Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

LUẬN văn CUỐI KHÓA CNTT (18)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.77 KB, 12 trang )

1. TỔNG QUAN THẢM HỌA BHOPAL
Trong nhiều hoạt động, con người ln phải đối phó với các thảm họa, rủi ro, những biến
cố bất thường gây tổn thất về tính mạng và của cải. Những thảm họa đó có thể do con
người hoặc thiên nhiên gây ra.
Trong vài thập niên trở lại đây cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, con người
gần như làm chủ được thiên nhiên và khoa học, tạo ra cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn,
kéo theo đó là gây ra biết bao thảm họa. Môi trường ngày càng bị ô nhiễm nghiêm trọng,
nguồn tài nguyên ngày càng cạn kiệt đã đe dọa đến sự tồn tại của mọi sinh vật.
Công nghiệp phát triển mạnh mẽ, góp phần phát triển kinh tế nâng cao cuộc sống của con
người, tuy nhiên quá trình phát triển đó cũng gây ra những thảm họa cơng nghiệp nghiêm
trọng. Năm 1984, thảm họa công nghiệp lớn nhất thế giới đã xảy ra ở Bhopal, Ấn Độ, gây
nên cái chết của hàng nghìn người dân. Một phần tư thế kỷ đi qua, di chứng của vụ rị rỉ
khí độc vẫn còn hết sức nặng nề.
1.1. Địa điểm xảy ra thảm họa
Bhopal là thủ phủ của bang Madhya Pradesh nằm ở một vị trí địa lý như là trung tâm của
nước Ấn Độ. Với khoảng 1,5 triệu dân, thành phố lâu đời này sản xuất vải sợi, hàng tiêu
dùng điện tử, tư trang vàng bạc đá q, hóa chất cũng như cơ khí, và xay xát lúa gạo. Lợi
dụng đường xe lửa Bhopal-Ujain đi qua thành phố; rất thuận tiện cho việc chuyên chở
hàng hóa đi khắp các vùng miền của nước Ấn; nhiều cơng ty đa quốc gia, có tầm cỡ, đã
tập trung đến đây đầu tư; nổi bật nhất là từ Mỹ ( Procter Gamble, Union Carbide), Thụy
sĩ ( VA Tech Hydro) và Nhật ( Fujitsu).


Từ những năm 60 của thế kỷ trước, chính phủ Ấn Độ bắt đầu theo đuổi chương trình
Cách mạng xanh nhằm tăng năng suất để có thể tự túc về lương thực. Thuốc trừ sâu, do
đó, được coi là một món hàng khơng thể thiếu. Ngặt nỗi, lúc bấy giờ, nước Ấn Độ chưa
nắm được công nghệ sản xuất nên phải nhập cảng với giá rất cao, gây khơng ít khó khăn
cho túi tiền của nơng dân cũng như tính khả thi của chương trình phát triển nơng nghiệp.
Vì vậy, khơng có gì ngạc nhiên khi chính phủ Ấn Độ trải thảm đỏ, kêu gọi Union Carbide
India Limited (UCIL) đầu tư xây dựng một nhà máy sản xuất thuốc trừ sâu ở Bhopal để
giải quyết vấn đề này.


UCIL, được thành lập từ năm 1934, có lúc, có tới 14 nhà máy hoạt động trong nhiều lĩnh
vực khác nhau, với 9000 nhân viên, ở một số thành phố trên nước Ấn Độ; là một cơng ty
liên doanh, có vốn đầu tư từ nước ngồi, giữa một số cổ đơng thiểu số người Ấn Độ và
phần đa số còn lại thuộc về Union Carbide Corporation (UCC).

