Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

TÌM HIỂU LỄ HỘI KATE CỦA NGƯỜI CHĂM Ở NINH THUÂN,

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (435.67 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA: NGỮ VĂN

ĐỀ TÀI

TÌM HIỂU VỀ LỄ HỘI KATÊ
CỦA NGƯỜI CHĂM Ở NINH THUẬN

Học phần: Các dân tộc ở Việt Nam
Mã học phần : HIST100202
Giảng viên: TS. Ngô Chơn Tuệ


MỤC LỤC
A.MỞ ĐẦU........................................................................................................... 2
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................ 2
2. Mục đích nghiên cứu ................................................................................. 2
Page
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................
2|
B.NỘI DUNG ....................................................................................................... 4
1. Giới thiệu khái quát về dân tộc Chăm ở Việt Nam ............................... 4
1.1. Nguồn gốc .......................................................................................... 4
1.2. Dân số ................................................................................................. 5
1.3. Văn hóa Chăm................................................................................... 5
1.4. Sắc tộc Chăm ở Việt Nam ................................................................ 6
2. Khơng gian văn hóa lễ hội Katê ............................................................... 6
2.1. Nguồn gốc của tên gọi Katê ............................................................. 8
2.2. Nguồn gốc hình thành lễ Katê của người Chăm ............................ 9
2.3. Thời gian diễn ra lễ Katê ............................................................ 10
2.4. Lễ nghi ............................................................................................. 11


2.5. Ý nghĩa ............................................................................................. 17
3. Kết luận .................................................................................................... 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 20

1


A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dân tộc Chăm vốn sinh tụ ở duyên hải miền Trung Việt Nam từ rất lâu đời,Page
đã |
từng kiến tạo ra nền văn hóa Sa Huỳnh rực rỡ trong lịch sử. Ngày nay, dân tộc
Chăm là một trong 54 dân tộc anh em, góp phần tạo nên một nền văn hóa Việt
Nam đa dạng, thống nhất. Văn hóa Chăm được thể hiện trong nhiều phương
diện và Lễ hội chính là một nét đặc sắc trong văn hóa của người Chăm. Do đó,
nhóm quyết định chọn đề tài “Tìm hiểu về lễ hội Katê của người Chăm ở Ninh
Thuận” để nghiên cứu. Trong bài nghiên cứu này, nhóm tập trung tìm hiểu về
nguồn gốc và đời sống văn hóa – xã hội của người Chăm, cùng với đó là q
trình và ý nghĩa của Lễ hội Katê - lễ hội đặc sắc nhất của cộng đồng Chăm Bà
La Mơn – tơn giáo có số lượng tín đồ đơng đảo và lâu đời nhất, ảnh hưởng mạnh
mẽ đến văn hóa của cộng đồng dân tộc Chăm ở Ninh Thuận.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu về lễ hội Katê là tìm hiểu về lễ hội đặc sắc nhất của người Chăm để
hiểu rõ hơn về văn hóa dân tộc Chăm, từ đó ta thấy được dân tộc Chăm có
những nét văn hóa độc đáo và phong phú, phù hợp với đời sống tinh thần của
người Việt Nam. Đồng thời điểm tô thêm màu sắc mới cho sự đa dạng trong văn
hóa các dân tộc Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài xác định đối tượng nghiên cứu là tìm hiểu lễ
hội Katê của dân tộc Chăm ở Ninh Thuận dưới góc nhìn văn hóa.

