Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

TIỂU LUẬN HÀNG HOÁ SỨC LAO ĐỘNG VÀ VẤN ĐỀ TIỀN LƯƠNG CẢI CÁCH TIỀN LƯƠNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (348.87 KB, 19 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ..............................................................................2
I. LÝ LUẬN CỦA C.MÁC VỀ HÀNG HOÁ SỨC
LAO ĐỘNG. ................................................................................4
1. Khái niệm sức lao động: ...........................................4
2. Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hoá: .....4
3. Hai thuộc tính của hàng hố sức lao động: ............5
3.1. Giá trị của hàng hoá sức lao động ........................5
3.2. Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động...........6
II. VẤN ĐỀ TIỀN LƯƠNG, CẢI CÁCH TIỀN
LƯƠNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY...........................................7
1. Thực trạng tiền lương, cải cách tiền lương ở Việt Nam
hiện nay ................................................................................................ 7
2. Những thành quả đạt được từ q trình cải cách chính
sách tiền lương ở Việt Nam hiện nay .................................................. 12
3. Những hạn chế còn tồn đọng trong chính sách tiền lương
ở nước ta hiện nay ................................................................................ 13
4. Những định hướng hoàn thiện, cải cách chính sách tiền
lương ở Việt Nam ................................................................................. 15
KẾT LUẬN ..................................................................................... 18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................... 19

1|Page


MỞ ĐẦU
Thế giới đang chứng kiến những chuyển biến nhanh như vũ bão của
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Nhiều lĩnh vực đã có những bước phát
triển đột phá ở thời kì này, trong đó có làn sóng số hố của lĩnh vực sản
xuất. Nhiều quốc gia đã nhận thức được tầm quan trọng của kinh tế tri thức


và bắt đầu quan tâm, cụ thể hoá các ưu tiên phát triển kinh tế số. Việt Nam
cũng khơng nằm ngồi xu hướng đó. Hiện nay, đất nước ta cũng đang phải
đối diện với những thách thức mà xu thế số hoá đem lại, một trong số đó là
nguy cơ cạnh tranh về con người, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao ở
các doanh nghiệp. Nguồn lực, sức lao động sáng tạo của con người luôn là
vấn đề then chốt quyết định sự phát triển, sức mạnh của một đất nước nên
việc phát triển thị trường hàng hoá sức lao động sao cho phù hợp là một
yêu cầu cấp thiết đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay, đặc biệt trong bối
cảnh đất nước muốn giàu mạnh khi nguồn tài nguyên thiên nhiên dần cạn
kiệt còn khoa học kĩ thuật đang có những bước phát triển mạnh mẽ, nhanh
chóng.
Lý luận của C. Mác về loại hàng hoá đặc biệt – hàng hoá sức lao
động đã cung cấp nhiều luận điểm khoa học, tồn diện và biện chứng. Trên
cơ sở đó, tạo tiền đề vững chắc cho việc lý giải các vấn đề về thị trường của
loại hàng hoá đặc biệt này và áp dụng các giải pháp vào thực tiễn xã hội
nhằm cải cách chính sách tiền lương ở Việt Nam.
Trong các thời kỳ phát triển đất nước, Việt Nam đã nhiều lần cải
cách chính sách tiền lương để phù hợp với nên kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập. Dù đạt được những thành cơng nhất
định, song chính sách tiền lương của nước ta vẫn còn rất nhiều hạn chế,
nhất là cơ chế tạo nguồn chưa được tháo gỡ dẫn đến việc cải cách tiền
lương bị rơi vào vòng luẩn quẩn. Điều này đặt ra yêu cầu cần một cuộc cải
cách đúng đắn, toàn diện, đồng bộ; dựa trên thực tiễn và các bằng chứng
2|Page


kha học thuyết phục, nhằm tạo ra động lực phát huy nhân tố con người
trong sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội, thực hiện tốt hơn công bằng xã
hội, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, đáp ứng
yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc

tế.
Từ đó, em xin chọn đề tài “Hàng hố sức lao động và vấn đề tiền
lương, cải cách tiền lương ở Việt Nam hiện nay” để lãm rõ hơn vấn đề này.

3|Page


I.

LÝ LUẬN CỦA C.MÁC VỀ HÀNG HỐ SỨC
LAO ĐỘNG.

