Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Tiểu luận Mối quan hệ giữa lạm phát và tỉ giá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.56 MB, 30 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIA ĐỊNH
KHOA KINH TẾ QUẢN TRỊ

TIỂU LUẬN
Môn học : Lý thuyết tài chính - tiền tệ
Đề tài : Phân tích mối quan hệ giữa lạm phát
và tỉ giá

Giáo viên hướng dẫn :Hứa Trung Phúc
Sinh viên thực hiện :1. Trần Thị Ánh
2.

Nguyễn Thị Dương

Lớp : K14DCKT01

Tp Hồ Chí Minh , 12-2021


MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU……………………………………............................
B. NỘI

DUNG..........................................................................................

I. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI…………………………........
1.1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài……….……………………….....
II.

MỐI


QUAN

HỆ

GIỮA

LẠM

PHÁT



TỶ

GIÁ..............................
2.1.

Một

số

khái

niệm

định

nghĩa




bản…………………………...........
2.1.1.

Lạm

phát……………………………………………………............
2.1.1.1. Khái niệm về lạm phát………………………….……………...
…..
2.1.1.2. Nguyên nhân gây ra lạm phát………………..………..
……...........
2.1.1.3. Ảnh hưởng của lạm phát đến nền kinh tế……..…………..…....…
2.1.2.

Tỷ

giá

……………………………………………….........................
2.1.2.1.

Khái

niệm

về

tỷ

giá


……………………………..

……....................
2.1.2.2. Các loại tỷ giá ……………..……………………..
…......................
2.1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá………….………..................
….
2.1.2.4.Tác động lên các ngành kinh tế…………………….……...………
2.2. Mối quan hệ tác động qua lại của tỷ giá và lạm phát......................
2.3.1. Ảnh hưởng của tỷ giá đến lạm phát……………….................….…
2.3.2. Lạm phát tác động tới tỷ giá………………………….……..........…


2.3. Các bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ giữa lạm phát và tỷ
giá……………………………………………………..........................…..
III.LIÊN HỆ LẠM PHÁT VÀ TỈ GIÁ TẠI VIỆT NAM
3.1 Diễn biến quá trình lạm phát và tỉ giá
C. KẾT LUẬN...........................................................................................
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO

LỜI MỞ ĐẦU
Cơ chế thị trường đã rung lên hồi chuông cảnh báo bao sự thay đổi của
nền kinh tế Việt Nam trong những thập niên gần đây. Trong nền kinh tế thị
trường hoạt động đầy sôi nổi và cạnh tranh gay gắt, để thu được lợi nhuận cao
và đứng vững trên thương trường, các nhà kinh tế cũng như các doanh nghiệp
phải nhanh chóng tiếp cận, nắm bắt những vấn đề mới của nền kinh tế mới.
Bên cạnh bao vấn đề cần có để kinh doanh cịn là những vấn đề nổi cộm khác
trong nền kinh tế. Điển hình là diễn biến của hai chỉ số lạm phát và tỷ giá hối
đoái.. Liệu rằng giữa hai biến số kinh tế này có mối liên hệ, tác động, ảnh

hưởng qua lại như thế nào. Tất cả những vấn đề đó đã thơi thúc chúng em đi
vào “Phân tích mối quan hệ giữa lạm phát và tỷ giá ”
Do trình độ và thời gian có hạn, trong q trình nghiên cứu đề tài chắc
chắn cịn nhiều thiếu sót, chúng em kính mong sự góp ý chân thành của Thầy
cơ để đề tài nghiên cứu được hoàn thiện hơn.

Xin chân thành cảm ơn!


NỘI DUNG
I. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI.
1.1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài:
Lạm phát và tỷ giá hối đoái là hai biến số kinh tế quan trọng của không
chỉ của một quốc gia nào. Lịch sử đã chứng minh sự ảnh hưởng mạnh mẽ của
chúng đến sự phát triển kinh tế thế giới. Không những lạm phát và tỷ giá hối
đối có thể tác động đến mọi hoạt động kinh tế mà chúng còn chịu sự tác động
qua lại lẫn nhau. Sự tác động này làm cho diễn biến của chúng ngày càng biểu
hiện khó lường, gây khó khăn cho cơng tác kiểm sốt vĩ mơ nền kinh tế của
Chính Phủ.
Trước tình hình thế giới có nhiều thay đổi như hiện nay thì vấn đề ổn
định nền kinh tế luôn là mục tiêu cấp thiết hàng đầu của các quốc gia. Bởi vậy,
nắm bắt được quy luật về mối quan hệ giữa lạm phát và tỷ giá hối đối sẽ giúp
cho chính phủ các nước có những chính sách kinh tế phù hợp, tạo nên một sự
phát triển kinh tế ổn định và tích cực hơn.
II. MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT VÀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI.
2.1. Một số khái niệm định nghĩa cơ bản:


2.1.1. Lạm phát:
2.1.1.1. Khái niệm về lạm phát:

Có rất nhiều quan điểm khác nhau về lạm phát.
- Nhà kinh tế học Samuelson cho rằng: lạm phát biểu thị sự tăng lên
trong mức giá cả chung. Theo ơng thì lạm phát xảy ra khi mức chung của giá cả
và chi phí tăng- giá bánh mì, dầu xăng, xe ơ tơ tăng, tiền lương, giá đất, tiền
thuê tư liệu sản xuất tăng.
-Milton Friedman cho rằng: lạm phát là việc giá cả tăng nhanh và kéo
dài.Còn Mác viết trong bộ tư bản rằng: lạm phát là việc tràn đầy các kênh, các
luồng lưu thông các tờ giấy bạc thừa dẫn đến giá cả tăng vọt. Ơng cho rằng lạm
phát ln đồng hành cùng với chủ nghĩa tư bản, ngồi việc bóc lột chủ nghĩa tư
bản bằng giá trị thặng dư, chủ nghĩa tư bản cịn gây ra lạm phát để bóc lột
người lao động một lần nữa, do lạm phát làm tiền lương thực tế của người lao
động giảm xuống.
Như vậy mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về lạm phát nhưng các
nhà kinh tế đều thống nhất “lạm phát là một sự tăng lên của giá cả một cách
liên tục và khi lạm phát xảy ra thì có sự dư thừa tiền trong lưu thơng”. Tóm
lại,, lạm phát là sự tăng lên liên tục của mức giá trung bình theo thời gian.
2.1.1.2. Nguyên nhân gây ra lạm phát.
- Lạm phát do cầu kéo: lạm phát do cầu kéo xảy ra khi tổng cầu tăng lên
mạnh mẽ tại mức sản lượng đã đạt hoặc vượt quá tiềm năng. Biểu hiện rõ nhất
của lạm phát cầu kéo là nhu cầu nhập khẩu lương thực trên thị trường thế giới
tăng, làm giá xuất khẩu tăng (giá xuất khẩu gạo bình quân của nước ta năm
2007 tăng trên 15% so với năm 2006) kéo theo cầu về lương thực trong nước
cho xuất khẩu tăng. Trong khi đó, nguồn cung trong nước do tác động của thiên
tai, dịch bệnh không thể tăng kịp. Tất cả các yếu tố nói trên gây ra lạm phát cầu
kéo, đẩy giá một số hàng hoá và dịch vụ, nhất là lương thực thực phẩm tăng
theo.


