Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Bình luận án lệ số 41/2021/AL về chấm dứt hôn nhân thực tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (442.42 KB, 6 trang )

BÌNH LUẬN ÁN LỆ SỐ 41/2021/AL VỀ CHẤM DỨT HƠN NHÂN THỰC TẾ
ThS. Huỳnh Thị Nam Hải
Khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế - Luật
Đại học quốc gia TP.HCM (VNU –HCM)
Tóm tắt
Trong phạm vi bài viết này tác giả trình bày một số vấn đề chung về hôn nhân
thực tế cũng như của giải pháp pháp lý được đưa ra trong án lệ số 41/2021/AL về chấm
dứt hôn nhân thực tế. Có thể thấy việc ban hành án lệ nêu trên có ý nghĩa quan trọng
trong việc giải quyết các vụ việc liên quan đến vấn đề chấm dứt hôn nhân thực tế nhất là
trong bối cảnh quy định pháp luật về vấn đề này chưa được đầy đủ, rõ ràng.
Từ khóa: Án lệ số 41/2021/AL, chấm dứt hơn nhân thực tế, hôn nhân thực tế.
1. Một số vấn đề chung về hơn nhân thực tế
Dưới góc độ pháp lý tại Việt Nam, chung sống như vợ chồng không đăng ký kết
hơn có thể được hiểu là việc nam, nữ xác lập quan hệ vợ chồng và thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của vợ chồng với nhau, với gia đình và với xã hội nhưng khơng tiến hành đăng
ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Trước khi Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000
ra đời, trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng có đủ điều kiện kết hôn nhưng
không thực hiện việc đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền cịn được gọi là “hôn
nhân thực tế”.
Thuật ngữ “hôn nhân thực tế” xuất hiện lần đầu tiên trong Thông tư số 112/NCPL
ngày 19/08/1972 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn xử lý về dân sự những việc kết
hôn vi phạm điều kiện kết hôn. Hôn nhân thực tế là hôn nhân được công nhận dựa trên cơ
sở thực tế là các bên nam, nữ đã và đang chung sống như vợ chồng, có đủ điều kiện kết
hơn nhưng khơng đăng kí kết hơn tại cơ quan đăng kí kết hơn có thẩm quyền95. Hay theo
Thơng tư liên tịch số 01/2001/TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001 của Toà án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ tư pháp, được coi nam và nữ
chung sống với nhau như vợ chồng, nếu họ có đủ điều kiện kết hơn theo quy định của
Luật hơn nhân và gia đình năm 2000 và thuộc một trong các trường hợp sau đây: có tổ
chức lễ cướï khi về chung sống với nhau; việc họ chung sống với nhau được gia đình
(một hoặc hai bên) chấp nhận; việc họ chung sống với nhau được người khác hay tổ chức
chứng kiến; họ thực sự chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ, cùng nhau xây dựng gia


đình.
Như vậy, có thể thấy rằng “hơn nhân thực tế” là một quan hệ thực tế được xác lập
giữa một người nam và một người nữ chung sống với nhau như vợ chồng, tuy có đủ điều
95

Thơng tư số 112/NCPL ngày 19/08/1972 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn xử lý về dân sự những việc kết
hôn vi phạm điều kiện kết hôn ghi nhận: “Chỉ coi là hôn nhân thực tế việc kết hôn chưa đăng ký kết hôn mà hai bên
nam nữ đã tuân thủ đầy đủ các điều kiện kết hôn khác chỉ vi phạm thủ tục đăng ký kết hôn”.