Thảm họa Bhopal xảy ra vào đêm ngày 2/12/1984 và rạng sang ngày 3/12/1984 tại nhà
máy sản xuất thuốc trừ sâu, thuộc sở hữu của Union Carbide Corporation (UCC) ở
Bhopal, Madhya Pradesh, Ấn Độ. Vụ thảm họa xảy ra tại Ấn Độ là một hồi chuông cảnh
báo về tầm quan trọng của an toàn lao động trong các hoạt động phát triển công nghiệp.
1.2. Tổng quan về nhà máy Union Carbide India Limited (UCIL)
1.2.1. Quy trình sản xuất của nhà máy
Vào năm 1969, UCC đã xây dựng nhà máy thuốc trừ sâu tại thành phố Bhopal, nhà máy
sản xuất thuốc trừ sâu Carbaryl, có thương hiệu Sevin, làm từ hóa chất Methyl Iso
Cyanate (MIC). Ban đầu, MIC, một nguyên liệu đầu vào cực độc và rất khó bảo quản,
được nhập cảng trực tiếp từ Mỹ. Tuy nhiên, kể từ cuối thập niên 70, UCIL bắt đầu tự chế
lấy hóa chất này tại nhà máy Bhopal của mình nhằm tiết kiệm chi phí.
Quy trình hóa học sử dụng trong nhà máy Bhopal thực hiện phản ứng Methylamine với
Phosgenen để tạo ra MIC, chất này sẽ phản ứng với 1-naphothol để tạo ra sản phẩm cuối


cùng Carbaryl. Quy trình này khác với quy trình khơng sử dụng MIC được áp dụng ở
những nhà máy khác, sử dụng cùng nguyên liệu thô và kết hợp chúng theo một quy trình
sản xuất khác, ban đầu Phosgen phản ứng với Naphothol hình thành nên Chloroformate
Ester, chất này sẽ phản ứng với Methyl amine.
Trong đầu những năm 1980, nhu cầu về thuốc trừ sâu giảm, mặc dù vậy quá trình sản
xuất vẫn được duy trì, do đó phải xây dựng các kho chứa để lưu trữ MIC chưa sử dụng.
MIC được lưu trữ trong những thùng chứa không đạt tiêu chuẩn nên đây cũng là một
trong những nguyên nhân gây ra vụ thảm họa.
Phản ứng tạo MIC từ MCC (Methyl Cacbamoyl Chloride):


Phản ứng tạo Carbaryl từ MIC (Methyl Iso Cyanate)


Hình 1. Quy trình sản xuất của nhà máy
1.2.2. Điều kiện làm việc, trang thiết bị và những quy tắc an tồn trong nhà máy
 Cơng nhân trong nhà máy không được đào tạo về chuyên môn và những quy tắc
an toàn nhằm ứng cứu với các sự cố bất ngờ có thể xảy ra.
 Chính sách quản lý yếu kém, gây mất lịng tin ở cơng nhân. Bên cạnh đó cịn có
một số mâu thuẫn giữa nhà máy với công ty mẹ ở Hoa Kỳ.
 Nhà máy ở Ấn Độ khơng lập kế hoạch để ứng phó với những sự cố có thể xảy ra,
bên cạnh đó cơ quan quản lý tại địa phương không được báo cáo về lượng hóa chất hóa
học nguy hiểm đang lưu trữ tại nhà máy.
 Thiết bị cảnh báo bình chứa MIC đã không hoạt động trong 4 năm, trước khi sự cố
xảy ra.
 Nhà máy chỉ có một hệ thống dự phịng thủ công, không phải là hệ thống 4 giai
đoạn được sử dụng như ở Hoa Kỳ.
 Tháp loe và máy lọc khí được thiết kế chưa hợp lý và đã ngừng hoạt động 5 tháng
trước khi thảm họa xảy ra, chính vì vậy nếu có một lượng khí độc thốt ra sẽ không được
xử lý để giảm nồng độ của khí độc.
 Để giảm chi phí năng lượng, hệ thống làm lạnh, vốn được thiết kế để ngăn sự bay
hơi của MIC, đã bị tắt. MIC được giữ ở nhiệt độ 20 0C (nhiệt độ phịng), thay vì 4,50C
theo quy định.
 Lò hơi, được sử dụng để làm sạch đường ống, đã ngừng hoạt động trước đó.
 Những tấm chắn để ngăn nước từ những đường ống đang được làm sạch rò rỉ vào
trong thùng chứa MIC qua những van hỏng đã không được lắp đặt.