- Lạm phát do chi phí đẩy: nếu có một cú sốc về tổng cung (chi phí sản
xuất tăng lên) làm cho đường AS dịch chuyển lên trên dẫn đến giá tăng, sản

lượng giảm. Phổ biến nhất là sự tăng của giá xăng, thép… Giá nguyên liệu,
nhiên liệu ( đặc biệt là xăng dầu, các sản phẩm hoá dầu, thép và phôi thép…)
trên thế giới trong những năm gần đây tăng mạnh. Trong điều kiện kinh tế nước
ta phụ thuộc rất lớn vào nhập khẩu ( nhập khẩu chiếm đến 90% GDP ) giá
nguyên liệu nhập tăng làm tăng giá thị trường trong nước.
- Lạm phát do cung tiền tăng: Cung tiền tăng (chẳng hạn do ngân hàng
trung ương mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền ngoại tệ khỏi mất giá so với
trong nước; hay chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua công trái theo yêu
cầu của nhà nước) khiến cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên là nguyên
nhân gây ra lạm phát.
- Lạm phát do dự kiến: lạm phát do dự kiến là tỷ lệ lạm phát hiện tại mà
mọi người dự kiến nó sẽ tiếp tục trong tương lai. Tỷ lệ này thường được đưa
vào các hợp đồng kinh tế, các kế hoạch hay các thoả thuận khác. Và chính vì
mọi người đều đưa tỷ lệ lạm phát vào các hoạt động của mình nên cuối cùng nó
trở thành hiện thực. Một ví dụ cụ thể của hiện tượng lạm phát do quán tính là
khi nền kinh tế có lạm phát cao, mọi người có xu hướng chỉ giữ lại một lượng
tiền mặt tối thiểu để chi tiêu hàng ngày, họ đem tiền đổi lấy các loại tiền mạnh
khác, vàng hay các loại hàng hóa để tích trữ giá trị, làm tăng lượng tiền lưu
thông trên thị trường, càng làm đồng tiền mất giá và tăng lạm phát.
Ngồi ra cịn có một số ngun nhân khác liên quan đến xuất nhập khẩu,
do thiên tai…
2.1.1.3. Ảnh hưởng của lạm phát đến nền kinh tế:
Lạm phát có lợi khơng và nó có thể gây ra những tác động gì tới nền
kinh tế? Có thể nói lạm phát tác động đến từng cá nhân, từng doanh nghiệp và
cả chính phủ. Lạm phát có thể làm sụp đổ cả một nền kinh thế vững mạnh cũng
như có thể giúp cho một nền kinh tế đi lên nếu biết cách kiềm chế và giữ cho
nó ở mức ổn định. Nói chung lạm phát có cả điểm mạnh và điểm yếu.


- Ảnh hưởng tích cực: lạm phát ở mức độ vừa phải có tác động tích cực

đến sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Khi lạm phát vừa phải xảy ra nó làm
cho đồng nội tệ mất giá nhẹ so với đồng ngoại tệ. Đây là một lợi thế để các
doanh nghiệp đẩy mạnh việc xuât khẩu hàng hóa, tăng thu ngoại hối, khuyến
khích sản xuất trong nước phát triển…
Lạm phát ở Việt Nam trong những năm qua, dưới sự quản lý vĩ mô của
nhà nước đã kiềm chế được lạm phát ở mức 1 con số: năm 2003 là 3%, 2004 là
9,5%, 2005 là 8,4%, 2006 là 6%, với mức độ lạm phát như vậy nền kinh tế của
nước ta trong những năm qua đã có những bước phát triển đáng kể, tốc độ tăng
trưởng cao.
- Ảnh hưởng tiêu cực: bên cạnh những tác động tích cực của lạm phát thì
lạm phát cũng có những tác động không tốt nếu lạm phát ở mức độ quá cao
(lạm phát phi mã và siêu lạm phát)
- Ảnh hưởng đến đời sống của các tầng lớp dân cư: Người dân nhất là
những người làm công ăn lương, những hộ nghèo phải chiụ sự tác động trực
tiếp nhất của lạm phát trong cơn bão tăng giá. Lạm phát cũng làm giảm việc
làm cho người dân trong trung và dài hạn. Đời sống dân cư ngày càng trở nên
khó khăn. Ảnh hưởng đến sự phân phối lại thu nhập và của cải: do tác động của
lạm phát làm mất cân đối giữa nợ và tài sản mà những người lao động sống
bằng tiền lương thì tiền lương thực tế giảm trong khi mức giá cả tăng lên làm
cho nền kinh tế suy giảm.
- Ảnh hưởng nhiều đến khối doanh nghiệp: Lạm phát cũng gây ra tình
trạng thiếu tiền vì các doanh nghiệp khơng khai thác được nguồn tín dụng cho
việc duy trì sản xuất của mình. Do đó, số lượng cơng việc cho người dân làm
cũng giảm thiểu trong trung và dài hạn.
- Ảnh hưởng đến lĩnh vực tài chính Nhà nước: lạm phát làm cho nguồn
thu ngân sách Nhà nước ngày càng bị thu hẹp dẫn đến tình trạng bội chi ngân
sách ngày càng tăng.
2.1.2 Tỷ giá hối đoái:



2.1.2.1 : Khái niệm về tỷ giá hối đoái :
Tỷ giá hối đoái (thường được gọi tắt là tỷ giá) là sự so sánh về mặt giá
cả giữa hai đồng tiền của hai nước khác nhau. Cũng có thể gọi tỷ giá hối đoái là
giá của một đồng tiền này tính bằng giá của một đồng tiền khác.
2.1.2.2 Các loại tỷ giá hối đoái :
-

Tỷ giá thả nổi
Chế độ tỷ giá thả nổi hay còn gọi là chế độ tỷ giá linh hoạt là một chế độ

trong đó giá trị của một đồng tiền được phép dao động trên thị trường ngoại
hối. Đồng tiền sử dụng chế độ tỷ giá thả nổi được gọi là một đồng tiền thả nổi.
Nói chung, các nhà kinh tế đều cho rằng, trong phần lớn trường hợp, chế
độ tỷ giá thả nổi tốt hơn chế độ tỷ giá cố định bởi vì tỷ giá thả nổi nhạy với thị
trường ngoại hối. Điều này cho phép làm dịu tác động của các cú sốc và chu kỳ
kinh doanh nước ngồi. Thêm vào đó, nó khơng bóp méo các hoạt động kinh
tế.
-