Hàng hố sức lao động là một thứ hàng hoá đặc biệt vì nó có thể tạo
ra giá trị thặng dư, tức là trong q trình sử dụng loại hàng hố này, giá trị
của nó khơng những được bảo tồn mà cịn tạo ra được giá trị mới lớn hơn
giá trị bản thân nó.
Để hiểu rõ hơn cũng như để giải thích kỹ hơn vì sao hàng hố sức
lao động là hàng hoá đặc biệt, hãy cùng đi làm sáng tỏ những vấn đề sau.
1. Khái niệm sức lao động:
Sức lao động là năng lực lao động (của con người), bao gồm toàn bộ
những toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần, tồn tại trong một cơ
thể con người đang sống; và được người này đem ra vận dụng mỗi khi tạo
ra một giá trị sử dụng nhất định nào đó.
2. Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hoá:
Trong bất cứ xã hội nào, sức lao động cũng là điều kiện cơ bản của
sản xuất. Nhưng không phải trong bất kì điều kiện nào sức lao động cũng là
hàng hoá. Thực tiễn lịch sử thời kỳ chiếm hữu nô lệ cho thấy, bản thân
người nô lệ thuộc sở hữu của chủ nơ, họ khơng có quyền bán sức lao động
của mình do đó sức lao động chính của người nơ lệ khơng phải hàng hố.
Sức lao động chỉ có thể trở thành hàng hố khi và chỉ khi thoả mãn những

điều kiện sau:
Thứ nhất, người lao động phải được tự do về thân thể, làm chủ sức
lao động của bản thân mình và có quyền bán sức lao động của mình như
một hàng hố.

4|Page


Thứ hai, người lao động khơng có đủ tư liệu sản xuất cần thiết để tự
kết hợp với sức lao động của mình tạo ra hàng hố để bán, cho nên họ phải
bán sức lao động.
Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện nói trên tất yếu biến sức lao động
trở thành hàng hoá. Sức lao động biến thành hàng hoá là điều kiện tiên
quyết để tiền biến thành tư bản. Trong các hình thái xã hội trước chủ ngĩa
tư bản chỉ có sản phẩm của lao động mới là hàng hoá. Chỉ đến khi sản xuất
hàng hoá phát triển đến một mức độ nhất định nào đó, các hình thái sản
xuất xã hội cũ bị phá vỡ thì mới xuất hiện những điều kiện để sức lao động
trở thành hàng hố.
3. Hai thuộc tính của hàng hố sức lao động:
Cũng giống như mọi hàng hoá khác, hàng hoá sức lao động cũng có
hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng.
3.1.

Giá trị của hàng hoá sức lao động

Thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức
lao động là nhân tố quyết định giá trị hàng hoá sức lao động. Nhưng sức lao
động chỉ tồn tại dựa trên năng lực sống của con người. Muốn tái sản xuất
năng lực đó, người cơng nhân phải sử dụng một lượng tư liệu sinh hoạt
nhất định về ăn, ngủ, nghỉ, học nghề,…Vậy thời gian lao động xã hội cần

thiết để tái sản xuất sức lao động sẽ quy thành thời gian lao động xã hội cần
thiết để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt ấy. Nói cách khác, giá trị của
hàng hố sức lao động là giá trị của hàng hố đóng vai trị là tư liệu sinh
hoạt cần thiết và tối thiểu để ni sống người cơng nhân và gia đình họ, kể
cả khoản chi phí đào tạo người cơng nhân. Chỉ có như vậy thì sức lao động
mới được sản xuất và tái sản xuất một cách liên tục.
Giá trị hàng hoá sức lao động đậc biệt ở chỗ nó cịn bao hàm cả yếu
tố tinh thần và yếu tố lịch sử, phụ thuộc vào hoàn lịch sử của từng nước,
5|Page


từng thời kì, trình độ văn minh của mỗi quốc gia. Do đó, quy mơ tư liệu
sinh hoạt cần thiết cho người lao động là một đại lượng nhất định. Ta có
thể xác định lượng giá trị hàng hố sức lao động qua ba thành phần sau
đây:
Một là, giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết (cả vật chất, tinh thần) để tái
sản xuất sức lao động, duy trì đời sống người lao động.
Hai là, chi phí đào tạo người lao động.
Ba là, giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết về vật chất và tinh thần cho
gia đình người lao động.
Ngoài ra, giá trị sức lao động trong một thời kì chịu sự tác động của
hai xu hướng đối lập nhau. Một mặt, giá trị sức lao động tăng khi sản xuất
càng phát triển dẫn đến nhu cầu về lao động phức tạp tăng, và khi nhu cầu
về tư liệu sinh hoạt tăng theo đà tiến bộ của lực lượng sản xuất; mặt khác,
giá trị sức lao động sẽ giảm khi năng suất lao động xã hội tăng .
3.2.

Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động

Giống như các hàng hố thơng thường khác, giá trị sử dụng hàng hoá

sức lao động cũng nhằm thoả mãn nhu cầu của người mua. Cơng dụng của
nó biểu hiện qua q trình tiêu dùng hàng hố sức lao động hay chính là
q trình lao động của người cơng nhân. Đối với hàng hố thơng thường,
sau q trình tiêu dùng hay sử dụng thì giá trị lẫn giá trị sử dụng của nó đều
tiêu biến theo thời gian. Nhưng đối với hàng hố sức lao động, q trình
tiêu dùng chính là q trình sản xuất, đồng thời là quá trình sức lao động
tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó. Như vậy, giá trị sử
dụng là thuộc tính tạo nên tính chất đặc biệt (đặc tính) của sức lao động và
phần dơi ra ngồi trong q trình sản xuất trên chính là giá trị thặng dư.
Đây chính là chìa khố để giải thích mâu thuẫn của cơng thức chung của tư
bản. Chính đặc tính này đã làm cho sự xuất hiện của hàng hoá sức lao động
6|Page


trở thành điều kiện để tiền tệ chuyển hoá thành tư bản. Khơng những thế,
hàng hố sức lao động cũng là điều kiện của sự bóc lột chứ khơng phải cái
quyết định có hay khơng có bóc lột, nói cách khác bản chất của giá trị
thặng dư là sự chiếm đoạt sức lao động của nhà tư bản.

II.

VẤN ĐỀ TIỀN LƯƠNG, CẢI CÁCH TIỀN
LƯƠNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
1. Thực trạng tiền lương, cải cách tiền lương ở Việt Nam
hiện nay

Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường, tiền lương là vấn đề rất quan
trọng được nhiều người quan tâm, nhất là người lao động. Bởi, tiền lương
có liên quan trực tiếp đến thu nhập, mức sống, khả năng tái sản xuất sức lao
động của người lao động và cũng là nhân tố quan trọng quyết định sự thành

công hay thất bại trong sản xuất kinh doanh của người sử dụng lao động.
Tiền lương được xác định trên thị trường lao dộng thơng qua hình thức thoả
thuận giữa người lao động với người sử dụng lao động, phù hợp với quan
hệ cung-cầu sức lao động và tuân thủ các quy định của pháp luật.
Trong những năm qua, công cuộc đổi mới kinh tế của nước đã và
đang đạt được nhiều thành tựu trên mọi lĩnh vực, đặc biệt trong việc nâng
cao đời sống của nhân dân thể hiện qua các chính sách phát triển kinh tế
nhiều thành phần, đầu tư phát triển kinh tế nhiều thành phần, đầu tư phát
triển giáo dục đào tạo, phát triển y tế nâng cao sức khoẻ,… và tiền công của
người lao động cũng nhiều lần được thay đổi để phù hợp với nhu cầu cuộc
sống.
Thực hiện đường lối “Đổi mới” của Đảng đã chuyển đổi nền kinh tế
từ kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần vận
hành theo có chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Điều đó đã làm thay đổi sâu sắc từ nhận thức đến hành động
7|Page


trên mội lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực lao động – tiền lương. Do đó, hệ
thống chính sách, pháp luật về tiền lương được ban hành và bước đầu đã
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sử dụng lao động có hiệu quả hơn
người lao động có việc làm và thu nhập ổn định.
Nước ta đã trải qua 4 đợt cải cách chính sách tiền lương vào các năm
1960, năm 1985, năm 1993, năm 2003. Cụ thể như sau:
Cải cách tiền lương giai đoạn 1960-1984
Trước năm 1960, vấn đề tiền lương của Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà được quy định trong các sắc lệnh số 10-SL về việc tạm thời áp
dụng các văn bản pháp luật của chế độ cũ để lại; sắc lệnh số 29 ngày
12/3//1947 quy định chế độ lao động trong toàn cõi Việt Nam. Sau khi lập
lại hịa bình, những u cầu đặt ra trong việc sửa đổi chế độ tiền lương đối

