Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Miễn trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (760.53 KB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ PHƢƠNG DUNG

MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI
NGƢỜI DƢỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI THEO PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ PHƢƠNG DUNG

MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI
NGƢỜI DƢỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI THEO PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành

: Luật hình sự và Tố tụng hình sự

Mã số



: 62.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. CAO THỊ OANH

HÀ NỘI – 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Miễn trách nhiệm hình sự đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành
phố Hồ Chí Minh” là công trình nghiên cứu do chính tôi thực hiện dưới sự
hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Cao Thị Oanh. Các nội dung, thông tin
được trình bày trong luận văn là trung thực.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan trên của mình.
Hà Nội, ngày

tháng 11 năm 2017

Tác giả luận văn

Trần Thị Phƣơng Dung


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ LẬP PHÁP VIỆT

NAM VỀ MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƢỜI DƢỚI 18
TUỔI PHẠM TỘI ........................................................................................... 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm, căn cứ và ý nghĩa của miễn trách nhiệm hình sự
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ........................................................... 8
1.2. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam từ khi ban hành Bộ luật
hình sự năm 1985 đến Bộ luật hình sự năm 2015 về miễn trách nhiệm
hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ............................................ 17
1.3. Khái quát quy phạm pháp luật về miễn trách nhiệm hình sự đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp luật hình sự một số nước trên thế
giới ............................................................................................................ 22
Chƣơng 2. QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH
VỀ MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƢỜI DƢỚI 18
TUỔI PHẠM TỘI VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH .................................................................................................... 28
2.1. Quy định của luật hình sự về miễn trách nhiệm hình sự đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội ................................................................................ 28
2.2. Thực tiễn miễn trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội tại Thành phố Hồ Chí Minh ................................................................. 48
Chƣơng 3. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
ĐỐI VỚI NGƢỜI DƢỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI ........................................ 62
3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về miễn
trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ........................ 62


3.2. Nâng cao ý thức pháp luật, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của người
có thẩm quyền quyết định việc áp dụng miễn trách nhiệm hình sự ......... 68
3.3. Tăng cường vai trò của Viện kiểm sát trong việc kiểm tra, giám sát
việc đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án do miễn trách nhiệm hình sự ......... 70
3.4. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện tòa án chuyên xét xử các vụ án có

người dưới 18 tuổi phạm tội ..................................................................... 72
KẾT LUẬN .................................................................................................... 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 76


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

PLHS

: Pháp luật hình sự

TNHS

: Trách nhiệm hình sự


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1: Tổng hợp các trường hợp miễn trách nhiệm hình sự theo quy định
của Bộ luật hình sự năm 2015 ......................................................................... 46
Bảng 2.2: Thống kê số lượng bị can là người dưới 18 tuổi trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh từ năm 2012 đến năm 2016 ............................................... 49

Bảng 2.3: Cơ cấu các loại tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện đã bị khởi
tố tại Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2012 đến năm 2016 ........................... 50
Bảng 2.4: Số vụ và số bị can được đình chỉ điều tra do Cơ quan Điều tra và
Viện kiểm sát áp dụng ..................................................................................... 52
Bảng 2.5: Tỷ lệ tổng số bị can được đình chỉ điều tra do miễn trách nhiệm
hình sự trên tổng số bị can bị đình chỉ điều tra ............................................... 53
Bảng 2.6: Số bị cáo dưới 18 tuổi được Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh miễn trách nhiệm hình sự và miễn hình phạt từ năm 2012 đến năm 2016
......................................................................................................................... 54


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, tình trạng người dưới 18 tuổi vi phạm pháp
luật xảy ra rất phổ biến, điều đáng lưu ý là hành vi vi phạm pháp luật hình sự
của người dưới 18 tuổi ngày càng gia tăng và có tính chất nghiêm trọng. Việc
xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội là một việc khá phức tạp bởi người dưới 18
tuổi chưa phát triển đầy đủ về nhận thức, hành vi của họ thường mang tính
chất bột phát do bị lôi kéo hoặc kích động, họ chưa đủ khả năng làm chủ hành
vi hay suy nghĩ của mình hơn nữa họ còn có một tương lai dài phía trước. Do
đó không thể áp dụng các biện pháp xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội giống
với người đã thành niên.
Đảng và Nhà nước ta đã đề ra và thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ,
thông qua hoạt động của nhiều cấp ngành nhằm giáo dục, ngăn chặn và hạn
chế tình trạng người dưới 18 tuổi phạm tội và luôn có sự quan tâm đặc biệt
đến việc hoạch định chính sách hình sự. Hệ thống pháp luật hình sự nước ta
có những quy định xử lý riêng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, bao gồm
cả chế định miễn trách nhiệm hình sự cho họ nhằm thực hiện chính sách nhân
đạo của Đảng và Nhà nước trong đường lối xử lý đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội, những quy định này đã đem lại lợi ích cho những người dưới 18