Tỷ giá cố định
Mặc dù việc thực hiện chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi sẽ hạn chế khả năng

của chính phủ trong vận hành một chính sách tiền tệ nội địa độc lập nhằm duy
trì ổn định kinh tế trong nước, song trong thực tế, nhiều chính phủ vẫn thích
chế độ tỷ giá hối đối cố định bởi nó tạo ra sự ổn định. Trong lịch sử, từ sau
Chiến tranh Thế giới thứ hai đã từng tồn tại hệ thống Bretton Woods cho phép
Tây Âu và Nhật Bản có được tỷ giá cố định so với dollar Mỹ cho đến tận năm
1970. Gần đây, Trung Quốc, Hong Kong và Malaysia đã rất thành cơng trong
việc duy trì tỷ giá hối đối cố định để giữ ổn định kinh tế trong nước. Đồng
euro hiện nay cũng có thể được xem là một chế độ tỷ giá hối đoái cố định giữa

các quốc gia châu Âu tham gia.
Nhiều quan điểm cho rằng tỷ giá hối đối cố định q cứng nhắc nên
che mất những thơng tin cần thiết cho thị trường hoạt động đúng hướng. Đó là
vì đồng tiền khơng cịn thể hiện giá trị thị trường thực của chúng. Sự che đậy
thông tin nào tạo ra tính khơng chắc chắn, kích thích các kẻ đầu cơ "tấn công"


các đồng tiền cố định và nhiều nước sẽ mất sạch cả dự trữ ngoại hối khi cố
gắng bảo vệ đồng tiền của mình chứ khơng chịu để nó mất giá. Thái Lan trong
cuộc khủng hoảng tài chính châu Á là một trường hợp như vậy.
-

Thả nổi có điều tiết
Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết là một chế độ tỷ giá hối đoái nằm giữa

hai chế độ thả nổi và cố định. Mặc dù lý thuyết nói chế độ tỷ giá hối đoái thả
nổi tốt hơn, nhưng trong thực tế khơng có một đồng tiền nào được thả nổi hồn
tồn, vì nó q bất ổn định. Tuy chế độ tỷ giá hối đoái cố định tạo ra sự ổn
định, song việc thực hiện các biện pháp chính sách nhằm giữ cho tỷ giá hối
đoái cố định tương đối khó khăn và tốn kém, và trên hết là chế độ này làm cho
chính sách tiền tệ trở nên vơ hiệu lực. Chính vì thế, chỉ một số ít đồng tiền trên
thế giới sử dụng chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Hầu hết các đồng tiền trên thế
giới sử dụng chế độ tỷ giá thả nổi, nhưng chính phủ sẽ can thiệp để tỷ giá
khơng hồn tồn phản ứng theo thị trường.

2.1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá hối đối:


Mức chênh lệch lạm phát giữa các quốc gia.




Mức độ tăng hay giảm thu nhập quốc dân giữa các nước



Mức chênh lệch lãi suất giữa các nước.



Những dự đốn về tỷ giá hối đối.



Tình trạng cán cân thanh tốn quốc tế.



Sự can thiệp của chính phủ.



o

Can thiệp vào thương mại quốc tế.

o

Can thiệp vào đầu tư quốc tế.


o

Can thiệp trực tiếp vào thị trường ngoại hối.

Các nhân tố khác: Khủng hoảng kinh tế, xã hội, đình công, thiên tai...


2.1.2.4 Tác động lên các ngành kinh tế
- Việc điều chỉnh tỷ giá sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến các doanh nghiệp có
các khoản nợ nước ngồi khi phải thực hiện trích lập dự phịng rủi ro tỷ giá
cuối năm, trong đó có các doanh nghiệp ngành dịch vụ cơng cộng, xi măng,
vận tải biển và dầu khí. Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp ngành dầu khí và
vận tải biển, có nguồn thu ngoại tệ trực tiếp từ việc bán sản phẩm, cung cấp
dịch vụ đầu ra thì cũng đồng thời được hưởng lợi từ việc thay đổi tỷ giá
- Các doanh nghiệp thuộc một số nhóm ngành như vật liệu cơ bản (thép,
nhựa), hàng tiêu dùng (sữa, bánh kẹo), cơng nghiệp (hóa chất, vận tải kinh
doanh xăng dầu) và dược phẩm phải nhập khẩu phần lớn nguyên vật liệu từ
nước ngoài và chủ yếu phục vụ nhu cầu trong nước cũng chịu tác động từ việc
thay đổi tỷ giá khi chi phí đầu vào gia tăng sẽ phải giải bài toán cân đối giá bán
sản phẩm đầu ra sao cho vừa bù đắp được chi phí đầu vào lại vừa đảm bảo giữ
được thị phần vàdoanhthu.
- Trong đó các ngành thủy sản, may mặc, cao su và khoáng sản, các
doanh nghiệp xuất khẩu có nguồn thu ngoại tệ trực tiếp và có kết hợp sử dụng
nguồn nguyên liệu trong nước sẽ được hưởng lợi từ việc điều chỉnh tỷ giá.
Điều này được thể hiện trên hai phương diện: giúp tăng tính cạnh tranh cho
hàng hóa xuất khẩu, mở rộng thị phần và phần vượt trội thêm mà doanh nghiệp
được hưởng khi các khoản thu ngoại tệ được ghi nhận bằng VND.
2.3 Mối quan hệ tác động qua lại của tỷ giá hối đoái và lạm phát:
Với khái niệm phản thân của mình, George Soros [Giả kim thuật Tài
chính, The Alchemy of Finance, tr.27-45 và 69-80] gợi ý cách suy nghĩ thực

tiễn hơn nhiều.
Quan hệ giữa tỷ giá hối đối và lạm phát khơng phải là quan hệ một
chiều mà là quan hệ vòng, tác động qua lại lẫn nhau, không thể coi cái này là
nguyên nhân và cái kia là kết quả. Ơng gọi một quan hệ vịng tự tăng cường lẫn
nhau như vậy là một vòng ác luẩn quẩn (vicious circle) khi đồng nội tệ mất giá
và lạm phát gia tăng và là vòng thiện (benign circle) khi điều ngược lại xảy ra.


2.3.1 Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái đến lạm phát.
Chính sách tỷ giá là một bộ phận của chính sách kinh tế, được sử dụng
như một công cụ hữu hiệu nhằm đạt được mục tiêu ổn định giá cả. Để duy trì
một mức tỷ giá cố định hay tác động để tỷ giá biến động đến một mức cần
thiết, thì cần phải có một chế độ tỷ giá và hệ thống can thiệp thích hợp….. Các
kênh tác động của chính sách tỷ giá tới lạm phát Có các kênh tác động của
chính sách tỷ giá tới lạm phát như: (1) Cách tiếp cận tiền tệ, nghiên cứu tác
động của tỷ giá tới cung cầu tiền tệ, qua đó đánh giá tác động tới lạm phát; (2)
cách tiếp cận theo trường phái Keynes nghiên cứu tác động của tỷ giá qua kênh
tổng cung- tổng cầu; (3) cách tiếp cận ảnh hưởng của tỷ giá tới lạm phát theo
kênh mức giá chung; (4) cách tiếp cận ảnh hưởng của tỷ giá tới lạm phát kỳ
vọng. Cơ chế truyền dẫn tác động của chính sách tỷ giá đến lạm phát trong nền
kinh tế mở được mô tả qua sơ đồ sau:

Sơ đồ 1. Kênh tác động từ tỷ giá tới lạm phát

Qua sơ đồ, tỷ giá tác động gián tiếp đến lạm phát chủ yếu thông qua các
con đường như xuất khẩu rịng, cán cân thanh tốn, giá hàng hóa nhập khẩu và
đây đều là các mối quan hệ đồng biến. Tuy nhiên, việc tác động của tỷ giá đến
lạm phát thông qua cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế thì mọi
nền kinh tế mở đều tuân theo, nhưng riêng với giá hàng nhập khẩu thì chỉ có
những quốc gia có tỷ trọng nhập khẩu cao so với GDP mới có tác dụng rõ rệt.