với người lao động tại miền Bắc Việt Nam lần đầu tiên được đưa ra vào
năm 1957 và sau khi hoàn thành cải tạo kinh tế xã hội chủ nghĩa thì được
triển khai chính thức vào năm 1960. Trong đợt cái cách này, vấn đề tiền
lương tối thiểu được Chính phủ giới hạn trực tiếp bằng việc quy định cụ thể
các mức lương của các ngành. Trong mỗi ngành đều có mức khởi điểm
được trả cho người lao động ứng với cơng việc địi hỏi trình độ và cường
độ lao động thấp nhất.
Một trong những điểm nhấn của chính sách cải cách tiền lương ở
Việt Nam trong giai đoạn 1960-1984 là hướng tới mục tiêu chiếu cố toàn
diện, cân nhắc kỹ lưỡng giữa yêu cầu và khả năng, kết hợp nguyên tắc với
thực tế để vận dụng đúng đắn nguyên tắc phân phối theo lao động vào tình
hình thực tế đất nước,…, chống chủ nghĩa bình qn, phải chống xu hướng
địi công bằng hợp lý một cách tuyệt đối, không phù hợp với hoàn cảnh
thực tế của đất nước.
Cải cách tiền lương giai đoạn 1985-1992
8|Page


Giai đoạn này được đánh dấu bằng việc ban hành Nghị quyết của
Hội nghị Trung ương 8 khóa V (tháng 6-1985) và Nghị định số 235/HĐBT
ngày 18/9/1985 của Hội đồng Bộ trưởng về cải tiến chế độ tiền lương của
công nhân, viên chức và các lực lượng vũ trang đã dẫn đến một cuộc cải
cách lớn mở đầu cho thời kỳ đổi mới đất nước. Đến ngày 28/12/1988, Hội
đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 202-HĐBT về tiền lương công nhân, viên
chức sản xuất kinh doanh khu vực quốc doanh và công tư hợp doanh và
Quyết định số 203-HĐBT về tiền lương cơng nhân, viên chức hành chính
sự nghiệp, lực lượng vũ trang và các đối tượng hưởng chính sách xã hội.
Theo đó, tiền lương tối thiểu được nâng lên 22.500 đồng/tháng.
Năm 1987, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được Quốc hội
thông qua, từ đây thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi bắt đầu xuất

hiện ở Việt Nam. Lao động làm việc trong khu vực này phải chịu áp lực
cao, địi hỏi trình độ chun môn, nghiệp vụ và cường độ lao động cao hơn.
Do đó, cần phải có quy định riêng về tiền lương tối thiểu cho lao động làm
việc ở khu vực có vốn đầu tư nước ngồi để có thể đánh giá đúng giá trị
sức lao động mà người lao động bỏ ra và bảo đảm sự công bằng. Và vào
ngày 29-8-1990, Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội ra Quyết
định số 356/LĐTBXH/QĐ về mức lương tối thiểu của người lao động
trong các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi. Theo đó, mức lương tối thiểu
dành cho người lao động làm việc trong khu vực có vốn đầu tư nước ngồi
là 50 USD/tháng.
Chính sách cải cách tiền lương của Việt Nam trong giai đoạn 19851992 đã có những cải thiện đáng kể trong việc cải cách tiền lương mặc dù
cịn nhiều hạn chế; đã có sự phân định về tiền lương tối thiểu đối với các
doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi,
đảm bảo sự cơng bằng trong việc trả cơng cho người lao động.
Cải cách tiền lương giai đoạn 1993-2002
9|Page


Trong giai đoạn này, một số văn bản pháp luật mới được ra đời. Nghị
định số 26/CP quy định tạm thời chế độ tiền lương mới trong các doanh
nghiệp; ngày 23/5/1993, Nghị định số 25/CP được chính phủ ban hành,
quy định tạm thời chế độ tiền lương mới của công chức, viên chức hành
chính - sự nghiệp và lực lượng vũ trang; Nghị định số 197/CP ngày
31/12/1994 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật
Lao động về tiền lương; Thông tư số 11/LĐTBXH-TT ngày 3/5/1995
hướng dẫn Nghị định số 197/ CP... Chính phủ ra Nghị định số 06/CP vào
ngày 21/1/1997 về việc giải quyết tiền lương và trợ cấp năm 1997 đối với
công chức, viên chức hành chính - sự nghiệp, người nghỉ hưu, nghỉ mất
sức, lực lượng vũ trang cán bộ xã, phường và một số đối tượng hưởng
chính sách xã hội. Ngày 27-3-2000, Chính phủ ra Nghị định số