Phạm vi nghiên cứu: Nói về mảng văn hóa thì đây là vấn đề vơ cùng rộng,
văn hóa của mỗi dân tộc cũng rất đa dạng và phong phú. Bài tiểu luận này không
2


trình bày tồn bộ những vấn đề thuộc về văn hóa dân tộc Chăm ở Ninh Thuận
mà chủ yếu khai thác những đặc điểm nổi bật trong lễ hội Katê. Từ đó giúp
chúng ta hiểu biết nhiều hơn về con người cũng như văn hóa của dân tộc Chăm.
Page |

3


B. NỘI DUNG

1. Giới thiệu khái quát về dân tộc Chăm ở Việt Nam
1.1.

Nguồn gốc
Page |

Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, xét về nhân học cũng như về ngôn
ngữ, người Chăm là những người gốc Malayo – Polinesien (Mã Lai – Đa Đảo) với
những nét nhân chủng rất rõ mà sử liệu xưa của người Trung Quốc đã đúc kết:
“Người nước đó (Champa) mắt sâu, mũi cao, tóc quăn, da đen”. Cho đến nay, có
những ý kiến khác nhau về nguồn gốc của người Chăm: Từ bên ngoài vào, có
nguồn gốc bản địa. Thế nhưng, một điều khơng thể phủ nhận và đã được chứng
minh rõ ràng là, những người Chăm hiện nay là hậu duệ của một số tộc người trong
số rất nhiều tộc người thời xưa được gọi chung với cái tên Champa (người dân của
nước Champa – một quốc gia hùng mạnh với nền văn hóa đặc sắc đã từng tồn tại và

phát triển rực rỡ ở miền Trung Việt Nam từ cuối thế kỉ II đến cuối thế kỉ XVII). Và
hiện nay, người Chăm, hậu duệ của những người dân Champa xưa kia, đã trở thành
một dân tộc trong 54 dân tộc Việt Nam.
Cư dân Champa có chung nguồn gốc là chủng tộc Nam Đảo, thuộc ngữ hệ
Malayo – Polynesian. Khi đến Việt Nam, họ chia nhau ra các vùng để sinh sống,
một số định cư ở vùng ven biển chính là tộc người Chăm mà ngày nay chúng ta biết
đến. Một số di chuyển lên vùng Tây Nguyên là tộc người Ê Đê, Chu Ru, Gia Rai và
Ra Glai. Vì sự ngăn cách địa hình nên dần dần các tộc người rất ít hoặc khơng cịn
liên đới với nhau nữa, họ bắt đầu hình thành những từ vựng mới, cải biến lại trang
phục để phù hợp với thời tiết, nền văn hóa cũng bắt đầu biến đổi. Vì thế, từ một tộc
người ban đầu đã tách thành năm tộc người khác nhau.
1.2.

Dân số

Hiện nay, trên thế giới có đến khoảng 400.000 người Chăm đang sinh sống,
phân bố chủ yếu Campuchia, Việt Nam, Malaysia, Thái Lan và Hoa Kì. Mặc dù Việt
Nam là vùng đất ngày xưa vương quốc Chăm Pa được thành lập nhưng hiện nay đất
4


nước nhiều người Chăm sinh sống nhất đó chính là Campuchia (khoảng 252.000
người), họ sống chủ yếu ở tỉnh Kongpong Cham, và rải rác ở Campot, Phnom Penh.
Việt Nam là quốc gia thứ hai có nhiều người Chăm sinh sống nhất với con số
khoảng 178.948 người và họ sinh sống chủ yếu ở các tỉnh thành như: Bình Định,Page
Phú
|
Yên, Bình Thuận, Ninh Thuận, Khánh Hịa, Tây Ninh, Tp Hồ Chí Minh, An Giang ...
nhưng hiện nay họ sống ở Ninh Thuận, Bình Thuận, An Giang và Tp Hồ Chí Minh là
chủ yếu.

Ngồi Campuchia và Việt Nam thì Malaysia và Thái Lan cũng có người Chăm
sinh sống nhưng với số lượng không nhiều. Riêng các nước như Anh, Mỹ, Úc, Pháp
hiện nay vẫn có người Chăm sinh sống do q trình di cư mang yếu tố lịch sử và chính
trị, và hiện nay cộng đồng người Chăm tại Lào sinh sống ở thủ đô Viêng Chăn là chủ
yếu do sự chạy trốn khỏi chế độ Pol Pot.
1.3.