70


kiện theo quy định của pháp luật nhưng lại không đăng ký kết hôn. Khái niệm “Hôn nhân
trên thực tế” được các thẩm phán Việt Nam và sau đó là nhà lập pháp đưa ra nhằm trao
cho một số cặp đôi chung sống tự do không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật
tư cách vợ chồng hợp pháp. Điều này có nghĩa là khi được thừa nhận là hơn nhân thực tế,
giữa các bên có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ như vợ chồng trong hôn nhân hợp pháp dù
không đăng ký kết hôn theo quy định. Tuy nhiên, đây chỉ là giải pháp tạm thời nhằm giải
quyết tình trạng chung sống như vợ chồng khơng đăng ký kết hôn trong giai đoạn lịch sử
trước đây. Việc thừa nhận hôn nhân thực tế được xem như là một chế định bổ khuyết
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của các bên trong quan hệ hơn nhân.
Hiện nay, để giải quyết hậu quả pháp lý của quan hệ hôn nhân thực tế, Điều 131
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định về điều khoản chuyển tiếp như sau: “1.
Quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập trước ngày Luật này có hiệu lực thì áp dụng
pháp luật về hơn nhân và gia đình tại thời điểm xác lập để giải quyết; 2. Đối với vụ việc
về hơn nhân và gia đình do Tịa án thụ lý trước ngày Luật này có hiệu lực mà chưa giải
quyết thì áp dụng thủ tục theo quy định của Luật này; 3. Không áp dụng Luật này để
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với vụ việc mà Tòa án đã giải quyết
theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình trước ngày Luật này có hiệu lực”.
Do đó, các quy định liên quan đến hôn nhân thực tế vẫn được áp dụng. Căn cứ Mục 3

Nghị quyết 35/2000/NQ-QH10 thì những trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập
trước ngày 03 tháng 01 năm 1987, ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực
mà chưa đăng ký kết hơn thì được khuyến khích đăng ký kết hơn; trong trường hợp có
u cầu ly hơn thì được Toà án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hơn của Luật hơn
nhân và gia đình năm 2000; trường hợp nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ
ngày 03 tháng 01 năm 1987 đến ngày 01 tháng 01 năm 2001, mà có đủ điều kiện kết hơn
theo quy định của Luật này thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ
ngày Luật này có hiệu lực cho đến ngày 01 tháng 01 năm 2003; trong thời hạn này mà họ
khơng đăng ký kết hơn, nhưng có u cầu ly hơn thì Tồ án áp dụng các quy định về ly
hơn của Luật hơn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết. Từ sau ngày 01 tháng 01 năm
2003 mà họ khơng đăng ký kết hơn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng; Kể từ
ngày 01 tháng 01 năm 2001 trở đi, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 3
của Nghị quyết này, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết
hôn, đều không được pháp luật cơng nhận là vợ chồng; nếu có u cầu ly hơn thì Tồ án
thụ lý và tun bố khơng cơng nhận quan hệ vợ chồng; nếu có u cầu về con và tài sản
thì Tồ án áp dụng quy định của Luật hơn nhân và gia đình để giải quyết.
2. Khái quát chung về án lệ tại Việt Nam
Tại Việt Nam, khái niệm về án lệ lần đầu tiên được chính thức ghi nhận tại Nghị
quyết số 03/2015/NQ-HĐTP do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành
ngày 28/10/2015 (có hiệu lực từ ngày 16/12/2015). Điều 1 Nghị quyết này quy định: “án
lệ là những lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của
Tịa án về một vụ việc cụ thể được Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao lựa
chọn và được Chánh án Tồ án nhân dân tối cao cơng bố là án lệ để các Toà án nghiên
cứu, áp dụng trong xét xử”. Theo đó, lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã có
71


hiệu lực pháp luật của Tòa án dùng làm án lệ là: “lập luận để làm rõ quy định của pháp
luật cịn có cách hiểu khác nhau; phân tích, giải thích các vấn đề, sự kiện pháp lý và chỉ
ra nguyên tắc, đường lối xử lý, quy phạm pháp luật cần áp dụng trong một vụ việc cụ