tuổi phạm tội nhưng trong những năm gần đây số lượng người chưa dưới 18
tuổi phạm tội vẫn không có dấu hiệu giảm đi. Hiện nay, việc nghiên cứu chế
định miễn trách nhiệm hình sự là một vấn đề quan trọng và cấp thiết, không
những góp phần đấu tranh phòng và chống tội phạm, mà còn thể hiện chính
sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta đối với những người dưới 18 tuổi
phạm tội và hành vi do họ thực hiện, qua đó nhằm khuyến khích, động viên
người phạm tội lập công chuộc tội, chứng tỏ khả năng phát triển lành mạnh và
1


trở thành người có ích cho xã hội. Bộ luật Hình sự năm 1999 (BLHS) đã kế
thừa và phát triển BLHS năm 1985, là bước phát triển mới trong việc giải
quyết vấn đề miễn trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và
mới đây nhất là sự ra đời của Bộ luật hình sự năm 2015 và Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2015 (sau đây gọi chung là Bộ luật
hình sự năm 2015) với nhiều quy định mới tiến bộ hơn. Nhiều quy phạm của
chế định miễn trách nhiệm hình sự (TNHS) đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội đã được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn, tạo điều kiện cho các
cơ quan áp dụng pháp luật đấu tranh và phòng, chống tội phạm có hiệu quả.
Tuy nhiên, do BLHS năm 2015 vẫn đang chờ hiệu lực thi hành (ngày
01/01/2018), trong khi thực tiễn áp dụng các quy định về miễn TNHS cho
người dưới 18 tuổi phạm tội của BLHS 1999 đã nảy sinh nhiều vướng mắc và
bất cập, công tác giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự (PLHS)
trong thời gian qua chưa được quan tâm đúng mức nên một số quy phạm pháp
luật của chế định miễn TNHS còn có nhận thức không đúng, gây khó khăn
cho việc áp dụng pháp luật trong hoạt động thực tiễn. Thời gian qua đã có
nhiều công trình nghiên cứu về những vấn đề liên quan đến chế định miễn
trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Nhưng cho đến nay,
một số nội dung của chế định này còn có những quan điểm khác nhau và chưa
thống nhất. Hơn nữa, trong xu thế hội nhập cùng với sự phát triển trên các

lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, nhiều vấn đề của luật hình sự,
trong đó có chế định miễn trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội cũng luôn vận động và phát triển đòi hỏi phải được tiếp tục nghiên
cứu, giải quyết. Trước tình hình đó, việc nghiên cứu một cách có hệ thống,
toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến chế định miễn trách
nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, trên cơ sở đó đưa ra
những giải pháp để góp phần hoàn thiện BLHS năm 2015 và giải quyết những
2


vướng mắc của thực tiễn áp dụng PLHS là việc làm cần thiết, không những có
ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa cả về thực tiễn trong giai
đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay ở Việt Nam. Với những lý do
trên học viên đã lựa chọn đề tài: “Miễn trách nhiệm hình sự đối với ngƣời
dƣới 18 tuổi phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn
Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ luật
học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Miễn trách nhiệm hình sự là một chế định có liên quan chặt chẽ và mật
thiết với chế định TNHS và nhiều chế định khác trong luật hình sự. Ở Việt
Nam, cho đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề này, đáng
chú ý là các công trình sau đây:
- Lê Cảm (2001), Về các dạng miễn trách nhiệm hình sự được quy
định tại Điều 25 Bộ luật Hình sự năm 1999, Tạp chí Tòa án nhân dân, (số 1)
- Lê Cảm (2001), Về sáu dạng miễn trách nhiệm hình sự khác (ngoài
Điều 25) trong BLHS năm 1999, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, (số 2)
- Lê Cảm (2002), Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong luật hình
sự Việt Nam, trong sách: “Nhà nước và pháp luật Việt Nam trước thềm thế kỷ
XXI”, do TS. Lê Cảm chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội
- Nguyễn Ngọc Chí (1997), Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong

Luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Khoa học (KHXH), (số 4)
- Thái Quế Dung (1999), Những trường hợp được miễn trách nhiệm
hình sự theo Điều 48 Bộ luật Hình sự, Tạp chí Kiểm sát, Chuyên đề về
BLHS, (số 4)
- Phạm Hồng Hải (2001), Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ
luật Hình sự năm 1999, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (số 12)