 Bình chứa MIC đã bị hỏng khoảng một tuần trước đó. Những bình chứa khác được
sử dụng thay thế, thay vì việc sửa bình chứa bị vỡ.
 UCIL thừa nhận trong báo cáo điều tra rằng hầu hết các hệ thống an tồn đã khơng

làm việc vào đêm 3 tháng 12 năm 1984.
1.2.3. Những cảnh báo về tai nạn trước đó
 Năm 1976, 2 tổ chức cơng đồn đã có những phản ứng về tình trạng ơ nhiễm trong
nhà máy, tuy nhiên lãnh đạo cấp cao không quan tâm.
Năm 1981, một công nhân đã bị bỏng Phosgene. Trong hoảng loạn, người cơng
nhân đã tháo bỏ mặt nạ và hít vào một lượng lớn khí Phosgene, người này chết 72
giờ sau đó.
 Tháng 1 năm 1982, trong một vụ rị rỉ Phosgene, 24 công nhân bị phơi nhiễm và
đã phải nhập viện. Không ai trong số họ được yêu cầu phải mang mặt nạ bảo vệ.
 Tháng 2 năm 1982, 18 cơng nhân bị ảnh hưởng bởi một vụ rị rỉ khí MIC.
 Tháng 8 năm 1982, một kỹ sư hóa học bị bỏng 30% cơ thể do tiếp xúc với MIC ở
trạng thái lỏng.
 Tháng 9 năm 1982, đã xảy ra một vụ rò rỉ MIC, Methlcarbaryl Choloride,
Chloroform và Axit hydrochloric. Trong nỗ lực ngăn chặn vụ rò rỉ, một cơng nhân đã bị
bỏng hóa nặng, 2 người khác bị phơi nhiễm khí độc ở mức độ trầm trọng.

Trong 2 năm 1983, 1984, tại nhà máy đã xảy ra các vụ rò rỉ (theo thứ tự):
MIC, chlorine, monomethylamine, phosgene, và carbon tetrachloride
 Những báo cáo được đưa ra vài tháng trước vụ tai nạn bởi các nhà khoa học thuộc
tập đoàn Union Carbide cảnh báo về khả năng xảy ra một vụ rị rỉ gần như chính xác với
những gì đã xảy ra ở Bhopal; khả năng xảy ra một phản ứng tỏa nhiệt trong những thùng
chứa MIC và nhà chức trách địa phương cũng cảnh báo công ty về những vụ tai nạn xảy
ra từ 1979. Tuy nhiên những cảnh báo cáo đó đã khơng được lãnh đạo quan tâm.


1.3. Vụ rị rỉ và tóm tắt thời gian xảy ra thảm họa
Tháng 11-1984, tất cả các hệ thống an tồn của nhà máy đều khơng làm việc. Rất nhiều
van và đường ống ở trong tình trạng rất xấu. Bình chứa 610 chứa 42 tấn MIC, nhiều hơn
nhiều so với quy định an toàn cho phép.
Trong đêm 2 – 3 tháng 12, một lượng lớn nước tràn vào bình chứa 610, trong thùng đang

chứa 42 tấn Methyl Isocyanate, phản ứng tỏa nhiệt xảy ra, gây nên sự tăng nhiệt độ bên
trong thùng chứa lên tới trên 200°C (392°F), áp suất tăng lên ngồi khả năng mà thùng
chứa có thể chịu được, chính vì vậy để giảm áp xuất thùng chứa, một lượng lớn hơi khí
độc thải vào khơng khí. Thép khơng rỉ của những đường ống bị ăn mịn làm cho tốc độ
phản ứng tăng nhanh hơn, một hỗn hợp khí ga độc tràn ra khắp thành phố Bhopal. Vụ


tràn khí ga độc đã làm hàng ngàn người chết sau đó và rất nhiều người bị ảnh hưởng về
sau
Phản ứng giữa MIC và H2O:

