểm toán chất lượng quan tâm xem các trường đại học

có thu thập đủ thông tin phù hợp và những người ra quyết định có đủ thơng tin cần thiết
hay khơng, q trình thực hiện các quyết định về chất lượng có hợp lý và hiệu quả không.
Quan điểm này cho rằng nếu một cá nhân có đủ thơng tin cần thiết thì có thể có được các
quyết định chính xác, và chất lượng GDĐH được đánh giá qua q trình thực hiện, cịn
“Đầu vào” và “Đầu ra” chỉ là các yếu tố phụ.

Một số quan niệm ở Việt Nam:
- Chất lượng đào tạo được đánh giá qua mức độ đạt được mục tiêu đào tạo đã đề ra
đối với một chương trình đào tạo (Lê Đức Ngọc, Lân Quang Thiệp – Đại học Quốc gia
Hà Nội).
- Chất lượng đào tạo là kết quả của quá trình đào tạo được phản ánh ở các đặc
trưng về phẩm chất, giá trị nhân cách và giá trị sức lao động hay năng lực hành nghề của
người tốt nghiệp tương ứng với mục tiêu, chương trình đào tạo theo các ngành nghề cụ
thể (Trần Khánh Đức – Viện Nghiên cứu phát triển giáo dục).
- Chất lượng giáo dục là chất lượng thực hiện các mục tiêu giáo dục (Lê Đức Phúc
- Viện Khoa học giáo dục).
Hiện nay, khái niệm về chất lượng đào tạo cịn có nhiều điểm khác nhau, do từ
“chất lượng” được dùng chung cho cả hai quan niệm: chất lượng tuyệt đối và chất
lượng tương đối.
Với quan niệm chất lượng tuyệt đối thì từ “chất lượng” được dùng cho những sản
phẩm, những đồ vật hàm chứa trong nó những phẩm chất, những tiêu chuẩn cao nhất khó
có thể vượt qua được. Nó được dùng với nghĩa chất lượng cao, hoặc chất lượng hàng đầu.
“Đó là cái mà hầu hết chúng ta chiêm ngưỡng, nhiều người trong chúng ta muốn có, và
chỉ có số ít người trong chúng ta có thể có”.


Với quan niệm chất lượng tương đối thì từ “chất lượng” dùng để chỉ một số
thuộc tính mà người ta gán cho sản phẩm, đồ vật. Theo quan niệm này thì một vật, một
sản phẩm, hoặc một dịch vụ được xem là có chất lượng khi nó đáp ứng được các mong
muốn mà người sản xuất định ra, và các u cầu mà người tiêu thụ địi hỏi. Từ đó dễ

dàng thấy rằng, chất lượng tương đối có hai khía cạnh:
+ Khía cạnh thứ nhất là đạt được mục tiêu (phù hợp với tiêu chuẩn) do người sản
xuất đề ra, ở đây chất lượng được xem là “chất lượng bên trong”.
+ Khía cạnh thứ hai, chất lượng được xem là sự thỏa mãn tốt nhất những đòi hỏi
của người dùng, chất lượng được xem là “chất lượng bên ngoài”.
Mỗi cơ sở đào tạo ln có một nhiệm vụ được ủy thác, nhiệm vụ này thường do
các chủ sở hữu quy định, điều này chi phối mọi hoạt động của nhà trường. Từ nhiệm vụ
được ủy thác này, nhà trường xác định các mục tiêu đào tạo của mình sao cho phù hợp
với nhu cầu sử dụng của xã hội - đạt “chất lượng bên ngoài”; và các hoạt động của nhà
trường sẽ được hướng vào nhằm đạt mục tiêu đó – đạt “chất lượng bên trong”
Quan niệm về chất lượng giáo dục

NHU CẦU XÃ HỘI

Kết quả đào tạo phù hợp
nhu cầu sử dụng → Đạt chất
lượng ngoài

KẾT QUẢ ĐÀO TẠO

Kết quả đào tạo khớp với
mục tiêu đào tạo → Đạt chất
lượng trong

MỤC TIÊU
ĐÀO TẠO

2.2 Các lý thuyết về chất lượng
Các học giả nghiên cứu chất lượng trong GDĐH phân ra ba trường phái lý thuyết:
lý thuyết về sự khan hiếm của chất lượng; lý thuyết về sự gia tăng giá trị và lý thuyết về

chất lượng xét theo sứ mệnh và mục tiêu.
2.2.1 Lý thuyết khan hiếm: Chất lượng đồng nghĩa với sự khan hiếm, tinh hoa và
tuân theo quy luật hình chóp. Chất lượng đào tạo chỉ có ở một số ít các cơ sở đào tạo có
uy tín, tuyển chọn khắc khe, có nguồn lực dồi dào cịn phần lớn là khơng có chất lượng
thực sự. Những bằng chứng chất lượng theo quan điểm này là:


