Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Sơn sửa chữa ô tô công nghệ sửa chữa ô tô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.8 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHENIKAA
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
KHOA CÔNG NGHỆ SINH HỌC, HĨA HỌC
VÀ KỸ THUẬT MƠI TRƯỜNG
-------------

TIỂU LUẬN KỸ THUẬT SƠN
SƠN SỬA CHỮA Ô TÔ

Giảng viên:
Học viên:

TS. Đào Văn Dương
Phạm Anh Đức

Lớp:
Khóa:

Trần Đình Đức
Kỹ thuật sơn
2021-2023

Hà Nội, 2021


I. Giới thiệu chung
1.1 Khái niệm
Thuật ngữ 'sơn sửa chữa ô tô' đề cập đến các sản phẩm sơn được sử dụng cho
ơ tơ sau q trình sản xuất ban đầu. Trong nhà máy, khung xe được hoàn thiện như
một mảnh kim loại, chỉ cho phép sử dụng các sản phẩm đã được xử lý ở nhiệt độ
thường lên đến 150-160 °C.


Một khi chiếc xe đã được hoàn thiện với các chi tiết bằng nhựa, lốp cao su và
vải, và có xăng trong thùng, thì khơng cịn khả thi để sửa chữa dứt điểm ở những
nhiệt độ này.
Do đó, các loại sản phẩm sơn được sử dụng để sơn sửa lại ơ tơ phải cố gắng
đạt được lớp sơn hồn thiện có hiệu suất tương đương với lớp sơn ban đầu.
1.2. Nhu cầu hiện nay
Quy mô của thị trường sơn sửa ơ tơ là rất lớn, về khối lượng, có thể so sánh
với thị trường dành cho các sản phẩm ô tô nguyên bản. Khoảng 250 triệu lít sơn
phủ màu được bán trên toàn thế giới (1984), với một lượng bổ sung tương đương
của sơn lót, dung mơi và các sản phẩm phụ trợ. Các loại xe thương mại - xe tải và
xe buýt - thường được sơn bằng các loại sơn sửa chữa ô tô hơn là ô tô ngun bản
hoặc các sản phẩm cơng nghiệp nói chung. Thị trường sản phẩm sơn trên xe
thương mại chiếm khoảng 40% khối lượng sơn sửa chữa ô tô.
Các yêu cầu về hiệu suất đối với sơn xe thương mại thường ít quan trọng hơn
so với sơn xe ô tô, mặc dù trong một số trường hợp, khả năng chống ăn mòn hóa
chất hoặc mơi trường là cần thiết.
1.3. Mục đích sử dụng
Các sản phẩm sơn sửa chữa ô tô được sử dụng với 3 mục đích chính:


• Sửa chữa hoặc khôi phục lại sau những hư hỏng ngẫu nhiên trong q trình sử
dụng.
• Chỉnh sửa các hư hỏng hoặc lỗi trong quá trình sản xuất hoặc trong q trình vận
chuyển trước khi bán.
• Thay đổi để cải thiện ngoại hình hoặc thay đổi màu sắc của xe.
Ở các nước phát triển, phần lớn thị sơ sửa chữa ơ tơ được dùng để sửa chữa trong
q trình sử dụng hoặc vận chuyển xe. Mục đích tân trang phần lớn giới hạn ở thị
trường xe cũ, nơi cần có một lớp sơn mới có thể tạo ra sự khác biệt giữa việc bán
hoặc không bán xe. Rất hiếm khi 1 chiếc xe được thay đổi màu sắc. Một phần lớn
công việc sửa sang lại ô tô được trả bằng bảo hiểm tai nạn.

Ở các nước đang phát triển, ô tô có xu hướng cũ hơn, việc kinh doanh bảo
hiểm tai nạn kém phát triển hơn và các hoạt động tân trang màu sắc lại nhiều hơn
thông thường.
Ngay cả ở các nước phát triển, sự khác biệt về văn hóa trong thái độ đối với ơ
tơ khá rõ rệt. Những điều này thể hiện trong tiêu chuẩn xuất hiện trung bình của
các phương tiện, và có thể được truy tìm thơng qua các hiệu ứng trong thị trường
tân trang. Sự khác biệt về tiêu chuẩn trung bình của ngoại hình thân xe giữa Lisbon
và Zurich rất có dấu ấn, và nó được thể hiện ở mức độ tinh vi của các thiết bị và kỹ
thuật cửa hàng sửa chữa.
Mục đích của hầu hết các cơng việc tân trang lại ô tô là để trả lại một chiếc xe
về ngoại hình tiêu chuẩn tương đương với một chiếc ơ tơ mới được sản xuất trực
tiếp từ dây chuyền sản xuất.
Ở hầu hết các nước phương Tây, một chiếc ô tô bị hư hỏng thể hiện một đòn
giáng nặng nề vào cái tôi, tinh thần và lối sống của chủ sở hữu, và việc sửa chữa nó
về tình trạng 'ngun bản' tương ứng là rất quan trọng. Khi chiếc xe đã sửa chữa
được trả lại, tiêu chuẩn duy nhất để chủ xe có thể đánh giá chất lượng cơng việc
hồn thành là độ hoàn thiện bên ngoài. Mọi chủ sở hữu sẽ kiểm tra công việc sơn,