Hình II.3 Hoạt động của hệ thống khi sự cố xảy ra
Tóm tắt thời gian xảy ra hỏa hoạn


Tại nhà máy

• 21.00 Bắt đầu vệ sinh đường ống bằng nước.
• 22.00 Nước lọt vào bình chứa 610, phản ứng tỏa nhiệt xảy ra.
• 22.30 Khí ga bắt đầu thốt ra từ tháp làm sạch
• 00.30 Cịi báo động kêu và đã bị tắt đi.
• 00.50 Tiếng cịi báo động chỉ có thể nghe thấy ở khu vực bên trong nhà máy, cơng nhân
thốt ra khỏi nhà máy.


Bên ngồi khu dân cư:

• 22.30 Những cảm giác đầu tiên do khí ga gây ra - nghẹt thở, ho, mắt tấy đỏ, nơn mửa.
• 1.00 Cảnh sát được báo động. Cư dân ở khu vực nhà máy di cư.
• 2.00 Những người đầu tiên đến bệnh viện Hamidia. Các triệu chứng bao gồm suy giảm

thị lực, khó thở, sùi bọt mép, nơn mửa.
• 2.10 Tiếng cịi báo động được nghe thấy từ bên ngồi nhà máy.
• 4.00 Vụ rị rỉ đã được kiểm soát.
2. NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ
2.1. Nguyên nhân


Trong một thời gian khá dài sau năm 1984, hàng loạt vấn đề liên quan đến nhà máy thuốc
trừ sâu ở Bhopal được các nhà nghiên cứu về môi trường và an toàn lao động ở nhiều nơi
trên thế giới đặt lên kính hiển vi, thu thập dữ liệu, điều tra, mổ xẻ và phân tích rất tỉ mỉ;
trong đó, một phần không nhỏ, đề cập đến một số nguyên nhân chính trực tiếp dẫn đến
thảm họa.
• Xây dựng nhà máy sản xuất hóa chất độc hại ngay trong khu dân cư đông đúc là
một rủi ro không thể chấp nhận được.
Từ năm 1975, Giám đốc quy hoạch thành phố Bhopal đã thấy được mối nguy của một cơ
sở sản xuất hóa chất độc hại ngay bên cạnh những khu cư dân đông đúc, nên đã ký lệnh
buộc UCIL phải di dời nhà máy. Không những không chấp hành mà cơng ty này cịn làm
áp lực với chính quyền địa phương thun chuyển ơng này đi nơi khác.
Trong khi đó, cơng đồn, đại diện cho nhân viên làm việc trong nhà máy, đã nhiều lần
phân phát tài liệu cho cư dân trong vùng bị ảnh hưởng, cảnh báo về những nguy hiểm có
thể xảy ra. Có nhân viên phải chịu bị đuổi việc khi tuyệt thực nhằm phản đối phương
cách vận hành nhà máy khơng an tồn của ban quản lý. Năm 1982, đã có 5 nhân viên
phải nhập viện sau khi tiếp xúc với khí độc nhưng khơng có cuộc điều tra nào để làm rõ
vụ việc.
Nổi bật nhất là một loạt bài viết nảy lửa, vào năm 1982, của nhà báo Raj Keswani dưới
hàng tít "Hãy cứu thành phố của chúng ta"; qua đó, ơng ta đã cảnh báo như một nhà tiên
tri rằng: "Bhopal đang đứng trên miệng núi lửa", "Bhopal bên bờ vực của một thảm họa",
và "Nếu chúng ta không ý thức được vấn đề này thì chúng ta sẽ bị tiêu diệt."
Ngay cả nghị viện của bang Madhya Pradesh, năm 1983, cũng đã đưa ra một nghị quyết
yêu cầu di dời nhà máy này đến nơi ít dân cư hơn; nhưng UCIL, như thường lệ, vẫn một