3


- Phạm Mạnh Hùng (1993), Một số ý kiến về miễn trách nhiệm hình sự,
Tạp chí Tòa án nhân dân, (số 2)
- Phạm Mạnh Hùng (2003), Chế định trách nhiệm hình sự trong luật
hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội
- Võ Khánh Vinh (2001), Chương XVIII - Miễn trách nhiệm hình sự,
trong sách: “Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung)”, do PGS.TS
Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb Giáo dục
- Trịnh Tiến Việt (2008), Những vấn đề lý luận và thực tiễn về miễn
trách nhiệm hình sự theo Luật hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học
Các công trình nghiên cứu khoa học trên đã đặt ra và giải quyết nhiều
vấn đề bức xúc mà lý luận và thực tiễn áp dụng PLHS đòi hỏi. Tuy nhiên, cho
đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện
các khía cạnh, chuyên sâu ở mức độ luận văn thạc sĩ luật học về miễn trách
nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội kể từ khi Bộ luật hình sự
năm 2015 ra đời.
Qua khảo sát của học viên thấy rằng vấn đề miễn trách nhiệm hình sự
cho người dưới 18 tuổi phạm tội trên phạm vi cả nước nói chung và từ thực
tiễn Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng vẫn chưa đạt hiệu quả cao. Vì vậy,
việc nghiên cứu đề tài là cần thiết và phù hợp với yêu cầu thực tiễn của công
cuộc cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước đã đề ra trong giai đoạn hiện

nay, định hướng đến năm 2020.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu miễn trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18
tuổi phạm tội theo luật hình sự Việt Nam. Cụ thể nghiên cứu các vấn đề như:
khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của miễn trách nhiệm hình sự đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội. Luận văn cũng đi vào đánh giá, nhận xét số liệu từ
thực tiễn việc áp dụng pháp luật hình sự về miễn trách nhiệm hình sự đối với
4


người dưới 18 tuổi phạm tội. Từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật
hình sự và nâng cao hiệu quả việc áp dụng các quy định pháp luật hình sự về
miễn trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn chỉ xem xét và giải quyết một số vấn
đề xung quanh chế định miễn trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội như: khái niệm, bản chất pháp lý và các đặc điểm cơ bản của miễn
trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi; nội dung và điều kiện áp
dụng những trường hợp miễn trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội trong BLHS năm 1999 hiện hành, những quy định mới trong BLHS
năm 2015 kết hợp với thực tiễn áp dụng và có tham khảo pháp luật hình sự
của một số nước trên thế giới.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là phân tích để làm rõ về mặt khoa
học các quy phạm của chế định miễn trách nhiệm hình sự đối với người dưới
18 tuổi phạm tội ở khía cạnh lập pháp và vấn đề áp dụng chúng trong thực
tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2016,
từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện các quy phạm của chế định này trong
PLHS Việt Nam.
Với mục đích nghiên cứu nêu trên, trong luận văn này học viên tập
trung vào giải quyết những nhiệm vụ chính như sau:

- Làm rõ khái niệm khoa học của miễn trách nhiệm hình sự đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội, phân tích các đặc điểm cơ bản và ý nghĩa của nó.
- Khái quát sự hình thành và phát triển của các quy phạm về miễn trách
nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi trong pháp luật hình sự Việt Nam.
- Phân tích nội dung, điều kiện áp dụng những trường hợp miễn trách
nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo các quy định của Bộ
luật hình sự năm 1999 và thực tiễn áp dụng các quy định này tại Thành phố
5


Hồ Chí Minh, nêu những điểm mới của Bộ luật hình sự năm 2015 về miễn
trách nhiệm hình sự cho người dưới 18 tuổi phạm tội.
- Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam về miễn trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, từ đó
đề xuất các giải pháp hoàn thiện chế định này trong Bộ luật hình sự năm
2015.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phƣơng pháp luận
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối chính sách của
Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và pháp luật, các thành tựu của các chuyên
ngành khoa học pháp lý như, sách chuyên khảo và các bài đăng trên tạp chí
của các nhà khoa học-luật gia Việt Nam và nước ngoài, cũng như các văn bản
pháp luật của Nhà nước và những giải thích thống nhất có tính chất chỉ đạo
của thực tiễn xét xử thuộc lĩnh vực pháp luật hình sự do Tòa án nhân dân tối
cao hoặc (và) các cơ quan bảo vệ pháp luật ở Trung ương ban hành có liên
quan đến chế định miễn trách nhiệm hình sự và chính sách đối với người chưa
thành niên phạm tội.
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận văn, học viên đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như:

phương pháp lịch sử, so sánh, tổng hợp, thống kê. Đồng thời, việc nghiên cứu
đề tài còn dựa vào số liệu thống kê trong các báo cáo của Tòa án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ
Chí Minh và các vụ án hình sự trong thực tiễn xét xử, cũng như thông tin trên
mạng Internet để phân tích, tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và
luận chứng các vấn đề nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận

6


Thông qua luận văn học viên làm rõ khái niệm, bản chất pháp lý và các
đặc điểm cơ bản của miễn trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội, nội dung và điều kiện áp dụng của những trường hợp miễn trách
nhiệm hình sự cho người dưới 18 tuổi phạm tội trên cơ sở xem xét các quy
định của pháp luật hình sự hiện hành, đồng thời đưa ra các kiến nghị hoàn
thiện các quy phạm của chế định này ở khía cạnh lập pháp và việc áp dụng
chúng trong thực tiễn.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Trên cơ sở phân tích, đánh giá những số liệu thống kê trên thực tế,
những thiếu sót, khuyết điểm và những vướng mắc của việc áp dụng PLHS
liên quan đến chế định miễn TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tác
giả đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm góp phần tạo sự nhận thức và áp
dụng pháp luật được thống nhất.
Ngoài ra, ở một chừng mực nhất định có thể khẳng định rằng, đây là
nghiên cứu chuyên khảo đồng bộ đầu tiên ở cấp độ một luận văn thạc sĩ đề
cập đến chế định miễn trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên
phạm tội trong khoa học luật hình sự Việt Nam kể từ khi Bộ luật hình sự năm
2015 ra đời, do đó nó còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cần thiết cho các

cán bộ nghiên cứu khoa học, cán bộ giảng dạy, nghiên cứu sinh, học viên cao
học và sinh viên thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục,
luận văn bao gồm ba chương với kết cấu như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và lịch sử lập pháp Việt Nam về miễn
trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Chương 2: Quy định của luật hình sự Việt Nam hiện hành về miễn
trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và thực tiễn áp dụng
tại Thành phố Hồ Chí Minh
Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự
Việt Nam về miễn trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

7


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
ĐỐI VỚI NGƢỜI DƢỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
1.1. Khái niệm, đặc điểm, căn cứ và ý nghĩa của miễn trách nhiệm
hình sự đối với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội
1.1.1. Khái niệm miễn trách nhiệm hình sự dối với người dưới 18
tuổi phạm tội
Theo pháp luật Việt Nam, từ những kinh nghiệm được thừa nhận trong
quá khứ, dựa trên những thành tựu do các ngành khoa học khác mang lại cũng
như tiếp thu các văn bản pháp luật quốc tế mà các nhà làm luật đã đưa ra khái
niệm về người chưa thành niên, tùy theo từng lĩnh vực điều chỉnh của từng
ngành luật như sau: Tại Điều 1, Luật trẻ em năm 2016 quy định: “Trẻ em là
người dưới 16 tuổi”. Điều 20 và Điều 21 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định
“Người thành niên là người từ đủ 18 tuổi trở lên; “Người chưa thành niên là

người chưa đủ mười tám tuổi”. Điều 161 Luật Lao động năm 2013 quy định:
“người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi”. Như vậy
có thể thống nhất một quan điểm là người chưa thành niên là người dưới 18
tuổi. Quan niệm này hoàn toàn phù hợp với Công ước Quốc tế về quyền trẻ
em ngày 20/02/1990 mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành
viên. Việc quy định một người ở vào độ tuổi như vậy mới được coi là “người
chưa thành niên phạm tội” dựa trên cơ sở kết quả của nhiều công trình nghiên
cứu khoa học, vào sự khảo sát về tâm lý-xã hội và lứa tuổi, đồng thời tổng kết
kinh nghiệm của thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm, cũng như căn cứ
vào chính sách hình sự của Nhà nước ta đối với người chưa thành niên phạm
tội. Mặt khác, xuất phát ở chỗ người chưa thành niên có những đặc điểm riêng
về tâm-sinh lý, sự hiểu biết, khả năng nhận thức về cuộc sống xã hội và pháp
8


luật còn hạn chế, chưa đầy đủ... nên việc xử lý đối tượng này chủ yếu nhằm
giáo dục họ có ý thức tôn trọng pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội,
giúp đỡ họ có điều kiện sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành
một công dân tốt có ích cho gia đình và xã hội.
Theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 thì người chưa thành niên
là những người chưa đủ 18 tuổi, nhưng chỉ những người chưa thành niên từ
đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi mới phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi
phạm tội, còn người chưa thành niên dưới 14 tuổi thì không phải chịu trách
nhiệm hình sự. Trong đó, người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi
chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, còn người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu
trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm (Điều 12 BLHS năm 1999).
Người dưới 18 tuổi là một dạng chủ thể thực hiện hành vi phạm tội đặc
biệt. Các quốc gia trên thế giới và ngay trong hệ thống pháp luật Việt Nam
trước đây cũng chưa thống nhất về khái niệm người chưa thành niên, vị thành

niên và độ tuổi của từng khái niệm đó. Do vậy, việc xác định hai khái niệm
người chưa thành niên và vị thành niên chính là hai cách gọi khác nhau nhưng
cùng thống nhất xác định là người có độ tuổi từ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi được
gọi chung là “người dưới 18 tuổi” có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc
áp dụng pháp luật, lựa chọn biện pháp xử lý phù hợp với lứa tuổi cụ thể của
người dưới 18 tuổi phạm tội.
Trên cơ sở nghiên cứu, chúng tôi có thể đưa ra định nghĩa khoa học
vềngười dưới 18 tuổi phạm tội như sau: Người dưới 18 tuổi phạm tội là người
từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi đã có lỗi cố ý hoặc vô ý trong việc thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm.
So với BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 đã thay thế cụm từ “người
chưa thành niên phạm tội” bằng cụm từ “người dưới 18 tuổi phạm tội” để phù
hợp với các chuẩn mực quốc tế trong đó có chuẩn mực về tư pháp cho người
9