10/2000/NĐ-CP về việc quy định tiền lương tối thiểu trong các doanh
nghiệp. Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội ra Quyết định số
708/1999/QĐ-BLĐTBXH quy định mức lương tối thiểu cho lao động trong
khu vực có vốn đầu tư nước ngồi. Ngày 15-12-2000, Chính phủ ra Nghị
định số 77/2000/NĐ-CP Về việc điều chỉnh mức lương tối thiểu, mức trợ
cấp và sinh hoạt phí đối với các đối tượng hưởng lương, phụ cấp, trợ cấp và
sinh hoạt phí.
Trong giai đoạn 1993-2002, mục tiêu của cải cách chính sách tiền
lương của Việt Nam là làm cho tiền lương tối thiểu phải thực sự là “lưới an
toàn” cho người lao động, đảm bảo cho họ duy trì được mức sống tối thiểu
cần thiết và tái sản xuất sức lao động; đáp ứng yêu cầu tiền tệ hóa tiền
lương, dần thay thế và tiến tới xóa bỏ chế độ phân phối hiện vật có tính
chất tiền lương. Việc ban hành Bộ luật Lao động vào năm 1994 đã xác lập:
ghi nhận một cách đầy đủ, toàn diện tiền lương tối thiểu trong văn bản pháp
lý có hiệu lực cao là Bộ luật, Bộ Luật Lao động góp phần tạo nên trật tự

10 | P a g e


cho các quan hệ xã hội trong lĩnh vực lao động thay đổi theo hướng tích
cực và hội nhập thế giới.
Cải cách tiền lương giai đoạn 2003-2020
Giai đoạn này được đánh dấu bằng các văn bản: Nghị quyết số
09/2002/QH11 về dự toán ngân sách nhà nước năm 2003; Nghị quyết số
14/2002/QH11 về nhiệm vụ năm 2003; Nghị định số 03/2003/NĐ-CP ngày
15/1/2003 về điều chỉnh tiền lương, trợ cấp xã hội và đổi mới một bước cơ
chế quản lý tiền lương; Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 về
chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ
trang. Tiếp đó, ngày 15/9/2005, Chính phủ ra Nghị định số 118/2005/NĐCP điều chỉnh mức lương tối thiểu chung lên 350.000 đồng/tháng. Ngày 410-2005, Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội ra Thông tư số
25/TT-BLĐTBXH hướng dẫn điều chỉnh tiền lương và phụ cấp lương

trong doanh nghiệp theo Nghị định số 118/2005/NĐ-CP để cụ thể hóa
chính sách tiền lương mới trong khu vực doanh nghiệp,. Chính phủ ra Nghị
định số 03/2006/NĐ-CP ngày 6/1/2006 quy định về mức lương tối thiểu
đối với lao động Việt Nam làm việc cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngồi tại Việt Nam. Chính phủ ban hành Nghị định số 94/2006/NĐ-CP
điều chỉnh mức lương tối thiểu chung, nâng mức lương tối thiểu chung lên
450.000 đồng/tháng vào ngày 7/9/2016
Từ năm 2004 đến nay, Việt Nam đã liên tục hoàn thiện chế độ tiền
lương trên cơ sở mở rộng quan hệ tiền lương, thu gọn hệ thống thang, bảng,
ngạch, bậc lương, đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính đối với đơn vị
sự nghiệp công lập.
Các quy định về tiền lương của giai đoạn 2003-2020 vừa có xu
hướng đảm bảo cuộc sống của người lao động và gia đình họ; vừa không
tạo ra gánh nặng cho quỹ lương của Nhà nước và người sử dụng lao động,
11 | P a g e


đảm bảo tính hợp lý và hài hịa lợi ích giữa các bên tham gia quan hệ lao
động.
2. Những thành quả đạt được từ q trình cải cách chính sách
tiền lương ở Việt Nam hiện nay
Trong những năm qua, công cuộc cải cách chính sách tiền cơng ở
nước ta đạt được nhiều thành tựu đáng kể:
Chủ trương về cải cách chính sách tiền lương của Đảng từ năm 2003
đến nay là đúng đắn, phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Đặc biệt quan điểm coi việc trả lương đúng cho người lao động
là thực hiện đầu tư cho phát triển, tạo động lực để phát triển kinh tế và nâng
cao chất lượng dịch vụ cơng, góp phần làm trong sạch và nâng cao hiệu
lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước.
Tách dần tiền lương khu vực sản xuất kinh doanh với khu vực hành