và trên hết sẽ đánh giá công việc theo tiêu chuẩn của màu sắc phù hợp. Khả năng
và độ chính xác của màu sắc là tính năng quan trọng nhất của hệ thống sơn lại xe
hơi.
Đương nhiên màu sắc được kết hợp bắt nguồn từ nhà sản xuất ô tô và cuối
cùng là từ nhà cung cấp sơn ô tô. Tuy nhiên, màu xe được chọn cho sự hấp dẫn của
khách hàng, khơng phải vì khả năng sửa chữa của họ và các nhà cung cấp sơn sửa
chữa ô tô, mặc dù thường giống như các nhà cung cấp sơn ô tô, trong lịch sử đã
phải phản ứng với những thay đổi do họ khởi xướng.
1.4. Một số điều kiện gia cơng
1.4.1. Làm khơ bằng khơng khí và nhiệt độ thấp


Các sản phẩm sơn tân trang ô tô được sử dụng trong nhiều điều kiện khác
nhau.
Ở nhiều nước đang phát triển, người ta thường thấy những chiếc ô tô được
phun lại ở khơng khí ngồi trời, ngay cả ở bên đường. Bên cạnh đó, nhiều cửa hàng
sửa chữa lớn là những cơ sở lắp đặt công nghiệp rất phức tạp. Sự đa dạng của các
điều kiện, cùng với trình độ kỹ năng vận hành và sự đào tạo thường xuyên, là một
thách thức đối với nhà pha chế sơn so với thị trường ơ tơ ngun bản, nơi có dây
chuyền sản xuất có các nhân viên được đào tạo chuyên sâu và mơi trường được
kiểm sốt chặt chẽ. Sự đa dạng chính trong các phân xưởng tân trang vì nó ảnh
hưởng đến các sản phẩm tân trang ô tô, nằm ở sự phân chia giữa làm khơ bằng
khơng khí (làm khô ở nhiệt độ môi trường xung quanh) và sấy trong buồng nhiệt.
Trong bối cảnh sửa chữa ô tô, nhiệt độ nung lên đến nhiệt độ kim loại 80 °C, mặc
dù các vật liệu hồn thiện hiện đại thường có lịch trình nung tối ưu lên tới 60 ° C.
1.4.2. Trong buồng nhiệt

Việc khơng có thiết bị buồng nhiệt trong một xưởng hồn thiện thường cũng
có nghĩa rằng đây là một môi trường tương đối kém cho việc sử dụng sơn, thường


có nhiều bụi và thay đổi về nhiệt độ và độ ẩm. Điều cần thiết đối với một sản phẩm
làm khơ bằng khơng khí được sử dụng trong mơi trường như vậy phải 'khơng có
bụi' trong thời gian cực kỳ ngắn (thường là vài phút). Điều này có nghĩa là sản
phẩm sơn làm khơ bằng các q trình vật lý. Các sản phẩm đóng rắn thơng qua
phản ứng với oxy trong khơng khí hoặc vật liệu hai thành phần đóng rắn tương đối
chậm ở nhiệt độ môi trường xung quanh (vì nếu khơng, chúng chắc chắn sẽ khơng
ổn định hoặc có thời gian sống ngắn), nhưng có thể được sử dụng để hồn thiện lại
nếu có sẵn mơi trường khơng có bụi. Đúng điều kiện các sản phẩm như vậy có lợi
thế lớn hơn 'lacquer', cả về ứng dụng và hiệu suất.
Do đó, ngày càng nhiều ở tất cả các thị trường, và hầu như chỉ ở những nước
phát triển cao nhất, ơ tơ được hồn thiện lại trong các buồng phun hồn chỉnh được

liên kết với lị nhiệt thấp 'lowstoving' hoặc có thể tự chuyển đổi thành lị nhiệt
(buồng / lò phun kết hợp).

II. Hệ thống sơn phủ
2.1. Sơn chống gỉ (ED)
2.1.1. Mục đích

Mục đích của lớp sơn chống rỉ là cung cấp khả năng chống rỉ và giúp cho vật
liệu ngăn cản được hiện tượng ăn mòn và tăng cường khả năng bám dính giữa bề
mặt nền với các lớp sơn tiếp theo. Sơn chống rỉ thuộc loại sơn nước, khô ở điều
kiện 150oC – 180oC tuỳ thuộc vào hệ sơn.
2.1.2. Thành phần

Chất tạo màng: Là thành phần chính của hệ sơn này, nó có thể bám được vào
bề mặt vật liệu nhờ quá trình tĩnh điện, chất tạo màng chủ yếu cho hệ sơn này là
nhựa Epoxy và một số loại nhựa khác như nhựa Melamin.