thể” (Khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP). Có thể thấy rằng Nghị quyết số
03/2015/NQ-HĐTP đã tạo nên một khái niệm chính thống về “án lệ” tại Việt Nam. Theo
khái niệm này thì án lệ trước hết phải là những lập luận làm rõ quy định của pháp luật
cịn có cách hiểu khác nhau và sau đó phải chứa những phân tích và giải thích các vấn đề,
sự kiện pháp lý làm cơ sở cho Tòa án chỉ ra nguyên tắc, đường lối xử lý hoặc quy phạm
pháp luật cần áp dụng.
Sau một thời gian áp dụng, Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP đã bị thay thế bởi
Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP. Khái niệm về án lệ vẫn được quy định tương tự như
trước đây nhưng nội hàm đã có sự thay đổi, mở rộng hơn. Cụ thể, lập luận, phán quyết
trong bản án, quyết định khơng chỉ có giá trị làm rõ quy định của pháp luật cịn có cách
hiểu khác nhau, phân tích, giải thích các vấn đề, sự kiện pháp lý và chỉ ra nguyên tắc,
đường lối xử lý, quy phạm pháp luật cần áp dụng trong một vụ việc cụ thể mà cịn thể
hiện lẽ cơng bằng đối với những vấn đề chưa có điều luật quy định cụ thể; có tính chuẩn
mực; có giá trị hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử (Khoản 1, Điều 2
Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP quy định về tiêu chí lựa chọn án lệ). Theo quy định
này thì án lệ khơng chỉ dừng lại ở việc “làm rõ quy định của pháp luật cịn có cách hiểu
khác nhau…” như trong quy định trước đây mà cịn “…thể hiện lẽ cơng bằng đối với
những vấn đề chưa có điều luật quy định cụ thể”. Điều này có nghĩa là thơng qua hoạt xét
xử, Thẩm phán có thể “sáng tạo ra pháp luật” trong trường hợp luật chưa có quy định.
Hay nói cách khác là án lệ khơng chỉ có giá trị làm rõ các quy định của pháp luật có
nhiều cách hiểu khác nhau mà còn là những bản án thể hiện lẽ công bằng đối với những
sự kiện pháp lý mới phát sinh mà pháp luật thành văn chưa có quy định cụ thể để điều
chỉnh.
3. Án lệ số 41/2021/AL về chấm dứt hơn nhân thực tế và một số bình luận
Trước khi đi vào bình luận đối với án lệ số 41/2021/AL, tác giả trình bày một cách
tóm tắt nội dung của án lệ này, cụ thể như sau:
- Nguồn án lệ: Bản án dân sự phúc thẩm số 48/2010/DSPT ngày 29/7/2010 của
Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng về vụ án “Tranh chấp chia di sản
thừa kế và chia tài sản chung” tại tỉnh Kon Tum giữa nguyên đơn là chị Trần Thị Trọng
P1 với bị đơn là anh Trần Trọng P2 và anh Trần Trọng P3; người có quyền lợi, nghĩa vụ

liên quan gồm 06 người.
-

Vị trí nội dung án lệ: Đoạn 3, 4 phần “Nhận định của Tòa án”.

-

Khái quát nội dung của án lệ:

+ Tình huống án lệ: Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng, không đăng
ký kết hôn nhưng sau đó họ khơng cịn chung sống với nhau và trước khi Luật Hơn nhân
và gia đình năm 1986 có hiệu lực, có người chung sống với nhau như vợ chồng với người
khác. Quan hệ hôn nhân đầu tiên và quan hệ hôn nhân thứ hai đều là hôn nhân thực tế.
72


+ Giải pháp pháp lý: Trường hợp này, phải xác định hôn nhân thực tế đầu tiên đã
chấm dứt.
- Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ: Điều 676 Bộ luật Dân sự năm 2005
(tương ứng với Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015); Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày
09/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000; Nghị
quyết số 02/2000/NQ-HDTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân
tối cao về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hơn nhân và gia đình năm
2000.
-

Từ khóa của án lệ: “Hơn nhân thực tế”; “Chấm dứt hơn nhân thực tế”.

Như đã trình bày ở trên, theo quy định của các văn bản hướng dẫn liên quan đến
vấn đề hơn nhân thực tế, có thể thấy hiện chỉ có quy định về cách xác định thời điểm bắt