Văn hóa Chăm

Ngơn ngữ mà người Chăm sử dụng được gọi là tiếng Chăm, có nguồn gốc
thuộc ngữ tộc Malayo – Polinesien. Bộ chữ cái tiếng Chăm được bắt nguồn từ
chữ Phạn thuộc hệ Bhrami.
Người Chăm có trang phục truyền thống riêng, gọi là Aw Kamei Cam. Nền
ẩm thực của người Chăm cũng vô cùng phong phú, mang đậm nét giản dị và mộc
mạc.
Tác giả Trần Ngọc Thêm có viết trong cuốn sách Cở sở văn hóa Việt Nam,
cho rằng văn hóa người Chăm chịu ảnh hưởng rất lớn bởi Bà La Môn giáo và Phật
giáo. Dấu tích Bà La Mơn giáo được thể hiện bằng hệ thống tam thể Trimurti mà
người Chăm tôn thờ, bên cạnh đó cịn có các biểu tượng Linga và Yoni được tìm
thấy ở khu di tích Mỹ Sơn.
Người Chăm theo 3 tơn giáo chính gọi là Chăm Bà La Môn, Chăm Islam và
chăm Bà Ni. Chăm Bà La Môn là tôn giáo lâu đời nhất của người Chăm ở Việt
Nam, tôn thờ tam thể Trimurti là Shiva, Vishnu và Brahma. Sau đó, một nhóm
người Mã Lai theo con đường giao thương buôn bán đã mang theo Chăm Islam
5


vào Việt Nam, tôn thờ một đấng duy nhất là Alla. Vì sự khác biệt này nên hai tơn
giáo mâu thuẫn với nhau, một bộ phận người Chăm lúc bấy giờ đã cố gắng “Chăm
hóa” chúng để tạo thành một tôn giáo mới gọi là Chăm Bà Ni. Ba tôn giáo trên

hiện vẫn còn tồn tại, đang hoạt động một cách độc lập và có nhiều quan hệPage
với
|
nhau.
Lối kiến trúc tiêu biểu nhất của người Chăm chính là các tháp Chăm hơn
trăm năm tuổi với cách xây dựng đặc biệt mà chỉ họ mới làm được. Đây chính là
bí ẩn mà các nhà nghiên cứu tới nay vẫn chưa có lời giải đáp chính xác.
Hằng năm, người Chăm tổ chức rất nhiều các lễ hội để tạ ơn thần linh và các
vị vua thần đã phù hộ cho họ có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Đây cũng là cách để
người Chăm giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa đặc sắc của họ.
1.4.

Sắc tộc Chăm ở Việt Nam

Tộc người Chăm là một trong 54 dân tộc anh em sinh sống trên đất nước Việt
Nam. Họ có sự hòa đồng và sinh sống cộng cư xen kẽ với các dân tộc khác. Nếu
xét về nguồn gốc hình thành thì người Chăm là một tộc người di cư, nhưng họ
cũng được xem như một dân tộc bản địa khi đáp ứng đủ bốn tiêu chí của Hiệp hội
Dân tộc học Thế giới:
- Thời gian tồn tại trên 500 năm
- Ngơn ngữ có ảnh hưởng đến các dân tộc sống ngoại vi
- Các giá trị văn hóa, lịch sử được các dân tộc khác cơng nhận và vẫn
cịn tồn tại
- Tộc người còn tồn tại cho đến ngày nay
Nhà nước ta ngày nay đã ban hành những thơng tư, chính sách liên quan để
đảm bảo sự tạo mọi điều kiện để các dân tộc thiểu số nói chung và dân tộc Chăm nói
riêng có cơ hội phát triển và hịa nhập hơn với các dân tộc anh em.