mực từ chối; viện lý do quá tốn kém, khơng chịu nổi chi phí.
Sau khi có nhiều phản ứng gay gắt từ báo chí và các nhà lập pháp Ấn Độ; UCC, từ Mỹ,
đã cử một nhóm chuyên viên sang Bhopal để kiểm tra tình hình thực tế. Họ đã đưa ra một
bản báo cáo chỉ rõ 61 điểm vi phạm về an tồn, trong đó có 30 điểm bị coi là nghiêm
trọng và 11 vấn đề đặc biệt nguy hiểm. Nhóm nói trên cũng khơng ngần ngại kết luận
rằng nhà máy này "đang hoạt động trong những điều kiện khơng an tồn và một tai nạn,
qui mơ lớn, có thể xảy ra bất cứ lúc nào."
Tuy vậy, ban quản lý của U C C lại âm thầm xếp tài liệu này vào loại "mật", không được
công bố; và chẳng những khơng có biện pháp gì để chấn chỉnh mà còn cắt giảm hơn 300
nhân viên để tiết kiệm 1,25 triệu đôla, với lý do đang gặp lổ; làm tình trạng an tồn của
nhà máy trở nên tồi tệ hơn.


• Thanh tra không phát hiện được những sai phạm của nhà máy; khi phát hiện
được, đã khơng có các biện pháp chế tài kịp thời và thích đáng.
• UCIL khơng thơng báo cho chính quyền địa phương biết chính xác về các loại hóa
chất độc hại được chế tạo và tồn trữ trong nhà máy; ảnh hưởng của chúng ra sao đối
với sức khỏe của con người; và các phương pháp cứu chữa hữu hiệu trong trường hợp bị
phơi nhiễm.
UCC thực hiện một chiến dịch nhiễu tin nhằm thoái thác trách nhiệm, và bảo vệ hình ảnh
cũng như uy tín của mình. Cơng ty này chỉ lập lờ thơng báo cho các cơ quan y tế Ấn Độ
rằng "có thể dùng thuốc ho và thuốc nhỏ mắt thông thường để điều trị cho các nạn nhân"
và nhiều lần khẳng định "khơng có chất độc nào liên quan, chỉ là một chất hơi cay, chẳng
có gì là nguy hiểm cả, có thể dùng nước lã để rửa sẽ khỏi".
Ít lâu sau khi thảm họa xảy ra, một nhóm 4 người, được gọi là "chuyên gia hàng đầu" của
Mỹ, đến Bhopal để xem xét tình hình họ nêu chính danh tên của chất hóa học đã phát tán
ra từ nhà máy, khi tuyên bố rằng: "chất MIC không phải là loại khí độc, chỉ gây rát cổ,
chảy nước mắt xồng như hơi cay mà thơi".
Việc UCC khơng những bưng bít mà cịn cố tình gây nhiễu thơng tin đã làm cho ngành y
tế Ấn Độ thật sự lúng túng, không phát huy được năng lực để cứu chữa kịp thời và hiệu

quả cho làn sóng bệnh nhân tràn ngập các nơi; làm thương tật của họ trở nên trầm trọng
hơn; và hàng loạt người đã phải mất mạng một cách oan uổng
• Khơng có sự phối hợp giữa nhà máy, dân cư chung quanh và chính quyền địa
phương để đề ra các kế hoạch nhằm báo động, di dời, cứu chữa và cứu trợ nạn nhân
kịp thời trong trường hợp khẩn cấp.
Bất ngờ trước một hình huống chưa từng thấy, ban quản lý "ca đêm", thiếu khả năng và ít
kinh nghiệm, khơng nhận thức được đầy đủ thực tế của tình hình, và do đó đã khơng có
những quyết định thích hợp và kịp thời. Thay vì cho hụ cịi báo động ngay lập tức và tìm
cách tốt nhất để hướng dẫn dân cư (a) di tản nhanh chóng ra khỏi vùng ảnh hưởng của
chất độc, tức vùng dưới chiều gió, nhằm giảm số thương vong (b) dùng khăn nhún nước
che mũi và mắt để làm giảm nồng độ của MIC, và do đó có thể tránh, hoặc giảm, bị tổn
thương; họ lại im lặng, loay hoay, suốt 3 tiếng đồng hồ, tìm cách ngăn chặn sự phát tán
trong vơ vọng.
• Nhân lực của nhà máy thiếu cả về số lượng lẫn trình độ; họ khơng được huấn
luyện đầy đủ khi nhận việc, nhất là ở cấp quản lý.
Tất cả các cẩm nang kỹ thuật điều hành đều được in bằng tiếng Anh trong khi hầu hết
nhân viên trong nhà máy là người Ấn. Vì thiếu nhân lực, khơng có người đi tuần kiểm đủ