dưới 18 tuổi và bảo vệ người dưới 18 tuổi. Bộ luật tiếp tục thể hiện và mở
rộng chủ trương, chính sách nhân đạo hoá hình sự đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội. Những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định
tại chương XII của BLHS năm 2015. BLHS năm 2015 đã không còn sử dụng
khái niệm người chưa thành niên phạm tội mà Bộ luật lần này nói rõ việc áp
dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội quy định tại Điều 90 Bộ luật hình
sự “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình
sự theo quy định của chương này; theo quy định khác của Phần thứ nhất của
Bộ luật này không trái với quy định của chương này”. Như vậy không đặt ra
trách nhiệm hình sự đối với người dưới 14 tuổi.
Miễn trách nhiệm hình sự là một trong những chế định quan trọng của
luật hình sự Việt Nam, có quan hệ chặt chẽ và gắn liền với chế định trách
nhiệm hình sự. Khái niệm, cơ sở và nội dung của miễn trách nhiệm hình sự
cũng xuất phát từ khái niệm, cơ sở và nội dung của trách nhiệm hình sự. Cho

nên, để tìm hiểu khái niệm và bản chất pháp lý của miễn trách nhiệm hình sự,
thì không thể không xem xét khái niệm trách nhiệm hình sự và những nội
dung xung quanh vấn đề này. Bởi lẽ, việc nhận thức khoa học đúng đắn về
trách nhiệm hình sự sẽ tạo cơ sở vững chắc cho nhận thức về miễn trách
nhiệm hình sự. Do vậy, trước khi đi vào nghiên cứu khái niệm và bản chất
pháp lý của chế định miễn trách nhiệm hình sự cần phải hiểu khái niệm và
một số nội dung cơ bản xung quanh chế định trách nhiệm hình sự trong luật
hình sự Việt Nam.
Trách nhiệm hình sự là một thuật ngữ pháp lý và được sử dụng đối với
người có hành vi vi phạm pháp luật hình sự. Trên cơ sở phân tích khoa học
các quan điểm khác nhau về trách nhiệm hình sự, chúng tôi rút ra khái niệm
chung nhất về trách nhiệm hình sự như sau “Trách nhiệm hình sự là là một
dạng trách nhiệm pháp lý, là hậu quả pháp lý bất lợi mà người phạm tội phải
gánh chịu trước Nhà nước do việc người đó thực hiện tội phạm và là kết quả
10


của việc áp dụng các quy phạm của pháp luật hình sự, được thể hiện ở bản án
kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật và một số biện pháp cưỡng chế hình
sự khác do pháp luật hình sự quy định”. Theo đó, trách nhiệm hình sự là hậu
quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm, trách nhiệm hình sự chỉ phát sinh khi
có sự việc phạm tội và chính vì thế, nó là dạng trách nhiệm pháp lý nghiêm
khắc nhất so với bất kỳ dạng trách nhiệm pháp lý nào khác. Trách nhiệm hình
sự chỉ được thực hiện trong phạm vi của quan hệ pháp luật hình sự giữa hai
bên với tính chất là hai chủ thể có các quyền và nghĩa vụ nhất định - một bên
là Nhà nước, còn bên kia là người phạm tội.
Nghiên cứu TNHS, không thể không đề cập đến vấn đề cơ sở và những
điều kiện của nó. Bởi lẽ, việc làm rõ các nội dung này là yêu cầu quan trọng
trong việc đảm bảo nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự, bảo đảm quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân, cũng như loại trừ việc áp dụng TNHS theo

nguyên tắc tương tự đã từng được áp dụng trong thực tiễn tư pháp hình sự ở
nước ta trước đây. Hơn nữa, nó còn tạo cơ sở vững chắc cho nhận thức về nội
dung và cơ sở của miễn trách nhiệm hình sự. Do đó, dưới góc độ khoa học
luật hình sự, TSKH. Lê Cảm đã đưa ra định nghĩa của hai khái niệm này: “Cơ
sở của trách nhiệm hình sự là việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà
luật hình sự quy định là tội phạm” và, “Điều kiện của trách nhiệm hình sự là
căn cứ riêng cần và đủ, có tính chất bắt buộc và do luật hình sự quy định mà
chỉ khi nào có tổng hợp tất cả chúng (các căn cứ riêng đó) thì một người mới
phải chịu TNHS” [7, tr. 130]. Như vậy, một người chỉ phải chịu TNHS khi
người đó có đầy đủ cơ sở và những điều kiện của TNHS về một tội phạm.
Song, trên thực tế có một số trường hợp mặc dù có đầy đủ cơ sở và những
điều kiện của TNHS nhưng khi có căn cứ và những điều kiện nhất định, thì
một người đã phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự, có thể không
phải chịu trách nhiệm hình sự hoặc cũng có thể được miễn TNHS. Cho nên,