2. Không gian văn hóa lễ hội Katê


6


Trên thế giới mỗi quốc gia lại có những loại hình sinh hoạt văn hóa riêng,
mang đậm bản sắc văn hóa của quốc gia, và có lẽ “lễ hội” là loại hình tiêu biểu
nhất. Đây là loại hình sinh hoạt văn hóa đặc biệt có tính tập thể, phản ánh tín
ngưỡng và sinh hoạt của người dân trong lao động sản xuất, hay trong việc hình
Page |
dung lại các sự kiện lịch sử. Lễ hội nước nào cũng có những hình thức rước
xách, diễu hành, vui chơi, nhưng ở mỗi quốc gia thì lễ hội lại mang một nét độc
đáo riêng của quốc gia đó. Vì thế lễ hội đóng vai trò quan trọng trong đời sống
tinh thần và xã hội, nó chứa đựng và phản ánh nhiều mặt của đời sống như: kinh
tế - văn hóa, tâm lý, tơn giáo. Và mỗi dân tộc của một quốc gia lại càng thể hiện
rõ điều đó.
Với sự phong phú lễ hội, các nhà nghiên cứu văn hóa đã đưa ra những tiêu chí
khác nhau nhằm phân loại cũng như nhận diện các lễ hội. Theo PGS. Dương
Văn Sáu, chúng ta có thể phân chia lễ hội thành các cách khác nhau:
-

Quy mơ

- Thời gian, mùa vụ sản xuất
- Tín ngưỡng
- Tính chất của lễ hội
- Không gian tổ chức
- Cách thức tổ chức và quản lý
Nhóm chúng tơi chọn phân loại theo tiêu chí khơng gian tổ chức.
Chảy dài theo dịng chảy của lịch sử dân tộc với biết bao thăng trầm và
biến cố, cộng đồng người Chăm ở Ninh Thuận vẫn giữ riêng cho mình
nhiều nét đặc sắc trong văn hóa, phong tục và tập quán, những lễ hội gắn

liền với dân tộc tiếp tục được giữ gìn và phát huy hàng trăm năm qua, nổi
bậc trong số đó là lễ hội Katê.
Lễ hội Katê là lễ hội quan trọng đậm tính dân gian lớn nhất của đồng bào
Chăm theo đạo Bà La Môn, được tổ chức thường lệ hằng năm, nằm trong công
7


lễ là những nghi lễ được tổ chức chung trong cộng đồng người Chăm không
phân biệt phái Aheir hay Awal như: Palao Kasah, Yuer Yang, Katê, Cakap
Halau Kraong và Cambur. Tuy là hai bộ phận tín đồ khác nhau, song vì mục
đích hịa hợp dân tộc, tín ngưỡng, họ khơng tách rời nhau mà bị ràng buộc
Page |
lẫn nhau trên tất cả phương diện như phong tục, tập quán, nghi lễ và hội
hè.
Lễ Katê là dịp để người Chăm bày tỏ lịng thành kính đến các vị thần như: Pơ
Klong Garai, Pô Rome... và ông bà tổ tiên đã phù hộ độ trì cho họ, cầu mong
mùa màng bội thu, gặp nhiều điều thuận lợi trong lao động, sản xuất… Là dịp để
người Chăm từ mọi miền đất nước trở về q hương để cùng đồn tụ với gia
đình, dịng họ, làng xóm, bạn bè và cộng đồng mình. Cũng tương tự như Tết
Nguyên Đán cổ truyền của người Việt. Ngày nay Katê không chỉ là một nghi lễ
hay lễ hội mà nó đã thực sự trở thành ngày Tết đối với đồng bào Chăm nói
chung và Chăm Ahier nói riêng (bản thân người Chăm Bà La Mơn khơng gọi
mình là Chăm Bà La Môn mà gọi là Chăm Ahier hoặc Chăm “Rặt” (Cham Jat
tức Chăm gốc).
2.1. Nguồn gốc của tên gọi Katê
Được dịch dựa theo từ điển của E. Aymonier – A. Cabaton, Katê là danh
từ có nguồn gốc từ Katik của Hindu và từ Kattika của Phạn ngữ (Sanskit)
Ấn Độ. Tuy nhiên ở Ấn Độ khơng có lễ tục này.
Ngồi ý nghĩa trên Katê cịn có ý nghĩa chung rộng hơn đó là một lễ tưởng
nhớ tổ tiên, một số vị thần linh, một số vua chúa và các nhân vật có cơng

với đất nước và dân tộc. Ý nghĩa này được thể hiện rõ qua nội dung tổ chức
lễ hội katê theo văn bản chữ Chăm (akkar thrah) bao gồm: kinh hành lễ
Katê (danak ngap yang Kate), bài thánh ca của các vị thần (damnây dom po
yang) và những lời cầu nguyện của người tham dự lễ (panuec alankar po
yang).
8