độ thường xuyên, để theo dõi kịp thời, các chỉ số an toàn khác nhau ở nhiều bộ phận
trong nhà máy; ban quản lý đã không biết được rằng đang có sự thay đổi bất thường về
nhiệt độ và áp xuất tại bồn chứa MIC mang số E610.
• UCIL vi phạm nhiều nguyên tắc cơ bản về an toàn trong lúc vận hành nhà máy:
Theo nguyên tắc an toàn, trong trường hợp áp suất bồn chứa tăng cao quá mức cho phép,
để tránh nổ, van an toàn sẽ tự động mở, dẫn khí MIC qua một bộ lọc dùng Sodium
Hydroxide để được trung hòa. Một đường ống sẽ mang lượng MIC, cịn sót lại sau khi
lọc, lên một tháp cao, khoảng 30 mét, để được đốt bỏ. Sau đó, phần MIC chưa cháy hết sẽ
được một hệ thống phun sương, phủ trùm tháp đốt một màng nước, làm giảm nồng độ và
tỷ trọng. Cuối cùng, số khí độc cịn lại ít ỏi này sẽ theo gió mà phân tán ra xa và lên cao,
khỏi vùng sống của sinh vật, cho nên nguy hiểm sẽ khơng cịn đáng kể nữa. Nhưng thực

tế tại đây:
 Bộ lọc dùng Sodium hydroxide quá nhỏ, không tương xứng với lượng MIC quá
lớn trong bồn.
 Hệ thống phun sương khơng đủ mạnh để có thể tạo ra một màng nước phủ trùm
được tháp đốt.
 Hệ thống làm trung hịa bồn chứa MIC để phịng ngừa khí này thất thốt vào
khơng khí cũng ở vị trí đóng vì cịn đang sửa chữa. Ngay cả nếu hệ thống này hoạt
động cũng khơng ngăn được lượng khí MIC thốt ra ngồi vì khối lượng khí q
lớn khơng thể làm lạnh ngay được
 Nhiệt kế và áp kế của bồn E610 khơng hoạt động, trước đó đã được biết là khơng
chính xác, và khơng được thay mới. e. Thay vì 4,50C theo qui chuẩn, nhiệt của
bồn này thuờng xuyên được để ở 200C nhằm tiết kiệm điện.
 Tuy giới hạn an tồn khơng q 50%, nhưng vào lúc thảm họa xảy ra, bồn E610 đã
chứa tới 80% dung tích của nó. Sử dụng một bồn chứa lớn đến 40 tấn, trong khi
theo tiêu chuẩn của Âu châu, khơng được có quá 1/2 tấn MIC trong mỗi bồn nhằm
giảm mực độ nghiêm trọng tới mức tối thiểu trong trường hợp tai nạn xảy ra.
 Không thiết kế và xây dựng, như tiêu chuẩn an tồn qui định (1) bồn liên thơng để
trống; khi bồn chính bị "sơi", MIC dạng lỏng có nơi thốt qua an tồn, khơng tràn
ra ngồi (2) tháp đốt thứ hai; khi một tháp không sử dụng được, tháp khác thay thế
ngay.
 Sau cùng, hệ thống báo động khơng hoạt động do đó khơng có dấu hiệu khẩn cấp
khi áp suất trong bồn tăng cao.
Ngoài ra, một số ngun nhân sâu xa và có tính hệ thống, có thể được coi là tiền đề cho
một thảm họa không thể tránh khỏi; cũng đã được đem ra ánh sáng.