Bột màu: nhằm mục đích tạo được khả năng chống rỉ, độ đục, bền thời tiết và
các tính chất khác của màng sơn. Tuỳ thuộc vào mục đích sử dụng mà có tác dụng
chống rỉ là các oxit kim loại như: Fe2O3, Fe3O4,…
Dung mơi: dung mơi chính của sơn ED là nước, có mục đích chính là hồ tan
chất tạo màng và phân tán bột màu trong môi trường sơn, giúp cho màng sơn có
thể hình thành được trên bề mặt vật liệu và mất đi sau khi màng sơn khơ hồn
tồn.
Chất phụ gia: Là các xít như axit axetic, axit amin có khả năng hồ tan trong
nước và chất tạo màng, chúng có nhiệm vụ tạo được khả năng làm việc và một số
tính chất tốt hơn của màng sơn.
Nước DI: là loại nước khơng ion có nhiệm vụ loại bỏ sơn thừa, dung mơi và
thụ động hố bề mặt lớp sơn sau giai đoạn sơn.

Ví dụ: Sản phẩm sơn lót chống gỉ của Nippon là: Vinilex 1200
2.2. Sơn lót (Primer)
2.2.1. Mục đích

Sơn lót nhằm mục đích làm nhẵn bề mặt đã có lớp sơn nền, bảo vệ lớp sơn
nền chống rỉ và và tăng khả năng bám dính giữa các lớp sơn.
2.2.2. Thành phần

Chất tạo màng: Chất tạo màng chủ yếu là các loại nhựa như: nhựa Polyeste,
nhựa Melanine, nhựa Epoxy và các loại nhựa khác.
Bột màu: Bao gồm các loại bột màu vô cơ như: oxit kẽm (ZnO), Titan (TiO2),
và các loại bột độn khác như CaCO3, BaSO4...
Dung môi: bao gồm các dung môi thơm, dung môi hoạt đông este, ete và
rượu.
Chất phụ gia: bao gồm các chất điều khiển bề mặt, chất phân tán, chất chống
lắng, chất hấp thụ tia cực tím.


2.2.3. Một số ví dụ

Sản phẩm sơn lót của Nippon: Sơn lót xám Nax 2200, sơn lót xám Nax 2400,
sơn lót xám 303, sơn lót nhựa PP
2.3. Sơn màu phủ (TopCoat)
Sơn phủ là lớp sơn cuối cùng nhằm mục đích trang trí cũng như tạo được màu
sắc, độ bóng, độ tương phản ánh sáng cũng như có một số tính chất đặc biệt và
chịu được môi trường. Đối với sơn nguyên bản, loại sơn này là hệ sơn khô ở nhiệt
độ cao. Cịn trong sửa chữa ơ tơ, người ta sử dụng hệ sơn tự khơ. Mục đích của sơn
tự khô là được sử dụng để sơn cho các chi tiết làm bằng vật liệu chịu nhiệt độ thấp,
dễ bị biến dạng dưới tác dụng của ngoại lực, nhiệt độ cao và dùng để sửa chữa. Hệ
sơn này khô nhanh ở nhiện độ thấp 80oC trong 30 phút hoặc khô tự nhiên sau 24

giờ.
Sơn phủ Solid
Chất tạo màng: là các loại nhựa như: nhựa Alkyd, nhựa Acrylic, Nitro
cellulose và các loại nhựa khác.
Bột màu: là các oxit vô cơ như TiO2 và các bột màu khác
Dung môi: bao gồm các loại dung môi thơm các loại dung môi hoạt động như
este, ete và rượu.
Chất phụ gia: bao gồm chất điều khiển bề mặt, chất chống lắng, chất phân tán,
chất ổn định màu sắc, chất hấp thụ tia cực tím,...
Sơn phủ Metallic
Chất tạo màng: bao gồm các loại nhựa như: nhựa Acrylic, nhựa Alkyd,
Polyuretan và các loại nhựa khác.
Bột màu: là các bột mang màu, ngồi ra cịn có các loại bột màu đặc biệt khác
như bột nhôm (Al), vảy Mica và các loại bột màu khác.