* Chi phí lớn thì chất lượng cao;
* Chỉ những trường đại học lớn mới có chất lượng;
* Chỉ khi sự tuyển chọn khắt khe mới có chất lượng;
* Chỉ những trường đại học được công nhận trong phạm vi tồn quốc mới có
chất lượng;
* Chỉ một số trường đại học và cao đẳng có chất lượng;
* Chỉ những trường đại học có nguồn lực mới có chất lượng.
Thơng thường chất lượng có quan hệ thuận với chi phí. Tuy nhiên, điều này khơng
có nghĩa chi phí càng cao thì chất lượng càng cao. Một số quan điểm khác cho rằng có
thể dựa trên chất lượng giảng dạy để đánh giá chất lượng của nhà trường, nhưng trong
thực tế kết quả đào tạo phụ thuộc rất nhiều vào sự học tập tích cực của sinh viên, chứ
khơng chỉ phụ thuộc vào việc giảng dạy. Tuyển chọn đầu vào khắt khe là một cơ sở để có
chất lượng, nhưng các điều kiện khác trong q trình giảng dạy cũng có ý nghĩa quyết
định đến chất lượng.
Theo quan điểm này thì chất lượng được hiểu theo nghĩa tuyệt đối. Chính quan
điểm chỉ có một số ít sản phẩm có chất lượng đã hạn chế tác dụng của các hoạt động nâng
cao chất lượng.
2.2.2.Lý thuyết giá trị gia tăng: (Astin, 1985) Chất lượng được phản ánh qua sự gia
tăng ở người học kiến thức, kỹ năng và thái độ sau một quá trình đào tạo. Các cơ sở đào
tạo có chất lượng tập trung vào thực hiện sự gia tăng này ở người tốt nghiệp và được
công chúng, xã hội thừa nhận. Các tiêu chí xác định đầu ra (sản phẩm đào tạo) là những
dấu hiệu quan trọng của chất lượng đào tạo.
Viện Quốc gia về Giáo dục Hoa Kỳ (1984) cho rằng để duy trì chất lượng:”các cơ

sở đại học đã chứng tỏ sự tiến bộ của sinh viên về kiến thức, năng lực, kỹ năng và thái độ
khi tốt nghiệp so với lúc họ vừa nhập trường”. Họ cũng khuyến cáo:”các cán bộ giảng
dạy và các nhà quản lý nhà trường cần thiết kế và đưa vào thực hiện một cách hệ thống
chương trình đánh giá kiến thức, năng lực và kỹ năng đã được phát triển nhờ thực hiện
các chương trình học tập”. Các trường phải đưa ra các chuẩn mực sản phẩm họ đào tạo
để có thể đo đếm, xác định chất lượng.
2.2.3 Lý thuyết về sự phù hợp với sứ mệnh và mục tiêu: “Chất lượng là sự phù hợp
với những tuyên bố sứ mệnh và kết quả đạt được của mục tiêu trong phạm vi các chuẩn
mực được chấp nhận công khai” (Bogue và Saunder, 1992). Theo lý thuyết này chất