chính nhà nước và khu vực sự nghiệp cung cấp dịch vụ cơng; chính sách
tiền lương với chính sách bảo hiểm xã hội và ưu đãi người có cơng, trợ
giúp xã hội. Đó là bước ngoặt rất quan trọng cải cách tiền lương trong điều
kiện mới theo định hướng thị trường.
Chú ý gắn cải cách tiền lương cán bộ, cơng chức, viên chức với cải
cách hành chính và xây dựng nền công vụ, tinh giảm biên chế khu vực
hành chính nhà nước, phát triển khu vực sự nghiệp cung cấp dịch vụ công
theo nhu cầu phát triển của xã hội.
Tiếp tục đổi mới cơ chế tiền lương, mở rộng và làm rõ trách nhiệm,
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của đơn vị sự nghiệp công lập trong việc
xếp lương, trả lương gắn với chất lượng và hiệu quả cung cấp dịch vụ cơng
theo tinh thần xã hội hóa. Đây cũng là định hướng rất quan trọng trong cải
cách và trong cơ chế tạo nguồn cải cách tiền lương cán bộ, công nhân, viên
chức.
12 | P a g e


Tiền lương danh nghĩa của cán bộ, công nhân, viên chức có xu
hướng tăng do nhiều lần điều chỉnh mức lương tối thiểu chung trên cơ sở
bù trượt giá và tăng trưởng kinh tế, mở rộng quan hệ tiền lương tối thiểu trung bình - tối đa, từng bước tiền tệ hóa các khoản ngồi lương nhằm khắc
phục bình qn, bao cấp và ổn định đời sống của CBCCVC
3. Những hạn chế cịn tồn đọng trong chính sách tiền lương ở
nước ta hiện nay
Bên cạnh các thành quả đạt được, chính chính sách tiền lương của
Việt Nam vẫn cịn nhiều bất cập so với nhu cầu của thực tiễn phát triển đất
nước:
Về chính sách tiền lương chung đối với doanh nghiệp, phạm vi điều
chỉnh của mức lương tối thiểu chỉ áp dụng đối với người lao động làm việc
theo hợp đồng lao động nên còn hạn hẹp, dẫn đến việc bảo vệ người lao
động cịn hạn chế. Bên cạnh đó, các yếu tố xác định, điều chỉnh mức lương

tối thiểu chưa rõ ràng, bao quát đầy đủ đặc điểm của thị trường lao động
nhất là trong điều kiện tạo cơ hội cho các doanh nghiệp tư nhân (chủ yếu
doanh nghiệp nhỏ và vừa) hình thành và phát triển.
Việc Chính phủ quy định các nguyên tắc xây dựng thang, bảng
lương, nhất là quy định thang, bảng lương phải bảo đảm khoảng cách bậc ít
nhất 5% chỉ phù hợp với giai đoạn đầu nhằm hạn chế tính trạng ép lương
của người lao động. Đến nay, quy định này khơng cịn phù hợp, vì vơ hình
chung đã can thiệp trực tiếp đến thang, bảng lương của doanh nghiệp,
khuyến khích doanh nghiệp trả lương theo thâm niên mà không phải trả
lương cho người làm theo năng suất lao động của họ. Người làm nhiều,
năng suất cao không được hưởng mức lương tương xứng với công sức họ
bỏ ra. Đồng thời, đã làm triệt tiêu động lực thương lượng của 2 bên để có
tiền lương cao hơn, khơng thúc đẩy xây dựng chính sách tiền lương gắn với
13 | P a g e


năng suất lao động, nâng cao năng suất lao động để nâng cao tiền lương,
tạo động lực thúc đẩy sản xuất phát triển.
Vấn đề thương lượng tiền lương giữa người lao động và người sử
dụng lao động nhìn chung chưa phát huy được tác dụng, kém hiệu quả,
tranh chấp lao động về tiền lương còn phổ biến. Trong bối cảnh hiện nay
sức ép việc làm còn rất lớn, năng lực thỏa thuận của người lao động hạn
chế, thông tin về tiền lương cịn thiếu, cơng tác hướng dẫn, tun truyền
chưa đầy đủ, công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát chưa sát sao dẫn đến
thương lượng tiền lương vẫn chỉ phổ biến đối với lao động quản lý và lao
động chun mơn, kỹ thuật cao.
Về chính sách tiền lương đối với doanh nghiệp nhà nước, chính sách
quản lý lao động chưa quy định rõ trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu
doanh nghiệp là Tổng giám đốc (Giám đốc), Hội đồng thành viên trong
tuyển dụng, sử dụng lao động, trách nhiệm kiểm tra, giám sát của chủ sở