11


có thể khẳng định rằng, khái niệm và cơ sở của miễn TNHS cũng xuất phát từ
khái niệm và cơ sở của trách nhiệm hình sự.
Qua phân tích khái niệm người dưới 18 tuổi phạm tội và khái niệm
trách nhiệm hình sự ta có thể rút ra khái niệm TNHS của người dưới 18 tuổi
như sau: TNHS của người dưới 18 tuổi là trách nhiệm mà người dưới 18 tuổi
phạm tội phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi về hành vi phạm tội của
mình.
Là một trong những chế định quan trọng của luật hình sự Việt Nam,
miễn trách nhiệm hình sự thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của Đảng
và Nhà nước ta đối với người phạm tội và hành vi do họ thực hiện, đồng thời
qua đó nhằm động viên, khuyến khích người phạm tội lập công chuộc tội,
chứng tỏ khả năng giáo dục, cải tạo nhanh chóng hòa nhập với cộng đồng và

giúp họ trở thành người có ích cho xã hội. Hiện nay, cũng giống như khái
niệm TNHS, trong khoa học luật hình sự xung quanh khái niệm miễn TNHS
vẫn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau. Tuy nhiên dưới góc độ khoa học luật
hình sự có thể định nghĩa: “Miễn TNHS là một chế định nhân đạo của PLHS
Việt Nam và được thể hiện bằng văn bản với nội dung hủy bỏ hậu quả pháp lý
của việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm đối với
người đối với người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện hành vi đó, do các cơ
quan tư pháp hình sự có thẩm quyền tùy thuộc vào giai đoạn tố tụng hình sự
tương ứng áp dụng khi có đầy đủ căn cứ pháp lý và những điều kiện luật
định.” [8, tr. 3]
Từ khái niệm miễn TNHS nói chung trong luật hình sự, chúng ta có thể
hiểu khái niệm miễn TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong luật
hình sự như sau: Miễn TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là một chế
định nhân đạo của luật hình sự Việt Nam và được thể hiện bằng văn bản với
nội dung hủy bỏ hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi phạm tội đối với

12


người dưới 18 tuổi phạm tội bị coi là có lỗi trong việc thực hiện hành vi đó,
do các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền tùy thuộc vào giai đoạn tố tụng
hình sự tương ứng áp dụng khi có đầy đủ căn cứ pháp lý và những điều kiện
luật định.
1.1.2. Đặc điểm của miễn trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18
tuổi phạm tội
Xuất phát từ khái niệm nêu trên và trên cơ sở nghiên cứu các quy định
của pháp luật hình sự hiện hành có liên quan đến miễn trách nhiệm hình sự,
tác giả có thể chỉ ra một số đặc điểm cơ bản của nó như sau:
Thứ nhất, đây là trường hợp miễn TNHS đặc biệt dành riêng cho người
dưới 18 tuổi phạm tội, là một trong những chế định phản ánh rõ nét nhất

nguyên tắc nhân đạo của chính sách hình sự nói chung và PLHS Việt Nam
nói riêng, cũng như sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước ta đối với người dưới
18 tuổi phạm tội.
Thứ hai, miễn TNHS chỉ có thể đặt ra đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội khi mà hành vi của họ thỏa mãn những dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ
thể nhưng đối với họ lại có đầy đủ căn cứ pháp lý và những điều kiện nhất
định. Đây là trường hợp miễn TNHS mang tính chất tùy nghi. Điều đó có
nghĩa, trường hợp xét thấy không cần phải áp dụng trách nhiệm hình sự đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội mà vẫn đảm bảo yêu cầu đấu tranh phòng và
chống tội phạm, có căn cứ chứng tỏ khả năng giáo dục, cải tạo nhanh chóng
hòa nhập với cộng đồng của người phạm tội, đồng thời đáp ứng những điều
kiện nhất định thì các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định cho họ
được miễn TNHS.
Thứ ba, theo giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng cụ thể, miễn TNHS
được thực hiện bởi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và quyết định được thể
hiện bằng văn bản. Cụ thể, theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm
13


2003 (BLTTHS), các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bao gồm: Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án (các Điều 164, 169, 181 và 249 BLTTHS
năm 2003).
Thứ tư, miễn TNHS do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định
phải được thể hiện bằng văn bản. Cụ thể, theo quy định của Điều 164
BLTTHS năm 2003, cơ quan Điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra khi có
căn cứ miễn trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 19, Điều 25 và khoản 2
Điều 69 BLHS; Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án khi có một trong
các căn cứ miễn trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 19, Điều 25 và khoản
2 Điều 69 Bộ luật hình sự (Điều 169) hoặc rút quyết định truy tố và đề nghị
Tòa án đình chỉ vụ án (Điều 181), Tòa án cấp phúc thẩm có quyền sửa bản án