Rút ra từ những nhận định trên, ta có thể kết luận Katê nguyên thủy là một
nghi lễ có nguồn gốc bản địa (tín ngưỡng địa phương) mang bản sắc riêng
của Champa xưa. Về sau có một số yếu tố ảnh hưởng của nền văn minh Ấn
Độ và Hồi giáo. Minh chứng cho chúng ta thấy rõ, tuy ba cộng đồng Page
tôn |
giáo Chăm Ahier, Chăm Awal và Chăm Islam đều có chung một lễ nghi, lễ
tục ban đầu. Tuy nhiên, về sau khi chịu sự ảnh hưởng từ Hồi giáo và Ấn
Độ giáo nên có sự khác biệt theo tín ngưỡng và lễ cúng riêng.
2.2. Nguồn gốc hình thành lễ Katê của người Chăm
Từ TK II đến TK XV sau cơng ngun là thời kì vàng son của Ấn Độ giáo ở
vương quốc Champa. Cũng như các quốc gia khác ở Đông Nam Á ảnh
hưởng Ấn Độ giáo như Indonesia (Bali), Thái Lan và Campuchia thì
Champa cũng thường xây dựng các đền tháp để thờ thần Siva, Brahma,
Visnu và hàng năm cũng thường tổ chức lễ cúng tế ở đền tháp. Thơng qua
tư liệu bia kí chúng ta biết rằng, các vua chúa Champa luôn cúng tế đền
tháp sau những lần vua đăng quang, thắng trận và được mùa.
Thế nhưng thời đó cũng chưa có một minh chứng nào cụ thể để cập đến
lễ hội Katê trong giai đoạn lịch sử này. Chỉ nói nhiều về những lễ nghi, lễ
tục, nghi thức thờ cúng trong những dịp trọng đại. Mãi sau đến thế kỷ XV
(1471), khi thủ đô Vijaya (Bình Định) của Champa bị suy tàn, đánh dấu
nền văn minh Champa đã sụp đổ, kéo theo đó là ảnh hưởng của Ấn Độ giáo
cũng đi xuống và nhường chỗ cho sự phát triển của Hồi giáo ở vùng Đông

Nam Á.
Cũng bắt đầu từ thời điểm này, thông tin về đất nước Champa ít được đề
cập. Do đó thơng tin về Champa sau TK XV chỉ còn được biết đến qua văn
bản cổ chép tay còn lưu giữ ở một số chức sắc và gia đình người Chăm ở
Ninh Thuận – Bình Thuận. Những văn bản chép tay này được người Chăm
truyền lại từ nhiều đời, ghi chép cẩn thận về văn minh Chăm vùng
9