lượng khơng phải là sự khan hiếm mà có một phổ chất lượng rộng rãi tương ứng với bối
cảnh và điều kiện cụ thể của từng cơ sở đào tạo. Chất lượng hiện hữu trong quá trình từng
nhà trường xác định và tổ chức thực hiện sứ mệnh và mục tiêu của cơ sở đào tạo.
Theo Green (1994), trường đại học chất lượng cao là “ nơi mà tuyên bố sứ mệnh
và mục tiêu đã chứa đựng ý nghĩa chất lượng và được thực hiện một cách có kết quả và
hiệu quả”
Chất lượng hiểu theo quan niệm này có nhiều ưu thế, chất lượng có thể được điều
tiết trong quá trình xây dựng kế hoạch chiến lược của các cơ sở GDĐH:
- Sự tơn trọng và khẳng định tính đa dạng của sứ mệnh (nhiệm vụ) và những đặc
điểm về lịch sử và môi trường. Chất lượng được so sánh với nhiệm vụ đặt ra và mục tiêu
tiến tới;
- Yêu cầu tính hành động của sứ mệnh và mục tiêu; mục tiêu của nhà trường phải
đưa ra trên các mặt kiến thức, kỹ năng, giá trị tương ứng với các loại văn bằng khác nhau;
- Hướng vào mục tiêu mà nhà trường dự định đạt được chứ không hướng vào
những gì đang có và khuyến khích hành động để đạt được các mục tiêu;
- Khuyến khích sự cơng khai các nhiệm vụ, chức năng, các mục tiêu và kết quả
mong đợi của nhà trường với công chúng. Thảo luận rộng rãi những vấn đề liên quan
giúp tăng cường việc bảo đảm chất lượng của trường (các quyết định, các bằng chứng
chất lượng, các chỉ số thực hiện, cách thức đánh giá…)

- Cụ thể hóa mục tiêu thành các tiêu chí đánh giá dựa trên các mục tiêu của từng
lĩnh vực hoạt động và từng loại sản phẩm và dịch vụ mà nhà trường cung cấp cho người
học, người tiêu dùng và toàn bộ xã hội.
Điểm yếu của định nghĩa chất lượng theo quan niệm này: các chỉ tiêu chất lượng
sẽ phụ thuộc vào khả năng xác định các mục tiêu và sứ mệnh mà nhiều khi cơng việc này
có thể khơng được tiến hành tốt.
2.3 Các tiêu chí đánh giá chất lượng và chất lượng giáo dục
Chất lượng nói chung và chất lượng đào tạo nói riêng là những thuật ngữ, khái
niệm cơ bản được nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau. Theo Từ điển tiếngViệt thông
dụng, Chất lượng được hiểu là: “Cái làm nên phẩm chất, giá trị của sự vật” hoặc là “Cái
tạo nên bản chất sự vật, làm cho sự vật này khác sự vật kia” (NXB Giáo dục, 1998). Như
vậy thuật ngữ “chất lượng” phản ánh thuộc tính đặc trưng, giá trị, bản chất của sự vật và
tạo nên sự khác biệt (về chất) giữa sự vật này với sự vật khác.


Trong lĩnh vực sản xuất – kinh doanh, chất lượng sản phẩm được đặc trưng bởi
các yếu tố về nguyên vật liệu chế tạo, quy trình và cơng nghệ sản xuất, các đặc tính về sử
dụng kể cả về mẫu mã, thị hiếu, mức độ đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng v.v … Các đặc
tính chất lượng có thể được thể hiện tường minh qua các chỉ số kỹ thuật – mỹ thuật, mức
tiêu thụ của sản phẩm trên thị trường và có thể so sánh dễ dàng với các sản phẩm khác
cùng loại và đương nhiên chúng có các giá trị, giá cả khác nhau.
Trong lĩnh vực đào tạo, chất lượng đào tạo với đặc trưng sản phẩm là “con người
lao động” có thể hiểu là kết quả (đầu ra) của quá trình đào tạo và được thể hiện cụ thể ở
các phẩm chất, giá trị nhân cách và giá trị sức lao động hay năng lực hành nghề của
người tốt nghiệp tương ứng với mục tiêu đào tạo của từng ngành đào tạo trong hệ thống
đào tạo, Với yêu cầu đáp ứng nhu cầu nhân lực của thị trường lao động, quan niệm về
chất lượng đào tạo khơng chỉ dừng ở kết quả của q trình đào tạo trong nhà trường với
những điều kiện đảm bảo nhất định như cơ sở vật chất, đội ngũ GV … mà cịn phải tính
đến mức độ phù hợp và thích ứng của người tốt nghiệp với thị trường lao động như tỷ lệ
có việc làm sau tốt nghiệp, năng lực hành nghề tại các vị trí làm việc cụ thể ở các doanh

nghiệp, cơ quan, các tổ chức sản xuất – dịch vụ, khả năng phát triển nghề nghiệp … Tuy
nhiên cần nhấn mạnh rằng chất lượng đào tạo trước hết phải là kết quả của quá trình đào
tạo và được thể hiện trong hoạt động nghề nghiệp của người tốt nghiệp. Q trình thích
ứng với thị trường lao động không chỉ phụ thuộc vào chất lượng đào tạo mà còn phụ
thuộc vào các yếu tố khác của thị trường như quan hệ cung – cầu, giá cả sức lao động,
chính sách sử dụng và bố trí cơng việc của Nhà nước và người sử dụng lao động v.v …
Do đó khả năng thích ứng cịn phản ảnh cả về hiệu quả đào tạo ngoài xã hội và thị trường
lao động.
Quan hệ giữa mục tiêu và chất lượng đào tạo
Quá trình đào tạo