- Kênh thứ nhất: Tác động của tỷ giá tới lạm phát qua xuất nhập khẩu
rịng đó là khi đồng nội tệ giảm giá so với đồng tiền nước ngoài, xuất khẩu
rịng tăng lên, cán cân thương mại có thể được cải thiện; do xuất khẩu ròng là
một thành phần của tổng cầu AD, nên khi xuất khẩu ròng tăng, đường AD dịch
chuyển lên trên (trong mơ hình AD-AS), tác động làm lạm phát gia tăng.
- Kênh thứ hai: Tác động của tỷ giá tới lạm phát qua cán cân thanh toán.
Cơ chế truyền dẫn này trải qua hai giai đoạn:
Khi tỷ giá tăng, xuất nhập khẩu ròng sẽ tăng lên, góp phần cải thiện tình
trạng cán cân thương mại. Mặt khác khi xuất nhập khẩu ròng tăng, đường IS
dịch chuyển sang phải (mơ hình IS-LM), lãi suất trong nước tăng lên, trong
ngắn hạn luồng vốn đổ vào trong nước tăng (nguồn vốn đầu tư trực tiếp và gián
tiếp) làm cán cân vốn tăng lên, từ đó cán cân thanh toán tổng thể được cải
thiện.
Khi cán cân thanh toán tổng thể thặng dư, tức là luồng vốn nước ngoài
đổ vào trong nước tăng lên, lúc này sẽ có hai khả năng xảy ra: (1) NHTW sẽ
phải cung ứng thêm tiền để mua ngoại tệ nhằm giữ tỷ giá không bị giảm xuống
để khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, mặt khác để tăng cường dự
trữ ngoại hối quốc gia. Như vậy, tác động không mong muốn là cung tiền tăng
lên, đường LM dịch chuyển sang phải (mơ hình IS- LM) làm cân bằng tiền
hàng trong nền kinh tế thay đổi1, lạm phát sẽ tăng lên; (2) nếu NHTW khơng vì
mục tiêu giữ cho đồng bản tệ được định giá thấp để khuyến khích xuất khẩu và
giả định rằng dự trữ ngoại hối đã đủ mức cần thiết và không cần tăng thêm,
trong trường hợp cán cân tổng thể thặng dư thì vẫn có một lượng ngoại tệ tăng
lên trong nền kinh tế. Với những nước có nền kinh tế bị đơla hóa ở mức độ cao,
tổng phương tiện thanh toán của nền kinh tế trong trường hợp này vẫn tăng lên
vì nó bao gồm hai phần là: Tổng phương tiện thanh toán bằng nội tệ và tổng
phương tiện thanh toán bằng ngoại tệ. Khi tổng phương tiện thanh toán tăng lại
gây sức ép lên giá cả và đẩy lạm phát tăng lên.

- Kênh thứ ba: Tác động của tỷ giá tới lạm phát qua giá hàng nhập khẩu.
Giá hàng nhập khẩu bị tác động bởi hai thành phần là giá nhập khẩu trên thị
trường thế giới và tỷ giá danh nghĩa. Khi tỷ giá danh nghĩa tăng làm giá hàng


nhập khẩu tăng và ngược lại2. Hàng nhập khẩu có thể là hàng hóa phục vụ cho
sản xuất trong nước hoặc phục vụ tiêu dùng. Nếu là hàng nhập khẩu phục vụ
sản xuất, khi tỷ giá tăng dẫn đến chi phí các yếu tố đầu vào tăng, sản phẩm đầu
ra cũng phải tăng giá. Nếu là hàng nhập khẩu tiêu dùng, khi tỷ giá tăng dẫn đến
giá của hàng hóa tính bằng nội tệ tăng nên cũng là một nguyên nhân gây ra lạm
phát. Tuy nhiên, ảnh hưởng của giá hàng nhập khẩu đến lạm phát sẽ biểu hiện
rõ hơn khi quốc gia có tỷ lệ nhập khẩu/GDP lớn, cịn với những nước có tỷ lệ
này nhỏ, dẫn truyền từ sự thay đổi của tỷ giá qua giá hàng nhập khẩu đến lạm
phát là khơng đáng kể. Ngồi ba kênh dẫn truyền trên còn một nhân tố nữa tác
động đến lạm phát kỳ vọng. Lãi suất huy động của đồng nội tệ có thể đại diện
cho sự kỳ vọng về lạm phát do cơ sở để xác định lãi suất huy động là kỳ vọng
trung bình của nhà đầu tư về lạm phát và lãi suất thực dương. Việc điều chỉnh
tỷ giá liên tục của NHTW có thể khiến cho lãi suất huy động đồng nội tệ tăng
cao. Điều này sẽ làm giảm lòng tin của dân chúng và nhà đầu tư khi có sự kỳ
vọng về giảm giá đồng nội tệ trong tương lai, gây ra vịng xốy “lạm phát- tỷ
giá”.
Ghi chú : 1 Thơng qua phương trình trao đổi tiền hàng của Fisher: M.V=P.Y,
trong đó: M là mức cung tiền, V là vòng quay tiền tệ, P là mức giá, Y là sản
lượng. Khi M tăng, các yếu tố khác không đổi sẽ làm cho P tăng tức là lạm
phát tăng lên
2

Ở đây chỉ nghiên cứu tác động của tỷ giá đến lạm phát trong nước,

không xem xét tác động của giá hàng hóa thế giới đến lạm phát trong nước



Các yếu tố ảnh hưởng tới các kênh tác động từ tỷ giá tới lạm phát
Thứ nhất, cơ chế điều hành lãi suất: Nếu lãi suất do nhà nước ấn định

hoặc chịu sự can thiệp mang tính chất hành chính sẽ khơng phản ánh đúng bản
chất của lãi suất là giá cả của quyền sử dụng vốn trên thị trường. Như vậy, xem
xét kênh dẫn truyền thứ hai, khi đường IS dịch chuyển làm lãi suất tăng lên
trong ngắn hạn, nhưng NHTW lại ấn định lãi suất (không làm thay đổi mức
lãi suất trên thị trường) nên không thể thu hút các dịng vốn nước ngồi đổ
vào trong nước, như vậy sẽ không cải thiện được cán cân vốn và từ đó, khơng
cải thiện được cán cân tổng thể.