đầu quan hệ hôn nhân thực tế. Cụ thể, Điểm c, Mục 2, Thông tư liên tịch số
01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001 do Tòa án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ tư pháp ban hành hướng dẫn Nghị quyết số
35/2000/QH1 về thi hành Luật Hôn nhân và gia đình quy định thời điểm nam nữ bắt đầu
chung sống với nhau như vợ chồng là ngày họ tổ chức lễ cưới hoặc ngày họ chung sống
với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến hoặc ngày họ thực sự bắt đầu chung
sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình. Tuy nhiên, đối với
thời điểm chấm dứt hôn nhân thực tế thì pháp luật hơn nhân và gia đình chưa có quy định
rõ ràng về vấn đề này. Nhìn chung, hơn nhân thực tế được hình thành từ việc chung sống
tự do nên khi chấm dứt cũng thường được thực hiện một cách tự do. Mặc dù về nguyên
tắc khi việc chung sống như vợ chồng được thừa nhận là hôn nhân thực tế và có giá trị
pháp lý tương tự như hơn nhân có đăng ký nên việc chấm dứt cũng cần buộc phải thông
qua con đường tư pháp. Nhưng có thể thấy rằng khi chấm dứt việc chung sống, không
phải lúc nào các bên chung sống như vợ chồng cũng u cầu Tịa án giải quyết việc ly
hơn. Nhiều trường hợp hôn nhân thực tế được chấm dứt trên thực tế, nghĩa là các bên
khơng cịn chung sống với nhau, khơng cịn chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng
gia đình. Sau khi chấm dứt việc chung sống, một trong cách bên hoặc cả hai bên tiếp tục
chung sống như vợ chồng với người khác. Trong trường hợp này vấn đề đặt ra là quan hệ
chung sống nào sẽ được thừa nhận là hôn nhân thực tế?
Trước vấn đề này, pháp luật hơn nhân và gia đình đã im lặng trong một thời gian
dài. Điều này đã tạo ra nhiều khó khăn trong q trình giải quyết các quan hệ tranh chấp
phát sinh từ các quan hệ chung sống này. Nhằm giải quyết vấn đề này, đảm bảo cho hoạt
động xét xử được thống nhất cũng như bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên,
ngày 23/2/2021, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã thông qua án lệ số
41/2021/AL về chấm dứt hôn nhân thực tế. Án lệ này đã được Chánh án Tịa án nhân dân
tối cao cơng bố theo Quyết định số 42/QĐ-CA vào ngày 12/3/2021. Theo đó, Án lệ số
41/2021/AL đã nêu lên tình huống pháp lý là nam và nữ chung sổng với nhau như vợ
chồng, không đăng ký kết hơn nhưng sau đó họ khơng cịn chung sống với nhau và trước
khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực, có người chung sống với nhau như
vợ chồng với người khác. Quan hệ hôn nhân đầu tiên và quan hệ hôn nhân thứ hai có phải


73


đều được thừa nhận là hôn nhân thực tế không?96 Trong trường hợp này, giải pháp pháp
lý được Tòa án đưa ra là chỉ quan hệ hôn nhân thứ hai được thừa nhận là hơn nhân thực
tế, cịn quan hệ hôn nhân thực tế đầu tiên được xác định là đã chấm dứt.
Có thể thấy rằng khi giải quyết vụ việc nêu trên, Tịa án có thẩm quyền đã áp dụng
các quy định về hôn nhân thực tế như đã trình bày ở trên để giải quyết những tranh chấp
phát sinh từ việc chung sống như vợ chồng. Theo đó, những trường hợp chung sống trước
khi Luật hôn nhân và gia đình năm 1986, có con chung, có tài sản chung mà khơng có
đăng ký kết hơn thì được thừa nhận là hôn nhân thực tế. Để được thừa nhận là hơn nhân
thực tế thì một trong những điều kiện tiên quyết là họ thực sự chung sống với nhau, chăm
sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình. Do đó, khi các bên khơng cịn chung
sống với nhau trên thực tế, khơng cịn chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia
đình thì quan hệ hơn nhân đó cần phải được xem là đã chấm dứt. Trong trường hợp một
hoặc cả hai bên đã chung sống như vợ chồng với người khác thì quan hệ chung sống sau
sẽ được thừa nhận là hôn nhân thực tế nếu thỏa mãn các điều kiện theo quy định của pháp
luật. Trong trường hợp quan hệ hôn nhân thực tế được thừa nhận thì giữa các bên có
quyền và nghĩa vụ với nhau như vợ chồng hợp pháp, cụ thể là được chia tài sản chung và
được hưởng thừa kế di sản của nhau. Có thể thấy giải pháp pháp lý mà Tịa án có thẩm
quyền đã đưa ra để giải quyết vụ việc tranh chấp nêu trên là hoàn toàn hợp lý, phù hợp
với sự thật khách quan từ đó bảo vệ được quyền và lợi ích chính đáng của các bên.
4. Kết luận
Có thể thấy hoạt động ban hành và áp dụng án lệ trong thời gian vừa qua tại Việt
Nam bước đầu đã có những thành cơng nhất định. Thông qua các án lệ được ban hành,
nhiều vấn đề chưa được pháp luật quy định rõ ràng nay đã có đường lối giải quyết từ đó
góp phần giảm bớt khó khăn cho hoạt động xét xử. Riêng đối với vấn đề chung sống như
vợ chồng thì mặc dù số lượng án lệ vẫn còn hạn chế (án lệ số 41/2021/AL là án lệ đầu
tiên về vấn đề này) nhưng bước đầu đã cho thấy những dấu hiệu tích cực. Điều này có ý