MỤC TIÊU ĐÀO TẠO

Kiến thức

NGƯỜI TỐT NGHIỆP

Kỹ năng

Thái độ

Theo chương trình đào tạo

CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO

1). Đặc trưng, giá trị nhân
cách, xã hội, nghề nghiệp
2) Giá trị sức lao động
3) Năng lực hành nghề
4) Trình độ chun mơn

nghề nghiệp (kiến thức, kỹ
năng …)
5) Năng lực thích ứng với
thị trường lao động
6) Năng lực phát triển nghề
nghiệp


Xuất phát từ quan niệm về chất lượng đào tạo nêu trên, hệ thống các tiêu chí đánh giá
chất lượng đào tạo đối với từng ngành đào tạo nhất định có thể bao gồm các tiêu chí sau:
1. Phẩm chất về xã hội - nghề nghiệp (đạo đức, ý thức, trách nhiệm, uy tín v.v …).
2. Các chỉ số về sức khỏe, tâm lý, sinh học …
3. Trình độ kiến thức, kỹ năng chuyên môn.
4. Năng lực hành nghề (cơ bản và thực tiễn).
5. Khả năng thích ứng với thị trường lao động.
6. Năng lực nghiên cứu và tiềm năng phát triển nghề nghiệp.
Theo tác giả Vương Nhất Bình mơ hình tiêu chuẩn về yêu cầu chất lượng SV tốt
nghiệp đại học bao gồm các thành tố sau:
1. Đạo đức: trách nhiệm xã hội, các giá trị văn hóa - đạo đức như sự thông cảm,
khoan dung, trách nhiệm, ý thức xã hội - công dân…
2. Kiến thức: Các cơ sở khoa học chung và chuyên ngành, tri thức công nghệ và
chuyên môn, các lĩnh vực liên ngành…
3. Năng lực: Khả năng thu thập và đánh giá, lựa chọn và xử lý thông tin; giải quyết
vấn đề, năng lực phê phán và biện chứng; học suốt đời …
4. Kỹ năng: Sử dụng trang thiết bị đa năng và máy tính; các dụng cụ, phương tiện
điển tử; lái xe…
5. Khả năng: về ngơn ngữ, giao tiếp, tư duy tích lũy tri thức, suy xét, am hiểu các
vấn đề toàn cầu…
6. Sức khỏe, chỉ số EQ…
Dựa vào các tiêu chí trên, chúng ta có thể thiết kế các bài tập đánh giá tổng hợp về

trình độ phát triển kiến thức, kỹ năng nói riêng và năng lực hành nghề và phát triển nghề
nghiệp của người tốt nghiệp sau một quá trình đào tạo đồng thời kết hợp với các đánh giá
khác về phẩm chất xã hội – nghề nghiệp, về sức khỏe và đặc trưng tâm - sinh lý v.v …
Trên cơ sở đó có thể hình thành hệ thống đánh giá phần loại quốc gia về chất lượng đào
tạo theo năng lực hành nghề của các ngành nghề đào tạo cụ thể trong hệ thống đào tạo.
Trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông, chất lượng giáo dục được phản ánh trước hết ở
các phẩm chất và năng lực của học sinh (nhân cách học sinh) được hình thành và phát
triển thơng qua quá trình giáo dục ở các bậc, cấp học theo mục tiêu chung của giáo dục là
“Đào tạo con người Việt Nam phát triển tồn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm
mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình
thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.” (Điều 2 Luật Giáo dục năm 2005).
Mục tiêu này có thể được cụ thể hóa theo các tiêu chí sau:
1. Phẩm chất về đạo đức, xã hội (đạo đức, ý thức, trách nhiệm, …).