sơ thẩm trong trường hợp miễn TNHS hoặc miễn hình phạt cho bị cáo (điểm a
khoản 1 Điều 249).
Thứ năm, người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn TNHS đương nhiên
không phải chịu các hậu quả pháp lý bất lợi của việc phạm tội do mình thực
hiện như không bị truy cứu TNHS, không phải chịu hình phạt, không bị coi là
có án tích. Như vậy người dưới 18 tuổi phạm tội vẫn có thể phải chịu một
hoặc nhiều biện pháp tác động về mặt pháp lý thuộc các ngành luật tương ứng
khác như: buộc phải phục hồi lại tình trạng ban đầu, buộc bồi thường thiệt
hại.
Thứ sáu, pháp luật hình sự Việt Nam quy định chế định miễn TNHS
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội có ý nghĩa quan trọng trong áp dụng pháp
luật cũng như giáo dục cải tạo người dưới 18 tuổi phạm tội, không những
động viên, khuyến khích người phạm tội lập công chuộc tội, chứng tỏ khả
năng giáo dục, cải tạo nhanh chóng hòa nhập cộng đồng mà còn tạo cơ sở
pháp lý cho sự kết hợp các biện pháp cưỡng chế hình sự của nhà nước với các

14


biện pháp tác động xã hội trong việc giáo dục, cải tạo người phạm tội, giúp họ
trở thành người có ích trong xã hội.
1.1.3. Ý nghĩa của việc quy định miễn trách nhiệm hình sự
Thứ nhất, dưới góc độ chính trị-xã hội, việc quy định những trường hợp
miễn trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự giúp cho các cơ quan tư
pháp hình sự có thẩm quyền xác định được chính xác và đúng đắn trường hợp
nào người phạm tội và hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa,
hoặc không cần thiết phải áp dụng TNHS mà vẫn đảm bảo yêu cầu đấu tranh
phòng và chống tội phạm, hạn chế tới mức thấp nhất sự lạm dụng và tùy tiện
khi áp dụng, qua đó tôn trọng và bảo đảm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ
nghĩa, nguyên tắc công bằng trong lĩnh vực tư pháp hình sự. Đặc biệt, ngoài

việc ghi nhận trong pháp luật hình sự thực định thì việc áp dụng miễn TNHS
trong thực tiễn cũng chính là một trong những hình thức xã hội hóa giáo dục
để quần chúng nhân dân, cơ quan tổ chức và gia đình người bị kết án tham gia
vào việc cải tạo, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội, giúp đỡ đưa họ trở lại
con đường lương thiện, lao động chân chính và có ích cho xã hội.
Thứ hai, dưới góc độ pháp lý, biện pháp miễn TNHS chỉ có thể được
đặt ra đối với người nào thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình
sự quy định hành vi đó là tội phạm. Nói một cách khác, nó chỉ áp dụng (hoặc
có thể được áp dụng) đối với người nào mà trong hành vi của họ thỏa mãn
những dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể, nhưng đối với người đó lại có
căn cứ pháp lý và những điều kiện nhất định để được miễn trách nhiệm hình
sự trong từng trường hợp tương ứng mà PLHS hiện hành quy định, cũng như
tùy thuộc vào từng trường hợp miễn TNHS đó có tính chất tùy nghi (lựa
chọn) hay có tính chất bắt buộc.
Ngoài ra, cũng dưới góc độ pháp lý này, người dưới 18 tuổi được miễn
TNHS đương nhiên không phải chịu các hậu quả pháp lý hình sự bất lợi của
15


việc phạm tội do mình thực hiện như: không bị truy cứu TNHS, không bị kết
tội, không phải chịu hình phạt hoặc biện pháp cưỡng chế về hình sự khác,
không bị coi là có án tích. Tuy nhiên, họ vẫn có thể phải chịu một hay nhiều
biện pháp tác động về mặt pháp lý thuộc các ngành luật tương ứng khác như
các biện pháp giám sát, giáo dục hoặc biện pháp tư pháp tùy theo từng trường
hợp tương ứng cụ thể. Vì vậy, việc cân nhắc những trường hợp miễn TNHS
để áp dụng đối với người dưới 18 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
chính là sự đảm bảo của nguyên tắc công bằng giữa các công dân nói chung,
giữa những người phạm tội nói riêng trong PLHS Việt Nam.
Thứ ba, dưới góc độ nhân đạo và bảo vệ quyền con người trong lĩnh
vực tư pháp hình sự. Miễn trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi

phạm tội là một trong những chế định phản ánh rõ nét nhân đạo của PLHS
Việt Nam và nguyên tắc bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người chưa thành niên.
Miễn TNHS là một biện pháp hữu hiệu của Nhà nước để thực hiện chính sách
phân hóa và thể hiện mục đích của việc xử lý người chưa thành niên phạm tội,
đó là giáo dục, giúp đỡ người chưa thành niên sửa chữa sai lầm, phát triển
lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội, đây là nguyên tắc xuyên
suốt, cần phải tuân thủ cho dù áp dụng biện pháp xử lý nào đối với người
chưa thành niên. Còn nguyên tắc vì lợi ích tốt nhất của người chưa thành niên
là một nguyên tắc có ý nghĩa định hướng cho cán bộ tiến hành tố tụng khi
quyết định lựa chọn biện pháp xử lý cụ thể đối với người chưa thành niên,
nhằm tìm ra biện pháp phù hợp nhất đối với người chưa thành niên phạm tội.