nghĩa rất quan trọng do nhiều vấn đề pháp lý về quan hệ chung sống như vợ chồng chưa
được quy định một cách đầy đủ hoặc rõ ràng.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật hôn nhân và gia đình các năm 1959, 1986, 2000, 2014;
96

Án lệ số 41/2021/AL có nguồn gốc từ Bản án số 48/2010/DSPT ngày 29-7-2010 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân
dân tối cao tại Đà Nẵng về vụ án tranh chấp di sản thừa kế và chia tài sản chung tại tỉnh Kon Tum giữa nguyên đơn
là bà Trần Thị Trọng P1, bị đơn là anh Trần Trọng P2 và anh Trần Trọng P3. Theo đó, Bà Tơ Thị T2 chung sống với
ơng Trần Thế T1 từ năm 1969 có 2 con chung là Trần Trọng P2 và Trần Trọng P3, đến năm 1982 bà T2 vào tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu chung sống với ơng Trần Sinh D từ đó đến nay và đã có 3 con chung. Từ năm 1985, ông Trần Thế
T1 và bà Trần Thị S chung sống với nhau có con chung là Trần Thị Trọng P1 cho đến năm 2003 thì ơng T1 chết. Do
đó, Tịa phúc thẩm nhận định rằng bà Tô Thị T2 chung sống với ông T1 không đăng ký kết hôn. Đến năm 1982 bà
T2 đã bỏ vào tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu lấy ơng D có con chung từ đó đến nay quan hệ hôn nhân thực tế giữa ông T1
với bà T2 đã chấm dứt từ lâu nên không cịn nghĩa vụ gì với nhau nên bà T2 khơng được hưởng di sản của ông T1
để lại. Sau khi bà T2 khơng cịn sống chung với ơng T1, ơng T1 sống chung với bà S từ năm 1985 cho đến khi ơng
T1 chết và có 1 con chung, có tài sản chung hợp pháp nên bản án sơ thẩm công nhận là hôn nhân thực tế. Bà S được
chia tài sản chung và được hưởng di sản thừa kế của ơng T1 là có căn cứ.

74


2. Án lệ số 41/2021/AL về chấm dứt hôn nhân thực tế;
3. Nghị quyết số 01/NQ/HĐTP ngày 20/01/1988 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 1986;
4. Nghị quyết số 35/2000/QH1 về thi hành Luật Hơn nhân và gia đình;
5. Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
ban hành về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000;
6. Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tịa án nhân dân tối cao

về ban hành, cơng bố và áp dụng án lệ;
7. Nghị quyết 04/2019/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về
ban hành, công bố và áp dụng án lệ;
8. Nghị định số 77/2001/NĐ-CP hướng dẫn Nghị quyết số 35/2000/QH1 về thi hành
Luật Hơn nhân và gia đình;
9. Thơng tư số 112/NCPL ngày 19/08/1972 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn xử
lý về dân sự những việc kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn;
10. Thông tư số 81/DS của Tòa án nhân dân tối cao ngày 27/4/1981 hướng dẫn giải quyết
các tranh chấp về thừa kế;
11. Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP do Tòa án nhân dân
tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ tư pháp ban hành hướng dẫn Nghị quyết số
35/2000/QH1 về thi hành Luật Hơn nhân và gia đình;
12. Cơng văn số 16/1999/KHXX ngày 01/02/1999 của Tòa án nhân dân tối cao;
13. Tòa án nhân dân tối cao (1995), Báo cáo tổng kết công tác năm 1995 và phương
hướng, nhiệm vụ công tác năm 1996 của ngành Tòa án nhân dân, Hà Nội;
14. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (1998), Giáo trình Luật hơn nhân và gia đình
Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội;
15. Đại học Luật Hà Nội (2002), Giáo trình Luật hơn nhân và gia đình, Nhà xuất bản
Cơng an nhân dân.

75



×