hữu dẫn đến nhiều trường hợp tuyển dụng lao động chưa thực sự xuất phát
từ u cầu cơng việc, gắn với vị trí việc làm, số lượng lao động nhiều, chất
lượng lao động chưa đáp ứng được yêu cầu dẫn đến số lao động dưa thừa
khi tái cơ cấu ngày càng nhiều. Điều đó khiến cho Nhà nước vẫn phải tiếp
tục sắp xếp, tái cơ cấu lao động và giải quyết lao động dôi dư.
Tiền lương của người lao động được xác định trên tiêu chí, nguyên
tắc chung (gắn với năng suất lao động, lợi nhuận), và chưa phân biệt được
yếu tố lợi thế ngành nghề, yếu tố nguồn lực nhà nước đầu tư cho doanh
nghiệp, dẫn đến tiền lương của người lao động vẫn có sự chênh lệch khá
lớn giữa các doanh nghiệp ở các ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh
khác nhau, hưởng mức lương cao (gấp 2 - 3 lần bình qn chung) nhưng
khơng hồn tồn do năng suất lao động tạo ra.
Tiền lương, tiền thưởng đối với viên chức quản lý dù đã được điều
chỉnh nhưng nhìn chung vẫn chỉ bằng khoảng 50% so với các chức danh
14 | P a g e


quản lý tương đương trên thị trường nên chưa tạo được động lực cho những
người quản lý có tài. Ngày nay, trên thực tế có một số trường hợp doanh
nghiệp hoạt động kém hiệu quả, thậm chí thua lỗ nhưng đưa ra nhiều lý do
khách quan cho việc các viên chức quản lý vẫn hưởng mức lương cao (vài
chục triệu đồng/tháng) gây bức xúc dư luận.
Chưa tách bạch giữa tiền lương, tiền thưởng của đại diện chủ sở hữu
(Hội đồng thành viên, Kiểm soát viên do đại diện chủ sở hữu bổ nhiệm để
giúp chủ sở hữu giám sát doanh nghiệp) với ban quản lý điều hành (Ban
Giám đốc), dẫn đến Hội đồng thành viên, Kiểm soát viên vẫn hưởng mức
lương bằng với mức lương Ban giám đốc và chủ yếu do doanh nghiệp chi
trả, làm giảm tính khách quan, độc lập và hiệu quả trong giám sát, chỉ đạo
doanh nghiệp.
Quản trị lao động trong nội bộ doanh nghiệp còn yếu, tổ chức sắp

xếp lao động chưa khoa học, tiền lương chưa phù hợp với vị trí cơng việc.
Mức lương trả cho lao động có trình độ thấp cao hơn trên thị trường, ngược
lại trả cho lao động kỹ thuật cao thấp hơn so với thị trường, dẫn đến chưa
khuyến khích được lao động giỏi tích cực lao động, đóng góp nhiều cho
doanh nghiệp. Khơng những thế, những lao động có trình độ chun mơn,
kỹ thuật cao sẽ dần chuyển dịch sang khu vực doanh nghiệp khác, trong khi
lao động trình độ thấp vẫn cố gắng bám vào doanh nghiệp nhà nước; gây ra
khó khăn cho việc tái cơ cấu lao động.
4. Những định hướng hồn thiện, cải cách chính sách tiền lương
ở Việt Nam
Q trình thực hiện chính sách cải cách tiền lương tối thiểu đã và
đang gặp phải những rào cản, bất hợp lý khi giá cả thị trường, lạm phát,
thất nghiệp ngày càng tăng, mất cân đối giữa cung – cầu lao động trên thị
trường; bất cập về mức lương tối thiểu; quan hệ giữa các mức lương tối
thiểu – trung bình – tối đa; hệ thống thang, bảng lương; chế độ nâng ngạch,
15 | P a g e


nâng bậc; cơ chế quản lý tiền lương và thu nhập… Điều này đặt ra yêu cần
một cuộc cải cách chính sách tiền lương tồn diện, đồng bộ dựa trên nhu
cầu của thực tiễn, phân tích khoa học thuyết phục. Dưới đây là một số giải
pháp giúp cải thiện chính sách tiền cơng ở Việt Nam:
Thứ nhất, vận dụng lí luận hàng hóa sức lao động của C.Mác một
cách sáng tạo có hiệu quả vào thực tiễn Việt Nam. Khẳng định tiền lương
trong khu vực doanh nghiệp là giá cả sức lao động, hình thành trên cơ sở
thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động theo quy luật
của thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Phân phối tiền lương dựa trên
kết quả lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh, bảo đảm mối quan hệ lao
động hài hòa, ổn định và tiến bộ trong doanh nghiệp.
Thứ hai, hồn thiện chính sách về tiền lương tối thiểu cho phù hợp

