Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Các trường hợp miễn trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.18 KB, 11 trang )

HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
KHOA LUẬT QUỐC TẾ

Học phần: Luật Hình sự

ĐỀ TÀI: Các trường hợp miễn trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18
tuổi phạm tội.

Giảng viên hướng dẫn :
Sinh viên thực hiện
:
Lớp
:
Mã sinh viên
:

TS. Nguyễn Thị Lan
Phan Diệu Thanh
LQT47C2
LQT47C1-0295

Hà nội, ngày 22 tháng 6 năm 2021


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
NỘI DUNG...........................................................................................................3
1. Các trường hợp miễn trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành.....................................3
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của chế định trách miễn trách nhiệm
hình sự với người dưới 18 tuổi phạm tội.........................................................3


1.2. Trường hợp miễn trách nhiệm hình sự áp dụng đối với dưới 18 tuổi
phạm tội.............................................................................................................4
2. Quan điểm cá nhân về các trường hợp miễn trách nhiệm hình sự với
người dưới 18 tuổi phạm tội...............................................................................5
2.1. Thực tiễn áp dụng quy định về miễn trách nhiệm hình sự đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội.............................................................................5
2.2.1. Tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện............................5
2.2.2. Thực trạng việc áp dụng biện pháp miễn trách nhiệm hình sự đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội.....................................................................5
2.2. Các kiến nghị hoàn thiện các quy định của Bộ luật Hình sự 2015 về
miễn trách nhiệm hình sự với người dưới 18 tuổi phạm tội...........................7
KẾT LUẬN..........................................................................................................9
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................10


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
NCTN: người chưa thành niên
TNHS: trách nhiệm hình sự
BLHS: bộ luật hình sự
VPPL: vi phạm pháp luật
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thanh thiếu niên là thế hệ tương lai của đất nước, vì vậy vấn đề giáo
dục, đào tạo thế hệ trẻ và đấu tranh phịng, chống, ngăn chặn NCTN có hành
vi vi phạm pháp luật từ lâu đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Đảng và
Nhà nước ta đã đề ra và thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ nhằm giáo dục,
ngăn chặn và hạn chế tình trạng NCTN phạm tội. Pháp luật nước ta thể hiện
chính sách nhân đạo đối với NCTN phạm tội. Nhiều quy phạm của chế định
miễn TNHS đối với NCTN phạm tội đã được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp
với thực tiễn. Tuy nhiên, một số quy định vẫn còn bất cập, nên một số quy

phạm pháp luật của chế định miễn TNHS cịn có nhận thức khơng đúng, gây
khó khăn cho việc áp dụng pháp luật trong hoạt động thực tiễn.
Thời gian qua đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về những vấn đề liên
quan đến chế định miễn TNHS đối với NCTN phạm tội. Nhưng trong xu thế
hội nhập cũng với sự phát triển của đất nước, nhiều vấn đề của luật hình sự,
trong đó có chế định miễn TNHS đối với NCTN phạm tội cũng ln vận động
và phát triển địi hỏi phải được tiếp tục nghiên cứu, giải quyết. Trước tình
hình đó, việc nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận và thực
tiễn liên quan đến chế định miễn TNHS đối với NCTN phạm tội, trên cơ sở
đó đưa ra những giải pháp để tiếp tục hoàn thiện BLHS hiện hành và giải
quyết những vướng mắc của thực tiễn áp dụng luật hình sự là việc làm cần
thiết, có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận và cả về mặt thực tiễn trong giai
đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay ở Việt Nam.
1


Với những lý do trên em đã lựa chọn đề tài: "Các trường hợp miễn
trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội" làm đề tài nghiên
cứu cho tiểu luận của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Tiểu luận làm rõ các vấn đề sau:
(i) Các trường hợp miễn TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
(ii) Thực tiễn áp dụng các quy định miễn TNHS với người dưới 18 tuổi
phạm tội
(iii) Nêu và phân tích các kiến nghị hồn thiện Bộ luật Hình sự 2015 về
trường hợp miễn TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
(i) Đối tượng nghiên cứu: chế định miễn TNHS đối với người dưới 18
tuổi phạm tội theo luật hình sự Việt Nam
(ii) Phạm vi nghiên cứu: tập trung nghiên cứu dưới góc độ của luật hình

sự và nghiên cứu thực tiễn các quy định của pháp luật hình sự về miễn TNHS
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn nước Việt Nam
4. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận dựa trên các phương pháp sau:
(i)