Dung môi: bao gồm các loại dung môi thơm các loại dung môi hoạt động như
este, ete và rượu.
Chất phụ gia: bao gồm chất điều khiển bề mặt, chất chống lắng, chất phân tán,
chất ổn định màu sắc, chất hấp thụ tia cực tím.
Sản phẩm sơn phủ của Nippon: Sơn Nax Premila, sơn tự bóng, sơn gốc nước
2.3.1. Nitrocellulose

Trong những ngày đầu, về cơ bản tất cả các loại sơn ngun bản và sơn sửa
lại trên ơ tơ đều có nguồn gốc từ nitrocellulose. Trên dây chuyền sản xuất
nitrocellulose sớm được thay thế bằng hệ thống acrylic và alkyd. Khi sửa chữa lại,
nitrocellulose vẫn được sử dụng cho đến ngày nay, mặc dù bây giờ nó đã bị thay
thế ở hầu hết các thị trường phát triển. Ưu điểm chính của các sản phẩm làm khô
vật lý như nitrocellulose (và nhựa nhiệt dẻo acrylic) trong sơn sửa ô tô là làm khơ
khơng khí rất nhanh, kết hợp với việc đánh bóng dễ dàng, cho phép đạt được kết

quả tốt trong các xưởng thiếu trang thiết bị và nhiều bụi.xưởng tồi tàn và bụi bặm.
Nhược điểm lớn là độ bền kém. Tóm lại, điểm mạnh và điểm yếu của các sản phẩm
hồn thiện nitrocellulose như sau:
Điểm mạnh:
- Rất nhanh khơ
- Ứng dụng dễ dàng
- Khả năng đánh bóng
- Có thể phục hồi bất cứ lúc nào
Điểm yếu:
- Độ bền kém, khả năng chống tia cực tím kém
- Độ giịn
- Độ bóng thấp - yêu cầu đánh bóng
- Giữ độ bóng kém
- Chất rắn thấp / khả năng tạo thấp


- Khả năng chống dung môi (xăng) kém
Sơn mài nitrocellulose thường được làm dẻo với sự kết hợp của chất hóa dẻo
dung mơi, chất hóa dẻo cao phân tử và alkyd không khô.
2.3.2. Acrylic nhiệt dẻo (TPA)

Chất làm sạch ô tơ TPA có nhiều đặc điểm giống như các sản phẩm
nitrocellulose, ngoại trừ trường hợp độ bền và khả năng chống tia UV là cần thiết
cho điều kiện khí hậu, phần lớn được xem là có thể thay thế cho nitrocellulose như
sơn sửa chữa. Giống như nitrocellulose, sơn mài TPA chỉ cứng lại bằng cách bay
hơi dung môi. Không giống như các sản phẩm được sử dụng cho lớp hoàn thiện
ban đầu, các sản phẩm TPA đã hoàn thiện lại không bị nung để đạt được độ chảy
ngược.
Polyme được sử dụng trong sơn mài TPA ln có tỷ lệ hàm lượng metyl
metacrylat, được đồng trùng hợp với một số monome acrylic khác để đạt được sự

pha trộn thích hợp về độ cứng, tính linh hoạt và độ bám dính, và được pha trộn với
chất làm dẻo dung môi. Điểm mạnh và điểm yếu của TPA để hoàn thiện như sau:
Điểm mạnh:
 Làm khơ bằng khơng khí rất nhanh
 Độ bền tốt (khả năng chống tia cực tím)
 Chỉnh sửa dễ dàng, có thể đánh bóng
 Hiệu ứng kim loại tuyệt vời
Điểm yếu:
 Dung môi kém (kháng xăng)
 Chất rắn thấp / độ phủ thấp
 Độ giịn
 Độ bóng thấp - yêu cầu đánh bóng
2.3.3. Alkyd


Chất hồn thiện Alkyd được sử dụng trong q trình hồn thiện thường là dầu
ngắn, khơ nhanh về bản chất. Chúng có thể được làm khơ trong khơng khí bằng
máy sấy coban và chì thơng thường hoặc được áp dụng như các sản phẩm hai
thành phần bằng cách thêm nhựa melamine hoặc polyisocyanate. Khi được sử
dụng với melamine, alkyd phải được loại bỏ ở nhiệt độ kim loại 70-80 ° C: việc bổ
sung isocyanate làm tăng tốc độ cứng ở bất kỳ nhiệt độ nào, nhưng thường được
kết hợp với 'sấy khô bằng lực' ở 40-60 °C.
Alkyd là loại 'tráng men' đầu tiên (trái ngược với 'lacquer' làm khô vật lý)
được sử dụng để sơn sửa ô tô, mang lại những ưu điểm tuyệt vời của chất rắn khi
ứng dụng và do đó khả năng tạo cao hơn và 'độ bóng từ súng sơn', loại bỏ sự cần
thiết cho việc đánh bóng tốn nhiều cơng sức. Tuy nhiên, Alkyd chậm cần 'khơng có
bụi' hơn 'lacquer', cho dù là nitrocellulose hay TPA, và do đó phải được thi cơng
trong mơi trường khơng có bụi. Sự ra đời của họ theo đó đi kèm với sự phát triển
của các buồng phun phù hợp cho ngành sửa chữa ô tô.
Một nhược điểm lớn của alkyd là khó sửa chữa, phát sinh do xu hướng của