với yêu cầu phát triển của thị trường ở hoàn cảnh hội nhập khu vực và quốc
tế, trong đó quy định mức lương tối thiểu theo giờ nhằm nâng cao độ bao
phủ của tiền lương tối thiểu và đáp ứng tính linh hoạt của thị trường lao
động; xác định và điều chỉnh mức lương tối thiểu nhằm bảo đảm mức sống
tối thiểu của người lao động.
Thứ ba, giảm dần sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước và sau đó tiến
tới xố bỏ, để các doanh nghiệp (kể cả doanh nghiệp 100% vốn nhà nước)
được tự chủ quyết định chính sách tiền lương (trong đó có thang, bảng
lương, định mức lao động) và trả lương phù hợp với tổ chức sản xuất, tổ
chức lao động, khả năng của doanh nghiệp và công khai tại nơi làm việc để
người lao động, cơng đồn giám sát.
Thứ tư, hoàn thiện cơ chế thỏa thuận về tiền lương trong doanh
nghiệp thông qua việc thiết lập cơ chế đối thoại, thương lượng và thoả
thuận giữa các chủ thể trong quan hệ lao động theo hướng công khai, minh
bạch, dân chủ, đảm bảo hài hịa lợi ích của người lao động và người sử
dụng lao động, tạo sự đồng thuận cao; tăng cường vai trò và năng lực của
16 | P a g e


tổ chức đại diện của người lao động trong quan hệ lao động phù hợp với
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Thứ năm, nâng cao trình độ tay nghề, tăng cường đào tạo nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực. Tay nghề của công nhân, chất lượng của cán bộ
công chức nhà nước cịn hạn chế do đó tiền cơng mà họ nhận được cịn
thấp. Khi chất lượng tăng thì năng suất lao động tăng, từ đó nếu cơng sức
lao động bỏ ra nhiều thì địi hỏi số tiền lương trả sẽ tăng phù hợp với họ.
Thứ sáu, tổ chức tốt các hoạt động cung cấp dịch vụ cơng: để chính
sách tiền lương khu vực sản xuất kinh doanh được thực thi có hiệu quả cần
thiết phải tổ chức và phát triển các hoạt động cung cấp dịch vụ công, nhất
là dịch vụ thông tin thị trường lao động, dạy nghề, tư vấn và giới thiệu việc

làm; dịch vụ hỗ trợ phát triển quan hệ lao động trong doanh nghiệp; dịch vụ
theo dõi, giám sát, phân tích và dự báo xu hướng tiền lương trên thị trường;
dịch vụ về an sinh xã hội và phúc lợi xã hội...
Thứ bảy, tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát về phân phối tiền
lương và thu nhập trong doanh nghiệp. Một mặt, đảm bảo cho thị trường
lao động hoạt động khách quan theo đúng nguyên tắc của thị trường; tiền
lương, tiền công phải do thị trường quyết định. Mặt khác, phải đảm bảo cho
thị trường phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa; tiền lương,
tiền công phải thực sự được phân phối công bằng.

17 | P a g e


KẾT LUẬN
Qua bài tiểu luận trên, ta đã nắm được các thơng tin về hàng hố sức
lao động cũng như vai trị quan trọng của hàng hố sức lao động trong thị
trường kinh tế. Ngoài ra, ta cũng thấy được sự kết hợp hài hoà giữa những
lý luận về hàng hố sức lao động và tiền cơng trong chủ nghĩa tư bản của
C.Mác với thực tiễn vấn đề tiền công ở Việt Nam hiện nay. Bên cạnh
những thành tựu đạt được, vấn đề về tiền công ở nước ta vẫn cịn nhiều bất
cập hạn chế khơng thể tránh khỏi. Việc tiền cơng nước ta cịn thấp do nhiều
ngun nhân tuy nhiên chủ yếu do quan hệ tiền lương và giá cả bất hợp lý
hiện nay. Vì vậy Đảng Nhà Nước và toàn thể nhân dân cần đề ra và áp
dụng giải pháp thiết thực giúp hồn thiện chính sách tiền công hiện nay.

18 | P a g e


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chỉ đạo cải cách hành chính của Chínhh phủ

/>
2. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội
/>3. Giáo trình “Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin”;

Tác giả: Nguyễn Viết Thơng, Phạm Văn Sinh; NXB Chính trị Quốc
gia, năm 2013
4. Tạp chí Tổ chức Nhà nước
/>5. Vấn đề thực trạng về tiền lương ở Việt Nam hiện nay
/>
19 | P a g e



×