Thứ hai, mức độ di chuyển vốn quốc tế thể hiện khả năng thay thế cho
nhau giữa tài sản trong nước và tài sản nước ngoài. Mức độ di chuyển vốn hoàn
hảo khi tài sản trong nước và tài sản nước ngồi có thể hồn tồn thay thế cho
nhau với chi phí thấp và nhanh chóng. Mức độ di chuyển vốn khơng hồn
hảo khi có những rào cản về di chuyển vốn như những quy định pháp luật, chi
phí di chuyển vốn cao, thời gian thực hiện di chuyển vốn chậm.
Thứ ba, mức độ nhạy cảm của xuất nhập khẩu với tỷ giá. Độ nhạy cảm
này thể hiện ở hệ số co giãn xuất, nhập khẩu với tỷ giá. Các nhà kinh tế chính
trị học nổi tiếng Afred Marshall (1842- 1924) và Abba Lerner (1903- 1982)
đã chứng minh rằng, việc giảm giá đồng nội tệ chỉ có tác dụng cải thiện cán
cân thương mại của một nước nếu nền kinh tế của nước đó thỏa mãn điều kiện
là : “ độ co giãn giá của cầu đối với hàng xuất khẩu theo tỷ giá (được tính bằng
phần trăm thay đổi của giá trị hàng xuất khẩu chia cho phần trăm thay đổi của
mức giá- cũng chính là phần trăm thay đổi của tỷ giá) + độ co giãn giá của cầu
hàng nhập khẩu theo tỷ giá (được tính bằng phần trăm thay đổi của giá trị
hàng nhập khẩu chia cho phần trăm thay đổi của mức giá- cũng chính là

phần trăm thay đổi của tỷ giá) >1 “. Nếu tổng của hai độ co giãn này nhỏ hơn
một thì việc phá giá sẽ làm tổn hại cán cân thương mại.
Thứ tư, cơ chế điều hành tỷ giá: Trong cơ chế tỷ giá linh hoạt, mối quan
hệ giữa tỷ giá- lãi suất, lãi suất- tỷ giá vận hành khá linh hoạt theo tín hiệu của
thị trường. Trong cơ chế tỷ giá cố định, hoặc khi cơ chế điều hành tỷ giá kém
linh hoạt, tỷ giá bị ấn định hoặc chậm được điều chỉnh không phản ánh các
yếu tố thị trường, tác động của tỷ giá đến xuất khẩu ròng là rất hạn chế.
Thứ năm, mức độ đơ la hóa của nền kinh tế: Một nền kinh tế có mức độ đơ
la hóa cao hoặc khả năng thay thế giữa tài sản trong nước và tài sản nước ngồi
hồn hảo thì lãi suất nội tệ sẽ không thể độc lập thay đổi dưới tác động của
NHTW mà bị chi phối mạnh bởi lãi suất quốc tế. Nếu đi kèm với cơ chế tỷ
giá kém linh hoạt, tác động của tỷ giá đến thu hút dịng vốn từ nước ngồi đổ
vào trong nước bị hạn chế.


Thực trạng tác động của tỷ giá tới lạm phát ở Việt Nam


Nghiên cứu về quá trình cải cách kinh tế của Việt Nam trong hơn hai thập
kỷ qua cho thấy, lạm phát luôn là vấn đề đối với nền kinh tế Việt Nam, việc
xem xét sự biến động của lạm phát và các nhân tố quyết định lạm phát luôn
được các nhà nghiên cứu kinh tế trong và ngoài nước quan tâm. Trên thực tế,
lạm phát luôn luôn thường trực và gây ra những tổn hại nhất định đối với nền
kinh tế Việt Nam.
Trong giai đoạn từ 1980 đến 1990, khi bắt đầu quá trình cải cách, Việt
Nam đã trải qua giai đoạn siêu lạm phát, sau đó chỉ có giai đoạn 1999- 2003 là
lạm phát được duy trì ở mức độ thấp < 5% và ổn định. Sau giai đoạn này, lạm
phát lại tiếp tục gia tăng và biến động khó lường, mức biến động cũng cao hơn
so với các quốc gia trong khu vực.
Cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á đã ảnh hưởng tới nhiều nước và hệ

quả của nó là giá cả thế giới và tổng cầu 3 giảm mạnh. Chính vì vậy, giai đoạn
1999-2003 là một giai đoạn Việt Nam có tỷ lệ lạm phát thấp, và riêng năm
2000 cịn rơi vào tình trạng giảm phát nhẹ mặc dù trong suốt giai đoạn này
cung tiền và tốc tộ tăng trưởng tín dụng tăng khá cao (khoảng 30-40%/năm)
và VND phá giá mạnh (khoảng 36%) trong giai đoạn 1997-2003. Tuy nhiên,
để đánh giá tác động của tỷ giá đến diễn biến lạm phát Việt Nam giai đoạn
1997- 2011 là một vấn đề rất khó khăn.
Đồ thị 1 cho thấy, từ năm 1997 đến 1999, lạm phát có xu hướng
giảm, tuy nhiên, từ đầu năm 1998 đến 1999, tỷ giá tăng mạnh do đồng VND bị
giảm giá mạnh. Nhiều nhà nghiên cứu nhận định rằng, sự ổn định tỷ giá đóng
vai trị quan trọng trong việc kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, đối với Việt Nam
trong giai đoạn 1997-1999, lạm phát được kiềm chế do tác động của ổn định
tỷ giá không nhiều mà chủ yếu là do kết quả của nhiều giải pháp chính sách
khác, đó là: (1) Khơng phát hành tiền cho bội chi ngân sách và không cung ứng
vốn tín dụng cho nền kinh tế chủ yếu bằng tiền của NHTW kể từ năm 1992đây là giải pháp có tác động mạnh nhất đến kiềm chế lạm phát; (2) NHNN thực
hiện chính sách lãi suất thực dương, việc áp dụng chính sách này đã tạo lịng
tin cho dân chúng vào VND và khuyến khích tiết kiệm bằng VND tăng nhanh;
(3) có sự cải cách mạnh mẽ của các doanh nghiệp và chuyển đổi cơ cấu kinh tế.


Ghi chú : 3 Tổng cầu ở đây bao gồm cầu về hàng hóa trong nước và cầu hàng
Việt Nam từ thế giới

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ IMF Country Report No 02/5; 03/382; 07/386;
10/281 và Ngân hàng Nhà nước.
Trong hai năm 1998 và 1999, tỷ giá tăng mạnh, nhưng lạm phát trong
hai năm này ở mức thấp và tiếp tục giảm đến mức năm 2000 rơi vào tình trạng
thiểu phát. Điều này cho thấy, ảnh hưởng của tỷ giá đến lạm phát trong giai
đoạn này rất hạn chế. Trong giai đoạn từ 2000-2003, tỷ giá và lạm phát được
duy trì tương đối ổn định, điều này đã góp phần không nhỏ đến ổn định kinh tế

và tăng trưởng kinh tế.
Sau một giai đoạn ổn định ở mức thấp, lạm phát tăng lên 9,5% vào năm
2004, nguyên nhân của đợt lạm phát này do: (1) Tác động của việc tăng cung
ứng tiền và tốc độ tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế khá cao diễn ra trong
giai đoạn trước đó; (2) các tác động tiêu cực đối với tăng trưởng của cuộc
khủng hoảng giảm, tổng cầu tăng lên sau giai đoạn khủng hoảng cùng với sự
tăng lên của tiền lương danh nghĩa ở các khu vực kinh tế trong năm 2003 khiến
cho giá cả tăng lên; (3) do những biến động của thế giới tác động làm cho giá
cả một số mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam tăng mạnh như giá xăng dầu, sắt
thép… kết hợp với thiên tai dịch bệnh của năm 2003 đã tạo nên các cú sốc
cung là những nguyên nhân gây ra lạm phát quay trở lại vào giai đoạn này.