 Chính quyền trải thảm đỏ cho nhà đầu tư một cách mù quáng. Do thiếu thông tin
và không nắm vững về kỹ thuật, các viên chức Ấn Độ, đã mắc mưu, khi nghe theo
lời hứa suông của nhà đầu tư về cơng nghệ "tiến tiến" và độ "an tồn tuyệt đối"
của nhà máy. Chính phủ Ấn Độ chỉ nhắm vào tăng trưởng kinh tế và số lượng đầu

tư, chỉ chú ý đến giải quyết một số vấn đề được cho là cấp bách trước mặt, mà
quên hẳn hệ quả của tình trạng mất an tồn lao động và an ninh môi trường.
 Ngay từ đầu, khi thiết kế nhà máy, UCC đã chọn một công nghệ lỗi thời nhằm tiết
kiệm vốn đầu tư và giảm giá thành của sản phẩm. Khi xây dựng, đã không lắp đặt
đầy đủ các bộ phận cần thiết để bảo đảm an toàn theo đúng tiêu chuẩn qui định. Ở
Mỹ, một nhà máy được xây dựng như thế sẽ khơng có phép hoạt động.
 Dân cư xung quanh nhà máy, phần lớn mù chữ và nghèo khó, khơng ý thức được
quyền hạn dân sự của mình được sống trong một mơi truờng lành mạnh. Họ không
thấy được rằng sinh mạng của họ đang bị đe dọa nên khơng chủ động có những
hành động cần thiết để buộc nhà máy phải tuân thủ các tiêu chuẩn an tồn.
 Xã hội, nói chung, ngay cả các nhà chính trị cũng vậy, chưa hiểu rõ về tầm quan
trọng của an ninh mơi trường và an tồn lao động.
Nhìn chung, nguyên nhân xảy ra thảm họa Bhobal là tổng hợp của nhiều lỗi lầm do con
người, do tổ chức quản trị nhà máy, do công nghệ, và do cả quy chế pháp lý. Nhà máy
hồn tồn khơng có quy định cũng như huấn luyện nhân viên trong trường hợp khẩn cấp.
Chính vì lý do này mà con số nạn nhân quá cao so với mức độ tai nạn đã xảy ra. Thêm
nữa, mức an toàn lao động cũng như việc bảo quản các máy móc định kỳ hồn toàn bị
quên lảng trong nhiều tháng qua.
Vấn đề được đặt ra nơi đây là mức an toàn lao động và tiêu chuẩn mơi trường có được
tn thủ và áp dụng cho những nhà máy sản xuất hóa chất độc hại ở các quốc gia đang
phát triển hay không? Cũng như trách nhiệm xã hội và dân sự của công ty mẹ có trụ sở ở
các quốc gia kỹ nghệ một khi tai nạn xảy ra?
Do đó, cho dù vị trí của nhà máy sản xuất ở bất cứ nơi nào trên thế giới, tại một quốc gia
đang phát triển hay tại một nước hậu kỹ nghệ, tai nạn vẫn có thể xảy ra. Đó là do lỗi lầm
của con người. Vấn đề ở đây là làm thế nào để giảm thiểu những sơ suất, lỗi lầm của con
người tối đa. Và tai nạn xảy ra tại Bhopal là một bài học lớn, đã khơi động sự chú ý của
toàn thế giới vì tính cách trầm trọng của nó. Robert Roland, Chủ tịch Hội đồng Hoá học
Hoa Kỳ (American Chemistry Council – ACC) đã nhấn mạnh là tai nạn có thể xảy ra bất
cứ nơi đâu, do đó, các cơng ty mẹ cần phải cảnh giác tối đa như tăng cường các biện pháp
an toàn lao động trong vận hành.