Phương pháp hệ thống

(ii)

Phương pháp logic

(iii)

Phương pháp phân tích

(iv)

Phương pháp đánh giá

5. Bố cục tiểu luận
Tiểu luận gồm 2 phần:
Phần 1: Vấn đề chung về các trường hợp miễn TNHS đối với người dưới 18
tuổi phạm tội
Phần 2: Quan điểm cá nhân về các trường hợp miễn TNHS đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành

2



NỘI DUNG
1. Các trường hợp miễn trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của chế định miễn trách nhiệm hình sự
với người dưới 18 tuổi phạm tội
Miễn TNHS đối với NCTN phạm tội là một chế định nhân đạo của luật
hình sự Việt Nam và được thể hiện bằng văn bản với nội dung hủy bỏ hậu quả
pháp lý của việc thực hiện hành vi phạm tội đối với NCTN phạm tội bị coi là
có lỗi trong việc thực hiện hành vi đó, do các cơ quan tư pháp hình sự có
thẩm quyền tùy thuộc vào giai đoạn TTHS tương ứng áp dụng khi có đầy đủ
căn cứ pháp lý và những điều kiện luật định.
Miễn TNHS đối với NCTN còn có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, đây là trường hợp miễn TNHS đặc biệt dành riêng cho
NCTN phạm tội, là một trong những chế định phản ánh rõ nét nhất ngun tắc
nhân đạo của chính sách hình sự nói chung và PLHS Việt Nam nói riêng,
cũng như sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước ta đối với NCTN phạm tội.
Thứ hai, miễn TNHS chỉ có thể đặt ra đối với NCTN phạm tội khi mà
hành vi của họ thỏa mãn những dấu hiệu của CTTP cụ thể nhưng đối với họ
lại có đầy đủ căn cứ pháp lý và những điều kiện nhất định. Đây là trường hợp
miễn TNHS mang tính chất tùy nghi.
Thứ ba, theo giai đoạn TTHS tương ứng cụ thể, miễn TNHS được thực
hiện bởi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và quyết định được thể hiện bằng
văn bản.
Thứ tư, NCTN phạm tội được miễn TNHS đương nhiên không phải
chịu các hậu quả pháp lý bất lợi của việc phạm tội do mình thực hiện như
khơng bị truy cứu TNHS, khơng phải chịu hình phạt, khơng bị coi là có án
tích và khơng bị coi là có tội.

3



Như vậy NCTN phạm tội vẫn có thể phải chịu một hoặc nhiều biện
pháp tác động về mặt pháp lý thuộc các ngành luật tương ứng khác như: buộc
phải phục hồi lại tình trạng ban đầu, buộc bồi thường thiệt hại.
PLHS Việt Nam quy định chế định miễn TNHS đối với NCTN phạm
tội có ý nghĩa quan trọng trong áp dụng pháp luật cũng như giáo dục cải tạo
NCTN phạm tội, khơng những động viên, khuyến khích người phạm tội lập
công chuộc tội, chứng tỏ khả năng giáo dục, cải tạo nhanh chóng hịa nhập
cộng đồng mà cịn tạo cơ sở pháp lý cho sự kết hợp các biện pháp cưỡng chế
hình sự của nhà nước với các biện pháp tác động xã hội trong việc giáo dục,
cải tạo người phạm tội, giúp họ trở thành người có ích trong xã hội.
1.2. Trường hợp miễn trách nhiệm hình sự áp dụng đối với người dưới 18
tuổi phạm tội
Về nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội, quy định tại Điều
91 BLHS năm 2015: “Việc xử lý người dưới 18 phạm tội phải bảo đảm lợi ích
tốt nhất của người dưới 18 tuổi”.
Điều kiện để người dưới 18 tuổi phạm tội có thể được miễn trách nhiệm
hình sự theo quy định của BLHS năm 2015 là:
Thứ nhất, người phạm tội là người dưới 18 tuổi. Người dưới 18 tuổi
phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi đã có lỗi cố ý hoặc vơ ý
trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà BLHS quy định là tội
phạm.
Thứ hai, tội phạm mà người đó thực hiện phải thuộc một trong các trường
hợp nêu tại khoản 2 Điều 91 BLHS năm 2015, cụ thể:


Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm
tội nghiêm trọng, trừ tội phạm quy định tại các điều 134, 141, 171, 248,
249, 250, 251 và 252 của Bộ luật này;


– Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng quy
định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật này, trừ tội phạm quy định tại các

4


điều 123, 134, 141, 142, 144, 150, 151, 168, 171, 248, 249, 250,
251 và 252 của Bộ luật này;
– Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm nhưng có vai trị khơng đáng
kể trong vụ án (điểm c khoản 2 Điều 90).
Thứ ba: Người dưới 18 tuổi phạm tội, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự
nguyện khắc phục phần lớn hậu quả.
2. Quan điểm cá nhân về các trường hợp miễn trách nhiệm hình sự với
người dưới 18 tuổi phạm tội
2.1. Thực tiễn áp dụng quy định về miễn trách nhiệm hình sự đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội
2.2.1. Tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
Trong hơn một thập kỷ qua, trung bình mỗi năm có ít nhất 13.000
người dưới 18 tuổi VPPL. Phần lớn trường hợp vi phạm hành chính, chiếm
hơn 60% trong tổng số vụ VPPL do người dưới 18 tuổi thực hiện. Trung bình
trong 10 năm trở lại đây, số lượng các vụ vi phạm hành chính do đối tượng
này thực hiện giảm 66%, số vụ án hình sự giảm chậm hơn, khoảng 35%. Điều
này khiến tỷ trọng các vụ phạm tội hình sự có xu hướng tăng lên trong tổng số
VPPL do người dưới 18 tuổi thực hiện.
Theo thống kê thì hành vi phạm tội của người dưới 18 tuổi tập trung
nhiều nhất vào các nhóm tội xâm phạm sở hữu; xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, nhân phẩm và danh dự con người, một số tội xâm phạm an tồn cơng
cộng, trật tự cơng cộng. Về giới tính, độ tuổi, hầu hết người dưới 18 tuổi
VPPL là nam giới, chủ yếu từ 16 đến dưới 18 tuổi.
2.2.2. Thực trạng việc áp dụng biện pháp miễn trách nhiệm hình sự đối với

người dưới 18 tuổi phạm tội
Qua nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của BLHS Việt Nam
về miễn TNHS có thể rút ra những đánh giá, nhận xét sau:
Về thành tựu, công tác theo dõi thi hành pháp luật liên quan đến người
dưới 18 tuổi VPPL đã được tăng cường. Để triển khai thi hành các luật mới có
5


liên quan đến phòng ngừa, xử lý, giáo dục, phục hồi người dưới 18 tuổi phạm
pháp, từ năm 2013 đến nay hơn 20 văn bản dưới luật đã được ban hành. Một
trong những thành tựu nổi bật nhất trong giai đoạn vừa qua là việc hình thành
các tịa chun trách về gia đình và người chưa thành niên. Các báo cáo cũng
cho thấy một xu hướng giảm mạnh việc áp dụng biện pháp đưa vào trường
giáo dưỡng đối với người dưới 18 tuổi, việc trả tự do trước thời hạn cho người
dưới 18 tuổi được đẩy mạnh. Trong giai đoạn 2010-2020, số phạm nhân chưa
thành niên đã giảm hơn 80%.
Về hạn chế, trong thời gian qua số người dưới 18 tuổi phạm tội bị xử
phạt tù có thời hạn vẫn còn cao dù các quy định của BLHS 2015 về tăng
cường miễn trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội để giám
sát giáo dục tại cộng đồng cũng như nguyên tắc hạn chế áp dụng hình phạt tù
có thời hạn đã có hiệu lực pháp luật. Trong khi đó, có 4 loại hình phạt áp dụng
đối với người dưới 18 tuổi là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo khơng giam giữ và
phạt tù, trong khi đó việc áp dụng các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù là cảnh
cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ lại ít áp dụng, mà lại áp dụng án treo
nhiều, khơng thấy áp dụng các biện pháp tư pháp hình sự.
2.2. Các kiến nghị hoàn thiện các quy định của Bộ luật Hình sự 2015 về
miễn trách nhiệm hình sự với người dưới 18 tuổi phạm tội
1. Thêm một điều luật tại Chương XII BLHS, quy định trường hợp tổng
hợp hình phạt trong trường hợp người dưới 18 tuổi có nhiều bản án.
Vì Chương XII BLHS quy định đối với những người dưới 18 tuổi phạm