Đồ thị 2. Mức tăng lạm phát, tổng phương tiện thanh tốn, tín dụng của Việt
Nam (1997-2011)

Trước diễn biến lạm phát tăng cao năm 2004, NHNN thực hiện chính
sách tiền tệ thắt chặt khiến cho lãi suất tăng lên, đồng thời duy trì sự ổn định
của tỷ giá nhằm kiềm chế lạm phát từ năm 2004. Rất nhiều biện pháp đã được
Chính phủ và NHNN kết hợp sử dụng, nhưng lạm phát vẫn ở mức cao kể từ
2005 cho đến năm 2011. Có nhiều lý do để giải thích sự gia tăng lạm phát của
giai đoạn này. Các lý do chủ yếu nhất là trong giai đoạn này có sự gia tăng
mạnh của tiền lương tối thiểu, sự gia tăng của giá cả hàng hóa trên thị trường
thế giới, chính sách tiền tệ nới lỏng, chính sách quản lý tỷ giá thiếu linh hoạt,
Việt Nam trở thành thành viên của WTO vào cuối năm 2006 khiến cho luồng
vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài đổ vào Việt Nam tăng mạnh, nợ
nước ngoài tăng… Để giữ ổn định tỷ giá, NHNN phải can thiệp nhiều lần trên
thị trường ngoại hối (tăng cung tiền) đã góp phần làm trầm trọng hơn tình trạng
lạm phát của giai đoạn này. Năm 2006 lạm phát có giảm nhẹ so với hai năm
trước đó, tuy nhiên khi NHNN thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng cùng với

kỳ vọng lạm phát đã dẫn đến lạm phát thực tế tăng lên ở giai đoạn tiếp theo
của chu kỳ kinh tế. Chính sách tỷ giá chỉ có tác động cộng hưởng do tác
động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế chứ khơng có tác động trực tiếp đến
lạm phát. Đồ thị 2 cho thấy sự gia tăng mạnh mẽ của cung tiền và tăng trưởng


tín dụng vào năm 2007 đã khiến cho tỷ lệ lạm phát năm 2008 bị đẩy lên cao ở
mức gần 24%.
Kể từ khi gia nhập WTO (11/2006), luồng vốn nước ngoài vào Việt Nam
rất lớn (vốn đầu tư trực tiếp, vốn đầu tư gián tiếp, thu từ dịch vụ qua biên giới,
kiều hối…). Để ổn định tỷ giá hối đoái có lợi cho xuất khẩu và đầu tư, tăng khả
năng cạnh tranh hàng hóa trong nước, NHNN đã phải tăng cung tiền để hút
ngoại tệ vào, làm tăng tổng phương tiện thanh tốn trong lưu thơng, gây áp lực
lên lạm phát.
Ngoài các nguyên nhân gây nên lạm phát cao trong các năm 2007 và
2008 thuộc về vấn đề tiền tệ, cịn phải kể đến ngun nhân thuộc về điều hành
chính sách tỷ giá của Việt Nam trong giai đoạn này. Trong suốt một thời gian
dài, NHNN để VND “neo” quá lâu vào đồng USD, thậm chí cịn cam kết về tỷ
lệ mất giá cụ thể khá thấp của VND so với USD, trong khi kể từ 2006 đến nay,
đồng USD mất giá mạnh (khoảng 15%) so với các đồng tiền mạnh khác, trong
khi đó đồng VND lại mất giá so với USD, điều này làm cho mức độ mất giá
của đồng VND so với các đồng tiền mạnh khác càng trở nên trầm trọng hơn.
Chính sự mất giá của VND so với USD đã làm cho hàng hóa nhập khẩu
trở nên đắt đỏ hơn, trong khi tính từ năm 2000 đến nay, nhập khẩu của Việt
Nam liên tục tăng. Điều này khiến cho chi phí sản xuất của các doanh nghiệp
tăng, kéo theo giá thành sản phẩm tăng. Theo các cơ quan kiểm tốn cho biết,
báo cáo tài chính của các doanh nghiệp thể hiện khoản mục chi phí do tăng tỷ
giá tăng đột biến vào năm 2008. Vậy tại sao giai đoạn 2006 đến 2010 việc
điều hành tỷ giá của NHNN lại góp phần làm gia tăng lạm phát ở Việt Nam?
Điều này có thể được lý giải như sau: Sức mua của VND năm 2009

giảm 53,2% so với năm 2005 (chỉ số CPI năm 2005 là 100 thì năm 2009 là
153,2%). Trong cùng khoảng thời gian này, đồng USD giảm giá 13%, đồng
CNY giảm 11,4% (tương ứng năm CPI năm 2005 là 100 thì năm 2009 CPI của
Mỹ là 113, của Trung Quốc là 111,4). Theo nguyên lý cân bằng sức mua (E =
P1/P2), tỷ giá thực của VND giảm tương ứng 35,5% so với USD và 37,5% so
với CNY. Tuy nhiên, cho đến cuối năm 2009 tỷ giá danh nghĩa của VND (tỷ


giá liên ngân hàng do NHNN công bố) so với USD chỉ tăng 8% (từ mức
USD/VND là 15.819 lên 17.069). Như vậy, còn một khoảng cách khá lớn
giữa diễn biến tỷ giá danh nghĩa và tỷ giá thực của VND, dẫn đến đồng
VND bị định giá cao đã gây bất lợi cho xuất khẩu, tăng nhập khẩu, cán cân
thương mại thâm hụt là yếu tố tạo ra sự mất ổn định về kinh tế vĩ mô.
So sánh với một số quốc gia khác cho thấy, trong khi một số nước
như Trung Quốc, Thái Lan đã chấp nhận “đánh đổi” mục tiêu tỷ giá, để cho
đồng tiền của họ lên giá so với USD nhằm thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm
phát, do đó duy trì được tỷ lệ lạm phát thấp ở mức 1 con số (Bảng 1)

Trong khi tại Việt Nam, để thực hiện chế độ “neo” tỷ giá theo USD, NHNN
cam kết một tỷ lệ biến động tỷ giá danh nghĩa (có thời kỳ cam kết là 1%)
và phải chấp nhận mức lạm phát cao hơn, khi lạm phát tăng, NHNN lại thực
hiện chính sách tiền tệ thắt chặt làm tăng lãi suất VND (lãi suất tăng cao vào
các thời điểm năm 2008 và cuối năm 2010), điều này nếu không được thực


hiện một cách chặt chẽ có tính tốn thì Việt Nam lại rơi vào vịng xốy đó là
“tỷ giá-lạm phát-lãi suất- tỷ giá”
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới vào hai năm 2008 và 2009 đã góp
phần làm giảm lạm phát vào năm 2009 và 2010 do giá cả hàng hóa quốc tế
giảm cùng với tổng cầu giảm, đã giúp Việt Nam giảm được lạm phát. Tuy