2.2. Hậu quả:
Thảm họa Bhopal xảy ra vào đêm ngày 2 và rạng sang ngày 3-12-1984, tại nhà máy sản
xuất thuốc trừ sâu, thuộc sở hữu của Union Carbide (UCIL), nay đã thuộc sở hữu của Tập
đồn hóa chất Dow Chemicals. Nhà máy đã để rị rỉ khí Methyl isocyanate (MIC) và các
khí độc khác, làm ngay lập tức 4.000 người chết và 600.000 người bị phơi nhiễm chỉ
trong vài ngày. Nhưng vụ việc chưa dừng lại, các hóa chất độc hại này tiếp tục rị rỉ và
gây ơ nhiễm các nguồn nước ngầm. Một vài năm sau đó, con số người thiệt mạng lên đến
15.000 người. Song, các nhà hoạt động địa phương khẳng định: Số người chết gấp đơi
như thế, và cho rằng cơng ty cũng như Chính phủ đã thất bại trong việc làm sạch hóa chất
độc hại tại khu vực xảy ra thảm họa. Nhà máy hóa chất của Union Carbide buộc phải
đóng cửa.
Bảng II.1 Khảo sát mức độ phơi nhiễm các đối tượng sau 100 ngày
Results of the KEM College medical survey 100 days after the exposure
Bệnh
Respiratory symptoms (Hô hấp)
Eye symptoms (Thị lực)
Gastrointestinal symptoms (Tiêu hóa)
Neuromuscular symptoms (Thần kinh)
Gynaecological symptoms (Phụ khoa)

Adults in group I Adults
(%)
(%)
79.7
65.6
60.3
54.5
75.5


in group II
27.6
31.5
23.6
10.5
53.84

Out of 250,000 exposed, population with medical disability:
mild to moderate (nhẹ - trung bình)

43,864 trường hợp

severe (nặng)

63,385 trường hợp

Note: group I: People residing less than 0.5 to 2 km from the factory.
group II: People residing more than 8 km from the factory.
Tổng cộng có 36 khu vực được nhà chức trách đánh dấu là 'chịu ảnh hưởng khí ga" với số
dân 520.000 người. Trong số đó, 200.000 người dưới 15 tuổi, 3.000 phụ nữ mang thai.
Năm 1991, có 3.928 cái chết đã được xác nhận. Những tổ chức độc lập ghi nhận có 8,000
người chết trong ngày đầu tiên, khoảng 100.000 đến 200.000 người khác đã chịu những
tổn thương vĩnh viễn ở các mức độ khác nhau.


Union Carbide cũng như chính phủ Ấn Độ trong một khoảng thời gian dài phủ nhận
những tổn thương vĩnh viễn liên quan đến MIC và các loại khí khác.
Tháng 1 – 1994, Ủy ban y học quốc tế về Bhopal (IMCB) đã đến Bhopal để điều tra tình
trạng sức khỏe những người sống sót, chăm sóc sức khỏe và sự tái phục hồi kinh tế - xã

hội.
Hội đồng nghiên cứu y khoa của Ấn Độ (ICMR) cũng nói rằng, đến năm 1994, có 25.000
người thiệt mạng do ảnh hưởng của vụ việc. Và thống kê của Chính phủ sau năm 1994
cho hay, ít nhất 100.000 người dân sống gần nhà máy ở miền Trung bang Madhya
Pradesh bị bệnh tật, hơn 3.000 người sống ở các khu vực bị nước nhiễm bẩn.
Nhiều người ở Bhopal tin rằng tại một số cộng đồng tỉ lệ mắc bệnh vẫn cao, cũng như tỉ
lệ dị tật và chậm phát triển trí tuệ bẩm sinh cao là do các chất độc vẫn còn tồn tại trong
mơi trường.
Tình trạng vẫn khơng được cải thiện sau khi chính quyền bang Madhya Pradesh sở hữu
nhà máy vào năm 1998.
Năm 1999, nghiên cứu của Tổ chức Hịa bình Xanh cho thấy: đất và nước ở khu vực Atal
Ayub Nagar có lượng carbon tetrachloride ở mức vượt giới hạn mà Cơ quan Bảo vệ môi
trường Mỹ (EPA) cho phép đến 682 lần; các hóa chất gây ung thư như là chloroform và
carbon tetrachloride trong khu vực quanh nhà máy và nước ngầm; mức thủy ngân trong
một số khu vực cao hơn mức an toàn 6 lần.



×