2. Các chỉ số về sức khỏe, tâm lý, sinh học …
3. Trình độ kiến thức, kỹ năng (theo các bậc học vấn phổ thông).
4. Năng lực học tập, sống và thích nghi.
5. Tiềm năng phát triển cá nhân (thể lực, trí tuệ).

Tham khảo:
CÁC CHỈ SỐ THỰC HIỆN VÀ CHUẨN MỰC CHẤT LƯỢNG TRONG GDĐH
Khái niệm quan trọng giúp xác định chất lượng và quản lý chất lượng GDĐH: chỉ
số thực hiện và chuẩn mực chất lượng.
Chỉ số thực hiện được coi như những thông số chung để so sánh, đánh giá các cơ
sở GDĐH. Chỉ số thực hiện có thể hiểu là những giá trị đo bằng số để phản ánh mức
độ, thuộc tính, hoạt động của hệ thống hay các cơ sở GDĐH.
Báo cáo Jarratt (1985) phân biệt các chỉ số đầu vào, chỉ số quá trình và chỉ số đầu
ra. Các chỉ số đầu vào liên quan đến nguồn nhân lực, vật lực và tài chính mà các cơ

sở GDĐH sử dụng. Các chỉ số quá trình liên quan đến cường độ hoặc năng suất sử
dụng nguồn lực và những cố gắng của quản lý sử dụng hiệu quả nguồn lực đầu vào
trong các hoạt động của nhà trường. Các chỉ số “bối cảnh” cũng được dùng như chỉ số
đầu vào khi chúng tác động đáng kể đến kết quả đầu ra.
Cullen (1987) khuyến cáo sử dụng các chỉ số thực hiện theo các nhóm: chỉ số hiệu
quả, chỉ số kết quả và chỉ số kinh tế. Ngoài ra, các chỉ số chung và chỉ số chi tiết cũng
được sử dụng như các chỉ số thực hiện.
Tại Anh Quốc, các chỉ số thực hiện sau đây được ban hành năm 1986: thu nhập
thông qua nghiên cứu; kinh phí cho đào tạo sau đại học và nâng cao nghiệp vụ; tỷ lệ
sinh viên sau đại học theo phương thức nghiên cứu; số sinh viên được tài trợ; số
người tốt nghiệp có việc làm sau 12 tháng; tỷ lệ lãng phí trong đào tạo đại học (bỏ
học, lưu ban); số người có việc làm ổn định sau 5 năm tốt nghiệp; ấn phẩm, sáng chế,
hợp đồng, bản quyền; đánh giá của đồn thanh tra; số tạp chí mà cơ sở GDĐH xuất
bản; thành viên các hội đồng nghiên cứu; chi phí cho một sinh viên tốt nghiệp; tỷ lệ
sinh viên trên giảng viên; chi phí thiết bị cho một giảng viên; chi phí quản lý trên đầu
sinh viên; chi phí nhà xưởng trên đầu sinh viên; chi phí thư viện trên đầu sinh viên;
chi phí tư vấn nghề nghiệp trên đầu sinh viên; chi phí y tế trên đầu sinh viên; thiết bị
thể thao trên đầu sinh viên; những chi phí khác tại trường trên đầu sinh viên; tỷ lệ cán
bộ phục vụ trên đầu sinh viên. Năm 1987, có một số chỉ tiêu thực hiện được sửa đổi
trong lĩnh vực tài chính.


Cave và những người khác (1988) đã xác định 14 nhóm chỉ số thực hiện được sử
dụng trong hệ thống đại học Anh Quốc, chia hai nhóm giảng dạy và nghiên cứu:
(1) Chất lượng đầu vào của sinh viên;
(2) Kết quả bằng cấp;
(3) Chi phí / sinh viên hay tỷ lệ sinh viên / giảng viên;
(4) Mức tiến bộ của sinh viên từ khi vào trường đến khi ra trường;
(5) Tỷ lệ hồn trả;
(6) Tỷ lệ lãng phí;