nhiên, khi Chính phủ thực hiện các gói kích cầu từ giữa năm 2009 cùng với
việc mở rộng cung tiền và tín dụng khiến cho lạm phát gia tăng trở lại vào năm
2010 và 2011. Trong năm 2011, ngay từ đầu năm Chính phủ đưa ra Nghị quyết
11 với trọng tâm ưu tiên là ổn định kinh tế vĩ mô, giảm thâm hụt thương mại và
kiểm sốt lạm phát, thơng qua phối hợp đồng bộ các chính sách vĩ mơ như thắt
chặt tài khóa và tiền tệ, ưu tiên vốn cho lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu… Diễn
biến thực tế cho thấy kết quả vẫn chưa được như mong muốn, lạm phát năm
2011 đã lên tới 18,6%. Để thực hiện tốt nhiệm vụ mà Chính phủ giao cho là
“ưu tiên mục tiêu kiềm chế lạm phát”, trong thời gian tới, NHNN sẽ có
những thay đổi trong điều hành chính sách tỷ giá theo hướng tỷ giá cần phải
thực sự linh hoạt, công bố tỷ giá liên ngân hàng phải sát đúng với tỷ giá giao
dịch trên thị trường.
Để nghiên cứu về kênh dẫn truyền từ tỷ giá đến lạm phát, chúng ta có
thể xem xét mối quan hệ giữa tăng tỷ giá và sự biến động của cán cân thanh
toán tổng thể tại Việt Nam.
Bảng 2. Tỷ giá danh nghĩa và cán cân thanh toán của Việt Nam (1998-2011)

Bảng 2 cho thấy, tỷ giá danh nghĩa tăng qua các năm nhưng không cùng
chiều với sự biến động của cán cân thanh toán tổng thể. Tuy nhiên, với giai


đoạn 2004-2007 có thể thấy rằng, chính sách duy trì tỷ giá ổn định (NHNN
cam kết tỷ giá biến động không quá 1%) cùng với việc hội nhập đã dẫn đến
cán cân tổng thể thặng dư ngày càng tăng. Do ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng năm 2008 nên xảy ra hiện tượng các dòng vốn đảo chiều vào 2009.

Qua Biểu đồ 3 cho thấy, diễn biến của lạm phát cùng xu hướng với diễn biến
của cán cân tổng thể, đặc biệt là giai đoạn từ 2003 đến 2011. Do Việt Nam là
một quốc gia có tỷ trọng nhập khẩu cao, đặc biệt là trong những năm gần đây,
tỷ trọng nhập khẩu/GDP trung bình của giai đoạn 2000-2010 là 75,98% GDP 4.

Khi nghiên cứu chỉ số giá nhập khẩu chung thì có thể xem xét sự biến động của
chỉ số giá hàng tiêu dùng nhập khẩu và chỉ số giá hàng tư liệu sản xuất nhập
khẩu. Chỉ số giá hàng tiêu dùng nhập khẩu có ảnh hưởng tới CPI của Việt
Nam nhiều hơn. Điều này do hàng tiêu dùng nhập khẩu là những hàng hóa
nằm trực tiếp trong thành phần của rổ hàng hóa tiêu dùng, mà hàng hóa tiêu
dùng lại chiếm tỷ trọng lớn trong các rổ hàng hóa tính CPI của Việt Nam
Ghi chú : 4 Tác giả tính toán dựa vào Niên giám thống kê 2006 tr67, Niên giám
thống kê 2010 tr129


Đồ thị 4 cho thấy tác động của chỉ số giá hàng nhập khẩu đến CPI là rất rõ
ràng, cùng chiều và nhanh chóng. Vì vậy trong trường hợp tỷ giá tăng liên tục
sẽ dẫn đến chỉ số giá hàng nhập khẩu tăng và tác động làm tăng lạm phát.
Tóm lại, tỷ giá có tác động nhất định tới lạm phát ở Việt Nam, tùy thuộc vào
từng thời kỳ cho thấy sự tác động này có thể nhiều hay ít. Việc duy trì tỷ giá
danh nghĩa ổn định, ít biến động là một nỗ lực rất lớn của NHNN trong việc ổn
định thị trường tiền tệ và giá trị đồng VND, nhưng kết quả là lạm phát ở Việt
Nam vẫn ở mức cao và khơng ổn định. Vì vậy, trong thời gian tới việc điều
hành chính sách tỷ giá phải được NHNN tính tốn kỹ các tác động giữa tỷ giá
và lạm phát để góp phần kiềm chế lạm phát nhằm đạt mục tiêu ổn định kinh tế
vĩ mô mà Chính phủ đã đề ra.
2.3.2 Lạm phát tác động tới tỷ giá:
Khi một nước có lạm phát, sức mua đồng nội tệ giảm, với tỷ giá hối đối
khơng đổi, hàng hoá dịch vụ trong nước đắt hơn trên thị trường nứơc ngồi
trong khi hàng hố dịch vụ nước ngồi rẻ hơn trên thị trường trong nứơc. Theo
quy luật cung cầu, cư dân trong nước sẽ chuyển sang dùng hàng ngoại nhiều
hơn vì giá rẻ hơn, nhập khẩu tăng, cầu ngoại tệ tăng, tỷ giá hối đối tăng.
Tương tự vì tăng giá, cư dân nước ngồi sẽ dùng ít hàng nhập khẩu hơn. Hoạt
động xuất khẩu giảm sút, cung ngoại tệ trên thị trường giảm, tỷ giá hối đoái
tăng. Như vậy lạm phát ảnh hưởng đến cả cung và cầu ngoại tệ theo hướng

tăng giá ngoại tệ, tác động cộng gộp làm cho tỷ giá hối đoái tăng nhanh hơn.
Trên thị trưòng tiền tệ, lạm phát làm đồng tiền mất giá, người dân sẽ chuyển
sang nắm giữ các tài sản nước ngoài nhiều hơn, cầu ngoại tệ gia tăng đẩy tỷ giá
hối đoái tăng. Trong trường hợp các quốc gia đều có lạm phát thì những tác
động trên sẽ phụ thuộc vào tỷ lệ lạm phát tương đối giữa các quốc gia. Quốc


gia nào có tỷ lệ lạm phát cao hơn, đồng nội tệ quốc gia đó sẽ mất giá một cách
tương đối và tỷ giá hối đoái tăng.
2.4. Các bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ giữa lạm phát và tỷ giá
hối đoái
- Ilan Goldfajn và Sergio R.C. Werlang (1998) trong một nghiên cứu
thực nghiệm về Cơ chế truyền dẫn từ sự sụt giảm tỷ giá đến lạm phát theo
khung dữ liệu bảng đã thấy rằng có mối quan hệ giữa sự sụt giảm tỷ giá hối
đoái và lạm phát. Bài nghiên cứu của 2 tác giả này sử dụng số liệu thu thập từ
71 quốc gia trong giai đoạn 1980-1998. Bài nghiên cứu cũng chỉ ra rằng các
nhân tố chính quyết định đến hệ số truyền dẫn từ sụt giảm (hoặc sự gia tăng) tỷ
giá hối đoái đến lạm phát bao gồm các yếu tố mang tính chu kỳ cấu thành đầu
ra của nền kinh tế, mức độ mở cửa kinh tế, mức độ định giá cao tỷ giá hối đoái
thực ban đầu (RER – Real Exchange rate), tỷ lệ lạm phát ban đầu (Initial
inflation). Trong bài nghiên cứu này, tác giả đã tìm ra hệ số truyền dẫn tăng khi
thời gian đo lường tăng lên và đạt đến đỉnh điểm tại thời điểm 12 tháng. Tác
giả cũng chỉ ra sự sai lệch trong việc đánh giá tỷ giá hối đoái thực là nhân tố
quan trọng nhất ảnh hưởng đến lạm phát tại các quốc gia thị trường mới nổi
trong khi tỷ lệ lạm phát ban đầu là nhân tố quan trọng nhất đối với các quốc gia
phát triển. Bằng cách sử dụng mơ hình ước tính, bài nghiên cứu của hai tác giả
này dự báo một tỷ lệ lạm phát hơi cao hơn một chút so với thực tế quan sát
được trong nhiều trường hợp các quốc gia bị sụt giảm tỷ giá hối đối mạnh,
thậm chí ngay cả khi có tính đến những phương pháp ước tính kỳ vọng tỷ giá
hối đoái. Điều này cho thấy rằng các nhà hoạch định chính sách nên thận trọng