màng đã được bảo dưỡng một phần sẽ mềm đi nếu bị tráng quá mức.
Do đó, bất kỳ lỗi nào trong sơn hoặc hư hỏng gây ra sau đó đều không thể
được sửa chữa cho đến khi màng cũ được loại bỏ hoàn toàn. Đối với những alkyd
được làm khơ thơng thường bằng q trình oxy hóa khơng khí, q trình này có thể
mất vài ngày, nhưng các màng được liên kết chéo bằng cách bổ sung melamine
hoặc polyisocyanate có thể được phục hồi nhanh hơn nhiều.
Ngồi ra, các đặc tính của hệ nhựa alkyd khơng phù hợp lắm vì bao gồm
mảnh vảy nhơm khi hồn thiện. Lớp hồn thiện bằng alkyd có sắc tố kim loại cho
hiệu ứng 'lật' kém vì định hướng của các hạt nhơm q ngẫu nhiên.
2.3.4 Sơn Enamel acrylic

Enamel acrylic là chất đồng trùng hợp alkyd / TPA đại diện cho một loại sản phẩm
lai, được phát triển để cải thiện cấu trúc và độ bóng của TPA thơng thường mà


không làm mất hiệu suất không bám bụi rất nhanh của sơn mài. Thuộc tính của các
sản phẩm này tương ứng giữa hai loại. Giống như alkyds thông thường, chúng có
thể được sử dụng làm vật liệu hai trong một với thành phần thứ hai là
polyisocyanate. Điều này mang lại lợi ích về tốc độ sấy khơ, độ bền và độ cứng,
nhưng làm mất tất cả các lợi ích làm khơ như 'lacquer', do đó u cầu các điều kiện
thi cơng khơng có bụi.
2.3.5. Acrylic uretan

Loại sản phẩm chính được giới thiệu gần đây nhất trong ngành cơng nghiệp
hồn thiện dựa trên nhựa acrylic với nhóm chức hydroxy, được sử dụng riêng cùng
với thành phần thứ hai polyisocyanate. Mặc dù chậm khơng bám bụi so với
lacquer, ở mọi khía cạnh khác, uretan acrylic có phạm vi tốt nhất trong số các đặc
tính phù hợp nhất với việc sơn sửa ơ tơ, và do đó làm cho các sản phẩm khác trở
nên lỗi thời ở hầu hết các thị trường phát triển cho các ứng dụng khác ngoài các
ứng dụng chuyên dụng.

Sự kết hợp urethane acrylic đặc biệt phù hợp với thị trường sơn phủ. Nhựa
acrylic mang lại lợi ích của:
 Độ bền, độ bóng duy trì;
 Độ cứng;
 Uyển chuyển;
 Dễ nhuộm màu;
 Độ bóng cao.
Bằng cách sử dụng nhựa acrylic trọng lượng phân tử tương đối thấp, chất rắn
có thể cao theo tiêu chuẩn sơn sửa chữa, trong khi phản ứng liên kết chéo với
polyisocyanate diễn ra ở tốc độ cho phép acrylic uretan được sử dụng trong phạm
vi nhiệt độ yêu cầu của thị trường, đóng rắn ở tỷ lệ chấp nhận được thậm chí dưới
5°C. Việc áp dụng nhiệt làm tăng tốc q trình sấy khơ và để đạt được thông lượng


bảo quản tối ưu, các uretan acrylic thường được bảo dưỡng trong 30-40 phút ở
nhiệt độ khơng khí 80-100 ° C, dẫn đến nhiệt độ kim loại tối đa là khoảng 60°C.
2.3.6 Màu

a. Giới thiệu
Màu sắc là điểm chính của cơng nghệ sơn hồn thiện. Số lượng và sự đa dạng
của màu sắc ô tô trên các con đường tăng rất nhanh từ khoảng năm 1970, khi màu
sắc trở thành một phần quan trọng trong gói tiếp thị được các nhà sản xuất ô tô sử
dụng trong một thị trường ngày càng cạnh tranh. Điều này đặc biệt đúng với các thị
trường châu Âu, nơi đồng thời kỳ vọng về chất lượng phù hợp màu sắc trong việc
sửa chữa thân xe cũng tăng lên. Người ta ước tính rằng màu sắc sản xuất của các
nhà sản xuất ô tô trên đường ở các thị trường chính châu Âu trong năm 1985 đã
vượt quá 10000, tăng gấp 5 lần so với năm 1965.
Phạm vi màu sắc được yêu cầu phải phù hợp trong q trình sửa chữa cịn
được mở rộng hơn nữa bởi sự thay đổi màu sắc đến từ các nhà máy sản xuất xe
hơi. Những biến thể này có thể do:

• Trơi màu theo thời gian về tiêu chuẩn hoặc công nghệ của sơn được cung cấp,
điều kiện hoặc thiết bị trên dây chuyền sản xuất.
• Sự khác biệt giữa màu sơn, thiết bị hoặc kỹ thuật được sử dụng tại hai hoặc
nhiều đơn vị sản xuất ô tô có cùng màu sắc trên danh nghĩa.
Các nhà sản xuất sơn sửa lại theo dõi màu sắc của những chiếc ô tô thực sự đến từ
nhà máy trên đường, thay vì chỉ đơn giản là phù hợp với 'kiểu dáng' ban đầu vốn là
chủ nhân của nhà sản xuất ô tô về màu sắc.
b. Phối màu và trộn màu phù hợp tại nhà máy
Việc cung cấp màu sắc phù hợp tại nhà máy với các màu xe cụ thể là cách tiếp
cận rõ ràng và đơn giản nhất đối với thị trường sơn lại. Cách tiếp cận này có thể
thực hiện được miễn là số lượng màu có thể quản lý được đại diện cho phần chính


của tổng nhu cầu thị trường. Một khi việc cung cấp toàn bộ nhu cầu màu theo cách
này trở nên không thực tế, các nhà sản xuất sơn đã đưa ra khái niệm về phương
pháp trộn hoàn thiện để cho phép pha trộn màu ban đầu ở cấp nhà phân phối, sau
đó là ở cấp độ người dùng cuối. Lúc đầu, sơ đồ trộn bổ sung phạm vi phù hợp với
nhà máy bằng cách cung cấp một phương tiện để cung cấp các màu ít phổ biến
hơn, ít thường xuyên hơn.
Tuy nhiên, ở nhiều thị trường, sơ đồ pha trộn hầu như có bổ sung hồn tồn
màu phù hợp với nhà máy, bởi vì sự đa dạng màu sắc quá lớn trên đường dẫn đến
khả năng bán một sản phẩm phù hợp với nhà máy riêng lẻ quá nhỏ để có giá trị sản
xuất hoặc tồn kho.
Màu sắc phù hợp với nhà máy vẫn là một đặc điểm quan trọng của các thị
trường kém phát triển, với phần lớn các cửa hàng sửa chữa nhỏ và / hoặc kỳ vọng
thấp về độ chính xác của màu sắc, hoặc nếu khơng thì bị chi phối bởi một số lượng
tương đối nhỏ các nhà sản xuất ơ tơ, do đó mỗi màu riêng lẻ vẫn có thể tạo ra một
doanh số bán hợp lý. Thị trường lớn nhất thế giới, Hoa Kỳ, vẫn giữ vị trí này, mặc
dù sự gia tăng nhanh chóng của nhập khẩu ơ tơ đã khởi đầu cho xu hướng kết hợp
các chương trình gần như đã hồn thiện ở châu Âu. Quy mô tuyệt đối của thị

trường Hoa Kỳ đương nhiên cho phép nhà sản xuất sơn đạt được quy mô lô kinh tế
cho một màu riêng lẻ trong phạm vi của một trong những nhà sản xuất ô tô khổng
lồ: hạn chế cuối cùng nằm ở quy mô hàng tồn kho mà cửa hàng phân phối chuẩn bị
nắm giữ. Kinh nghiệm ở các thị trường phát triển cho thấy rằng một khi dải 7001000 màu có thể đáp ứng ít hơn 60-75% nhu cầu, thì xu hướng phối trộn sẽ trở nên
ổn định và không thể đảo ngược.
c. Sơ đồ trộn sơn sửa chữa
Một sơ đồ trộn sơn sửa chữa điển hình bao gồm một loạt các loại sơn một
chất màu, được kiểm soát rất cẩn thận để đảm bảo tính nhất quán từng đợt của cả


màu sắc và độ bền màu. Chúng được trộn với nhau, theo công thức do nhà sản xuất
sơn cung cấp, để phù hợp với màu xe. Các công thức thường được cung cấp trên vi
thẻ dưới dạng các phần theo trọng lượng hoặc theo thể tích cần thiết để đạt được
một thể tích cụ thể có màu phù hợp chính xác.
Phần cứng của sơ đồ trộn sơn sửa chữa bao gồm một bộ khuấy trộn, có khả
năng khuấy đồng thời tất cả các màu để duy trì sự đồng nhất trong hộp thiếc, một
đầu đọc vi thẻ để thiết lập công thức và một cân nặng hoặc thiết bị đo thể tích.
Số lượng bột màu có thể được bao gồm trong một sơ đồ trộn tự nhiên là hữu
hạn, thường lên tới 30 - 40 bột màu, bao gồm lựa chọn các loại vảy nhơm cho màu
kim loại. Thường thì một số sắc tố được nhân đôi ở cường độ 'đầy đủ' và 'giảm',
loại sắc tố này cho phép điều chỉnh màu sắc nhỏ.
Đương nhiên, phạm vi của các chất màu có sẵn cho các cơng thức sơn ơ tơ để
tạo kiểu dáng màu mới rộng hơn nhiều so với các loại bột màu có sẵn trong một sơ
đồ pha chế sơn sửa chữa. Do đó, ở một mức độ nào đó, các ma trận màu sơn sửa
chữa thường được đo bằng màu xe nguyên bản. Khi đó, việc sửa chữa đạt u cầu
có thể u cầu một diện tích lớn của xe được sơn; trong những trường hợp cực
đoan có thể phải sơn lại tồn bộ chiếc xe, vì không thể đạt được màu gần giống
chấp nhận được từ các sắc tố có sẵn.
Màu sắc
Trắng