(7) Tỷ lệ có việc làm;
(8) Đánh giá đồng nghiệp về sinh viên;
(9) Số sinh viên học theo phương thức nghiên cứu;
(10) Số ấn phẩm, bằng sáng chế;
(11) Chất lượng nghiên cứu;
(12) Thu nhập thông qua nghiên cứu;
(13) Đánh giá đồng nghiệp về nghiên cứu;
(14) Kết quả xếp hạng.
Johns và Taylor (1990) dùng các chỉ số thực hiện theo các yếu tố đầu vào, quá
trình và đầu ra để đánh giá các trường đại học Anh Quốc.
Các chỉ số đầu vào bao gồm: đội ngũ (giảng dạy và phục vụ), nhà xưởng, thiết bị,
đất đai, sinh viên.
Các chỉ số quá trình gồm: hoạt động giảng dạy, hoạt động nghiên cứu, hoạt động
quản lý, hoạt động trợ giúp và tư vấn dịch vụ.
Các chỉ số đầu ra bao gồm: người tốt nghiệp (tỷ lệ tốt nghiệp, có việc làm và phát
triển nghề nghiệp), tỷ lệ lãng phí, kết quả nghiên cứu (ấn phẩm, phát minh và sáng chế),
kết quả làm dịch, đầu ra về văn hóa.
Tại Hoa Kỳ, khoảng 1/3 tiểu bang có hệ thống chỉ số thực hiện đang được áp
dụng. Các chỉ số thực hiện được xây dựng để đưa cơ chế chịu trách nhiệm vào thực hiện
rộng rãi (Neal, 1995). Các chỉ số thục hiện được sử dụng ở Hoa Kỳ thường liên quan đến
hoạt động nghiên cứu, đào tạo và phục vụ xã hội. Các chỉ số về hoạt động nghiên cứu
thường là số ấn phẩm, số tiến sĩ được cơ sở đào tạo từng năm, lượng tiền khai thác được
theo các hợp đồng v.v… Các chỉ số giảng dạy thường liên quan đến số giảng viên và sinh
viên. Đội ngũ giảng viên thường được đánh giá qua các chỉ số giải thưởng, danh hiệu,
học hàm, mức lương, bằng cấp được đào tạo. Sinh viên được đánh giá theo các chỉ số: kết
quả trắc nghiệm năng lực, trắc nghiệm tuyển sinh, thành công nổi bật của sinh viên sau
khi tốt nghiệp. Ngồi ra, các cơ sở GDĐH cịn được đánh giá theo các chỉ số chung như:
kinh phí/sinh viên, số sách thư viện, nhà xưởng, tài trợ, tiền quyên góp, tỷ lệ sinh



viên/giảng viên, tài trợ nghiên cứu hàng năm (Cave và những người khác, 1988).
Những năm gần đây, các tiểu bang đã đưa ra các chỉ số thực hiện để các cơ sở
GDĐH cơng khai trách nhiệm của mình trước cơng chúng. Theo nghiên cứu của Ruppert
(1995), 12 nhóm chỉ số sau đây được sử dụng phổ biến nhất: tổng số văn bằng được cơ sở
GDĐH cấp trong một khoảng thời gian nhất định; chỉ số tuyển sinh/lưu ban/tốt nghiệp
theo giới, dân tộc và chương trình đào tạo; tài trợ nghiên cứu thu được; chuẩn mực tuyển
sinh và kết quả năm thứ nhất so với chuẩn đặt ra; số lượng và tỷ lệ các chương trình đào
tạo đã được kiểm nhận; số tín chỉ/sinh viên theo trường và mơn học; các hoạt động phụ
đạo và hiệu quả của phụ đạo; tỷ lệ sinh viên chuyển từ cơ sở GDĐH 2 năm lên cơ sở
GDĐH 4 năm; tỷ lệ được cấp chứng chỉ hành nghề của sinh viên tốt nghiệp; tỷ lệ có việc
làm sau khi tốt nghiệp; kết quả nghiên cứu sự hài lòng của cựu sinh viên, sinh viên, cha
mẹ sinh viên và người sử dụng lao động.
Hệ thống đại học tiểu bang New York (SUNY) đã xác định hệ thống tiêu chuẩn
của các chỉ số thực hiện bao gồm các tiêu chuẩn bản chất và các tiêu chuẩn kỹ thuật.Các
chỉ số thực hiện ít nhất một trong số các tiêu chuẩn bản chất và đạt tất cả các tiêu chuẩn
kỹ thuật.
Có thể nói rằng các chỉ số thực hiện của GDĐH Hoa kỳ rất đa dạng, thay đổi theo
từng cấp đào tạo, từng cơ sở GDĐH và từng tiểu ban.

--------------------------------------



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×