16


1.2. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam từ khi ban hành Bộ
luật hình sự năm 1985 đến Bộ luật hình sự năm 2015 về miễn trách
nhiệm hình sự đối với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội
1.2.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến pháp
điển hóa lần thứ nhất – Bộ luật hình sự năm 1985
Cho đến BLHS năm 1985, chế định miễn TNHS đối với người dưới 18
tuổi phạm tội mới được nhà làm luật nước ta ghi nhận chính thức, còn trước
đó chưa được ghi nhận với tính chất là một chế định độc lập trong pháp luật
hình sự nhưng trong thực tiễn xét xử và một số văn bản pháp lý đã thừa nhận
và áp dụng với nhiều tên gọi khác nhau như: “xá miễn”, “tha miễn trách
nhiệm hình sự”, “miễn tố”, “tha bổng bị cáo”, “miễn nghị cho bị cáo”, “miễn
hết cả tội”... cũng được áp dụng cho người dưới 18 tuổi phạm tội. Có thể liệt
kê đến một số văn bản thời kỳ trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985
có đề cập vấn đề miễn TNHS như: Sắc lệnh số 52/SL ngày 20/10/1945 xá
miễn cho một số tội phạm trước ngày 19/08/1945; Thông tư số 314-TTg ngày

09/11/1954 của Thủ tướng Chính phủ về đại xá; Pháp lệnh trừng trị các tội
xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa ngày 21/10/1970; Pháp lệnh trừng trị các
tội xâm phạm tài sản riêng của công dân ngày 21/10/1970... Nghị quyết số
02/HĐTP ngày 05/01/1986 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự; Nghị quyết số
01/HĐTP ngày 19/04/1989 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn bổ sung việc áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự;...
Như vậy, sở dĩ trước đây trong pháp luật hình sự thực định có ghi nhận
và thực tiễn xét xử có áp dụng nó là xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo trong
chính sách hình sự của Nhà nước nói chung và luật hình sự Việt Nam nói
riêng, từ quan điểm cho rằng việc truy cứu TNHS và xử phạt về hình sự mặc
dù là rất quan trọng trong việc bảo vệ pháp chế, củng cố trật tự pháp luật song
17


không phải là biện pháp duy nhất mà đòi hỏi ngày càng mở rộng các biện
pháp tác động xã hội khác để đấu tranh phòng và chống tội phạm. Mặt khác,
miễn TNHS với các tên gọi khác nhau được áp dụng trong thời kỳ này chủ
yếu để thực hiện phương châm trong đường lối xử lý, đó là “nghiêm trị kết
hợp với khoan hồng”, “trừng trị kết hợp với giáo dục cải tạo”.
Tuy nhiên, do yêu cầu bảo vệ nền độc lập và trật tự an toàn xã hội của
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa mới ra đời nên chưa quy định cụ thể
mà các điều kiện áp dụng miễn trách nhiệm hình sự được xác định tương tự
như các điều kiện xử nhẹ hoặc miễn hình phạt được quy định trong một số
điều tại các văn bản pháp lý khác nhau. Chẳng hạn:
- Điều 1 mục 1 Sắc lệnh số 52/SL ngày 20/10/1945 – văn bản pháp luật
hình sự đầu tiên của giai đoạn này quy định về đại xá cho một số tội phạm
trước ngày 19/08/1945. Theo đó, những người phạm tội trước ngày
19/08/1945 về những loại kể sau đây đều được hoàn toàn xá miễn: “1. Tội
phạm vào luật lệ báo chí; 2. Tội phạm vào luật lệ hội họp; 3. Tội của thợ

thuyền bị phạt do luật lao động; 4. Tội phạm trong khi đình công; 5. Tội
phạm vào luật lệ về quan thuế và thương mại, rượu lậu, thuốc phiện lậu, muối
lậu và các hàng hóa lậu khác; 6. Tội phạm vào luật lệ kiểm lâm; 7. Tội vô ý
giết người hoặc đánh người có thương tích; và 8. Tội vi cảnh”. Theo đó, đại
xá là một biện pháp khoan hồng của Nhà nước, có tác dụng tha tội – thường là
hoàn toàn và triệt để – cho hàng loạt những người phạm những tội nhất định
nào đó, có ý nghĩa chính trị rất to lớn, thường chỉ được ban hành vào những
dịp có những sự kiện đặc biệt quan trọng trong đời sống chính trị của đất
nước. Như vậy, miễn TNHS được áp dụng trong trường hợp xá miễn. Và
cũng theo Điều 4 Sắc lệnh số 52/SL này thì “Những tội được xá miễn đều coi
như không phạm bao giờ; quyền công tố sẽ tiêu hủy, những chính hình và phụ
hình mà Tòa án đã tuyên đều bỏ hết. Những tiền phạt hoặc án phí mà công

18


×