Xanh

Loại bột màu
Titanium dioxide (TiO2)

Ví dụ
SCM

Tiona

Copper phthalocyanine (C32H16CuN8)

RH472
-

BASF

lam

Heliogen

Blue

L6975F
-

Hoechst

Hostaperm Blue
Xanh lá


Chloro-brominated copper phthalocyanine

BFL
- ICI Monastral


Vàng

Đỏ cam
Đen

- Lead chromate ( PbCrO4)

Green GN
Ciba
Geigy

- Lead chromate / sulphate (Pb9(CrO4)5(SO4)4)

Irgazin Yellow 2

- Flavanthrone (C28H12N2O2)

GTLN

- Tetrachloroisoindoline
- Iron (III) oxide (Oxit sắt 3)

Bayer Bayferrox


- Carbon Black/Furnace Black

110-160
Black

xanh

Degussa Special
Black 10
Các nhà cung cấp sơn hoàn thiện phải đầu tư nhiều vào việc cung cấp các

công thức để phù hợp với tất cả các màu xe có thể cần phải pha trộn, phổ biến
thông tin này và cung cấp cho người sơn lại phương tiện để xác định màu xe. Việc
sản xuất các công thức pha trộn được hỗ trợ rất nhiều bởi việc sử dụng các máy
quang phổ phản xạ được liên kết với máy tính. Bằng cách so sánh phổ phản xạ của
màu xe với phổ của các sắc tố pha trộn sẵn có, máy tính có thể đề xuất một loạt các
cơng thức pha trộn có thể có mà từ đó người phối màu chọn theo tiêu chí mà họ
chọn để áp đặt, ví dụ: mức metamerism (hiện tượng 2 màu nhìn giống nhau dưới
nguồn sáng này, nhưng khác nhau dưới nguồn sáng kia) có thể chấp nhận được, chi
phí chất màu hoặc tổng số chất màu được sử dụng. Kết hợp máy tính vẫn chưa có
khả năng xử lý các màu kim loại một cách hoàn toàn thỏa đáng, vì sự phụ thuộc
vào góc của độ phản xạ trong các màu đó; nhưng nó vẫn hữu ích trong việc rút
ngắn q trình trộn cơng thức sản xuất ngay cả đối với kim loại.
2.4. Sơn phủ bóng (Clear coat)
2.4.1. Mục đích sơn phủ bóng

Sử dụng để tạo lớp ngồi cùng với chức năng tạo độ bóng và bảo vệ các lớp
sơn bên trong chịu được môi trường.



2.4.2. Thành phần dầu bóng.

Dầu bóng sấy khơ
- Chất tạo màng: bao gồm: nhựa Acrylic, nhựa Melanine, nhựa Polyeste, nhựa
Epoxy.
- Bôt màu: Không sử dụng bột màu
- Dung môi: Bao gồm các loại dung môi thơm các loại dung môi hoạt động như
este, ete và rượu.
- Chất phụ gia: Bao gồm chất điều khiển bề mặt, chất hấp thụ tia cực tím và một số
chất điều khiển tính chất lưu biến khác.
Dầu bóng tự khơ
- Chất tạo màng: Chất tạo màng bao gồm: nhựa Acrylic, nhựa Alkyd, nhựa Nitro
cellulose và các loại nhựa khác.
- Bôt màu: không sử dụng bột màu
- Dung môi: bao gồm các loại dung môi thơm các loại dung môi hoạt động như
este, ete và rượu.
- Chất phụ gia: bao gồm chất điều khiển bề mặt, chất hấp thụ tia cực tím và một số
chất điều khiển tính chất lưu biến khác.
2.4.3. Một số ví dụ

Sản phẩm sơn bóng của Nippon: sơn bóng 2K 441, sơn bóng 2K 9600, sơn
bóng 2K 9800, sơn bóng 686, sơn bóng 9905, sơn bóng 705.