khi sử dụng các mơ hình trong q khứ để dự báo tỷ lệ lạm phát sau khi tỷ giá
hối đoái bị mất giá mạnh.
- Agnès Belaisch (2003), nghiên cứu Cơ chế truyền dẫn Tỷ giá hối đối
tại Brazil. Ơng kết luận rằng: (1) Sau 2 quý xảy ra cú shock về tỷ giá thì sẽ tác
động đến giá tiêu dùng (consumer prices), với tỷ lệ tương ứng là 6% sau 2 quý
và 17% sau 1 năm.


Năm 2006 Takatoshi Ito và Kiyotaka Sato (2006) đã thực hiện một
nghiên cứu về sự thay đổi tỷ giá và lạm phát trong giai đoạn khủng hoảng kinh
tế Châu Á (Exchage rate changes and Inflation in Post – Crisis Asian
Economies) bằng cách sử dụng mơ hình VAR phân tích cơ chế truyền dẫn trong
tỷ giá (VAR Analysis of the Exchange Rate Pass – Through). Kết quả bài
nghiên cứu này cho thấy rằng (1) Hệ số truyền dẫn từ tỷ giá hối đoái tới giá
nhập khẩu (import price) là khá cao trong nền kinh tế khủng hoảng lớn; (2) Hệ
số truyền dẫn từ tỷ giá tới chỉ số giá tiêu dùng (CPI – Costumer Price Index) là
thấp. Điều này hàm ý rằng tỷ giá hối đối tác động khơng lớn tới lạm phát của
các quốc gia Châu Á trong giai đoạn khủng hoảng;
- Michele Ca’ Zorzi, Elke Hahn vàMarcelo Sánchez (2007) thực hiện
nghiên cứu về cơ chế truyền dẫn từ tỷ giá hối đoái trong các nền kinh tế mới
nổi (Exchange rate pass through in emerging market). Tác giả kiểm định trong
12 nền kinh tế mới nổi ở Châu Á, Mỹ Latin, Trung và Đơng Âu. Bằng cách sử
dụng mơ hình tự hồi quy vector (Vector Autoregressive Model) tác giả đã thấy
rằng: Hệ số truyền dẫn đến chỉ số giá CPI và nhập khẩu ở các quốc gia này cao
hơn với những nước có nền kinh tế phát triển; Ở các nền kinh tế mới nổi có lạm
phát ở mức một con số, hệ số truyền dẫn tới Chỉ số giá tiêu dùng CPI và nhập
khẩu là khá thấp và cũng khơng giống như các quốc gia có nền kinh tế đã phát
triển; Bài nghiên cứu cũng tìm ra được mối tương quan mạnh giữa tỷ giá hối
đoái và lạm phát.
- Võ Văn Minh (2009) trong một nghiên cứu về cơ chế truyền dẫn của tỷ

giá hối đoái và tác động tới lạm phát Việt Nam (Exchang rate pass – through
and its implications for inflation in Vietnam) đã chỉ ra rằng: hệ số truyền dẫn tỷ
giá hối đoái trong năm đầu tiên là 0,61, hệ số này là tương đương với các nền
kinh tế giống Việt Nam; Bài viết cũng chỉ ra rằng sau cú shock về tỷ giá thì sau
5 đến 7 tháng sau mới tác động tới nhập khẩu; ngồi ra bài nghiên cứu cịn cho
thấy chỉ số giá tiêu dùng CPI (Costumer price index) sẽ bị tác động sau 10
tháng khi xảy ra cú shock về tỷ giá. Và trong vòng 15 tháng kẻ từ lúc xảy ra cú


shock về tỷ giá thì sẽ khơng cịn tác động đến Chỉ số giá tiều dùng CPI và giá
nhập khẩu (import price).
Ngồi ra cịn có những bài nghiên cứu lớn về hệ số truyền dẫn từ giảm
tỷ giá hối đoái đến lạm phát (Dornbusch năm 1987, Feenstra et al 1994, 1989
Fisher, Goldberg và các cộng sự năm 1997, và Klein năm 1990). Ngồi ra cịn
có một số cơng trình thực nghiệm về hệ số truyền dẫn cho quốc gia, khu vực cụ
thể (Amitrano và cộng sự năm 1997 và những người khác).
Tóm lại, có rất nhiều nghiên cứu về cơ chế truyền dẫn từ sự sụt gi ảm tỷ
giá đến lạm phát. Các kết quả nghiên cứu này là không giống nhau do sự khác
biệt về chọn mẫu các quốc gia nghiên cứu, thời điểm mà các tác giả thực hiện
nghiên cứu, mơ hình mà các tác giả này sử dụng… Nhưng tất cả các nghiên
cứu này đều cho thấy rằng có sự tác động giữa sụt giảm tỷ giá hối đoái (hoặc
tăng giá) tới Chỉ số giá tiều dùng CPI, lạm phát và giá nhập khẩu (price
import). Đây là một bằng chứng quan trọng đề chúng tôi xây dựng mơ hình
nghiên cứu “Cơ chế truyền dẫn từ sự sụt giảm tỷ giá đến lạm phát tại Việt
Nam”.
-Theo thuyết “Ngang giá sức mua”:Về mặt lý thuyết được nhiều nhà
kinh tế học thừa nhận, mối quan hệ giữa tỷ giá và lạm phát có thể được giải
thích theo thuyết “Ngang giá sức mua” (Purchasing Power Parity theory), mối
quan hệ đó được phát biểu như sau: Khi mức độ phá giá của tiền tệ lớn hơn sự
mất giá của hàng hóa, lạm phát sẽ gia tăng. Khi mức độ mất giá của tiền tệ thấp

hơn sự mất giá của hang hóa, lạm phát sẽ được hạn chế. Bởi vậy, khi lạm phát
trầm trọng, tăng tỷ giá có thể hạn chế được lạm phát.
Giả sử tại thời điểm 01/01/2011, tỷ giá giữa VND và USD là
20.000VND/USD. Theo thuyết “Ngang giá Sức Mua“, tỷ giá giữa hai đồng
tiền sẽ được điều chỉnh, sao cho giá của cùng một loại hàng hóa ở hai nước thì
có mức giá ngang bằng nhau. Do vậy, giá cà phê ở hai thị trường Mỹ và VN
phải tương đương nhau. Tức là 1kg cà phê ở Mỹ có giá là 2USD, tương ứng
với 40.000VN ở thị trường VN.


×