tội khơng có điều luật quy định về trường hợp tổng hợp hình phạt khi có
nhiều bản án. Do đó, về ngun tắc, Tịa án phải áp dụng quy định chung, tức
là áp dụng đối với người từ đủ 18 tuổi với hình phạt chung có thể lên đến 30
năm đối với tù có thời hạn và 3 năm đối với cải tạo không giam giữ. Vì vậy,
kiến nghị xây dựng một điều luật tại Chương XII quy định trường hợp tổng
hợp hình phạt trong trường hợp người dưới 18 tuổi có nhiều bản án là để cụ

6


thể hóa mức hình phạt tối đa khi tổng hợp hình phạt trong trường hợp này phù
hợp với quy định tại Điều 100 BLHS.
2. Sửa đổi Điều 101 như sau:
“Mức phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội được quy định như sau:
1. Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều
luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì
mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 18 năm tù; nếu là tù
có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba
phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định của khung hình phạt được
áp dụng;
2. Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều
luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì
mức hình phạt cao nhất được áp dụng khơng q 12 năm tù; nếu là tù
có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng khơng quá một
phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định của khung hình phạt được
áp dụng.”
Khơng có mức phạt được áp dụng quy định tại điều luật này, chỉ có
mức hình phạt cao nhất là 18 năm ở Khoản 1 và 12 năm ở Khoản 2, sửa thành
“khung hình phạt được áp dụng” sẽ rõ ý hơn.

3. Cần quy định rõ tiêu chí chung về tính chất mức độ lỗi, hậu quả của tội
phạm, nhân thân của người phạm tội và các yếu tố khác có liên quan để làm
cơ sở cho việc miễn TNHS quy định tại khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015.
Vì khi xác định được các căn cứ để miễn TNHS đối với người dưới 18
tuổi phạm tội, cơ quan có thẩm quyền có thể ra Quyết định áp dụng các biện
pháp giám sát, giáo dục để thay thế cho hình phạt một cách đầy đủ, tuân thủ
đúng các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục, tính chất, mức độ hành vi
của người phạm tội.

7


KẾT LUẬN
Chế định miễn trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội là một trong những chế định cơ bản, có ảnh hưởng lớn đến các chế định có
liên quan và cũng là vấn đề được quan tâm, nghiên cứu hiện nay.
Trên cơ sở nghiên cứu, tiểu luận đã trình bày và đưa ra những nhận xét,
đánh giá khách quan, đồng thời đề xuất các kiến nghị hồn thiện Bộ luật Hình
sự 2015 về các trường hợp miễn trách nhiệm hình sự với người dưới 18 tuổi
phạm tội. Nhìn chung mặc dù BLHS 2015 đã xây dựng những quy định riêng
liên quan đến người dưới 18 tuổi phạm tội, nhưng thực tiễn áp dụng vẫn còn
nhiều bất cập cần khắc phục và cần tiếp tục được hoàn thiện, phát triển để
đảm bảo quyền lợi, tính cơng bằng, nhân đạo đối với người dưới 18 tuổi.
Miễn trách nhiệm hình sự với người dưới 18 tuổi thể hiện chính sách
khoan hồng, nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta đối với người dưới 18 tuổi
thực hiện hành vi phạm tội, đồng thời động viên, khuyến khích, tạo điều kiện
cho người phạm tội tự giáo dục, cải tạo để hòa nhập với cộng đồng và giúp họ
trở thành người có ích cho xã hội.

8



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
/> />%20report.pdf
/>
9



×