III. Phát triển trong tương lai
3.1. Mối quan hệ với công nghệ ô tô
Sự khác biệt cơ bản giữa công nghệ ô tô và công nghệ sơn sửa lại phát sinh từ
hạn chế về nhiệt độ nung trong q trình hồn thiện một chiếc xe hồn chỉnh, có
thể tiếp tục phân chia hai cơng nghệ, bất chấp áp lực phải giảm nhiệt độ trong lò



trong sản xuất ô tô. Áp lực này xuất phát từ đầu tiên là nhu cầu giảm chi phí năng
lượng và thứ hai là xu hướng sử dụng nhựa trong chế tạo phương tiện giao thơng.
Rất ít loại nhựa có khả năng chịu được các điều kiện gia công kim loại trên ô tô
thông thường mà không bị biến dạng. Do đó, trừ khi chất dẻo được sơn riêng trong
một quy trình nung khác, thấp hơn (với những nguy cơ rõ ràng là màu sắc kém), thì
quy trình nung thấp mới là bắt buộc để hồn thiện ơ tơ. Tuy nhiên, nhiệt độ nung
100-130 ° C có thể được sử dụng mà không làm biến dạng hầu hết các loại nhựa
kết cấu và những nhiệt độ này vẫn vượt quá nhiệt độ có sẵn để sửa chữa.
Tuy nhiên, chúng tơi thấy rằng sự ra đời của các quy trình nền / lớp phủ đã
làm giảm sự khác biệt giữa công nghệ ô tô và công nghệ sơn phủ lại trong các lớp
sơn hoàn thiện này đối với riêng lớp sơn phủ. Rõ ràng là trong vài năm tới, một tỷ
lệ lớn hơn nhiều màu sắc xe hơi mới, cho dù là các màu đồng nhất thông thường,
kim loại, hay màu ngọc trai (mica) trong sắc tố, sẽ được pha chế trên cơng nghệ
basecoat / clear. Có thể chỉ có màu phấn và màu trắng sẽ là công nghệ sơn một lớp
thơng thường, do đó cơng nghệ màu trong ơ tơ và sơn phủ lại sẽ tương đương nhau
nếu không muốn nói là giống hệt nhau
Xu hướng đa dạng hơn về sắc tố ơ tơ, có thể được tạo ra bởi sự tách biệt các
chức năng trang trí và bảo vệ của lớp sơn hoàn thiện được ngụ ý bởi lớp nền /
trong, có thể bắt đầu đảo ngược xu hướng đối với việc pha trộn màu tại chỗ và việc
hoàn thiện có thể ngày càng gia tăng sử dụng màu sắc giống với màu được áp dụng
cho xe trên dây chuyền sản xuất. Có một giới hạn về số lượng bột màu có thể được
thêm vào hệ thống trộn để cho phép đạt được độ sánh chấp nhận được và việc bổ
sung bột màu mica phủ, đặc biệt, có thể làm cho giới hạn đó bị vượt q. Tuy
nhiên, khơng nên đánh giá thấp sự tiện lợi của nguyên tắc sơ đồ trộn đối với hãng
và nhiều nỗ lực nghiên cứu có thể sẽ được thực hiện để mở rộng hơn nữa tính hữu
ích của việc hồn thiện các sơ đồ trộn.


3.2. Hệ thống nhựa mới

Sự phát triển của acrylic uretan đã dẫn đến một hệ thống nhựa đáp ứng hầu
hết các yêu cầu hoàn thiện. Nhưng đối với một nhược điểm lớn là khó có thể lường
trước được một cơng nghệ mới về cơ bản thay thế các sản phẩm này trong một thế
hệ, đặc biệt là vì việc cải thiện đáng kể hơn nữa về hiệu suất vốn đã xuất sắc gần
như chắc chắn có thể xảy ra. Hạn chế chính là độc tính vốn có của isocyanate. Có
một mối nguy hiểm thường trực đối với các nhân viên là trở nên nhạy cảm khi hít
phải sương mù (bình xịt), phát sinh do thực hành không tốt hoặc thiết bị trục trặc.
Tiếp theo tiếp xúc với isocyanate ngay cả ở nồng độ cực thấp có thể gây ra các
triệu chứng hen suyễn, và do đó nhạy cảm có khả năng buộc một nhân viên phải
rời khỏi ngành công nghiệp tinh chế.
Do đó, nghiên cứu về hệ thống nhựa hồn thiện tập trung vào việc đạt được
hiệu suất của acrylic uretan mà khơng cần isocyanat. Tính linh hoạt tuyệt vời và độ
bền đã được thiết lập của hệ thống acrylic khiến cho bất kỳ thế hệ sản phẩm hoàn
thiện mới nào vẫn sẽ có nguồn gốc từ acrylic.
Các tài liệu về bằng sáng chế có chứa một số cách tiếp cận thay thế cho hóa
học của liên kết chéo trong hydroxy acrylic, nhưng phản ứng urethane là đơn lẻ
khó có thể so sánh được về tính linh hoạt và khả năng tiến hành ngay cả ở nhiệt độ
rất thấp. Các loại nhựa liên kết chéo được cấp bằng sáng chế như vậy bao gồm
những loại dựa trên:
• Melamine.
• Polyepoxides;
• Polyanhydrides
Tất cả những thứ này phải được làm dẻo bên ngoài hoặc bên trong một cách
thích hợp.


Vẫn cịn phải xem cơng nghệ nào trong số những cơng nghệ này có khả năng
làm cho thế hệ sản phẩm sơn phủ ô tô acrylic urethane trở nên lỗi thời.




×