Panduranga trên tất cả bình diện như lịch sử, văn chương, lịch pháp, tín
ngưỡng, đền tháp, nghi lễ, hội hè và tất nhiên trong đó có lễ hội Katê.
Thơng qua văn bản chữ Chăm này những nhà khoa học đã nhận định: Sau
TK XV Hồi giáo phát triển mạnh ở phía Nam Champa – vùng Panduranga
Page |
(Ninh Thuận - Bình Thuận) và vương quốc Champa xác lập một nền văn
minh mới ở phía Nam - nền văn minh Champa – Panduranga.
Nền văn minh này cịn lưu giữ lại một ít tàn dư của Ấn Độ giáo, Hồi giáo
và kết hợp với tín ngưỡng địa phương. Và lễ hội Katê cũng là sản phẩm
của nền văn minh mới này. Trong Katê có chứa đựng yếu tố Ấn Độ giáo
như đền tháp, tượng thờ, tầng lớp tu sĩ (Basaih) và lời văn cúng tế thần
Siva (Po Ginuer Mantri) của Chăm Ahier. Bên cạnh đó cịn chứa những
yếu tố Hồi giáo như tượng thờ thần Pơ Klong Garai và Pơ Rome có một
loạt mũ hình ống, đó là loại mũ Fez của người Hồi giáo. Pô Rome – gốc
người Churu làm vua Champa từ năm 1627 đến 1651, ngài cũng là người
từng sang Makah ở Kelatan, Mã Lai để học triết lý Hồi giáo vào TK VXII
cũng được thờ cúng trong lễ hội Katê. Theo truyền thống dân gian Chăm,
vua Pơ Rome cịn là người có cơng lớn trong việc truyền đạo Hồi và dung
hợp giữa hai tín ngưỡng Chăm Ahier và Chăm Awal, cùng các sắc dân
miền núi – cao nguyên Champa.
2.3. Thời gian diễn ra lễ Katê

Katê là lễ cúng để tưởng nhớ thần Cha (Ngap padhi phuel bilan Katê sak ka
yang po yang Amâ), còn Cambun là Lễ cúng tưởng nhớ thần Mẹ. Thần Cha
thuộc “dương” còn thần Mẹ thuộc “âm” nên Katê được tổ chức vào thượng tuần
trăng (1 tháng 7 lịch Chăm), Cambun được tổ chức vào hạ tuần trăng (15 tháng
9 lịch Chăm), đều được tổ chức ở đền/ tháp.
Lễ hội Katê của người Chăm tại Ninh Thuận được diễn ra trong vòng 3
ngày. Thường được bắt đầu vào ngày 1 tháng 7 theo lịch Chăm (khoảng
10


25/9 – 5/10 dương lịch). Ngày nay, các địa điểm được tổ chức là đền tháp
Po Sah Inư (TP. Phan Thiết, Bình Thuận), tháp Pơ Klong Garai (TP. Phan
Rang – Tháp Chàm) và tháp Pô Rome (thôn Hậu Sanh, xã Phước Hữu,
huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận). Lễ hội Katê diễn ra tại các gia đìnhPage
cả |
sư và các làng Chăm theo đạo Bà La Môn.
2.4. Lễ Nghi
Lễ hội tại đền tháp do Ban tế lễ là các chức sắc đạo Bà La Mơn gồm:
- Thầy cả sư trụ trì đền tháp làm chủ lễ (Po Adhia).
- Thầy kéo đàn Rabap hát thánh ca (Kadhar).
- Bà múa lễ, lên đồng và dâng lễ vật lên các vị thần (Bajau).
- Ông từ giữ tháp (Camanei).
- Và cùng một số tu sĩ Basaih của Chăm Ahier phụ lễ.
Lễ vật dâng cúng Katê tại đền tháp:
-

01 con dê (tha sày phề)

-


03 mâm cơm (klau lao thay), canh cúng với thịt dê

-

01 cơm đựng trong hộp bằng đồng (tha hop thay)

-

03 mâm bánh gạo và hoa quả (klau lao han khẩm phkó)

-

Rượu, trứng, trầu cau, xơi chè... (lắc, phkó thà, la nâng, íu phù…)
Sau khi lễ vật đã chuẩn bị xong, ban tế lễ đã sẵn sàng thì lễ hội bắt đầu được

tiến hành theo các bước sau: lễ rước y trang, lễ mở cửa tháp, lễ tắm tượng thần,
lễ mặc y phục cho tượng thần và sau cùng là đại lễ.
Lễ rước y trang của nữ thần Pô Nagar (thần Mẹ xứ sở). Y phục của Nữ thần
Pô Nagar do người Ra Glai (một bộ tộc miền thượng) cất giữ. Đến ngày hội lễ
11


Katê thì người Ra Glai chuyển trang phục vua chúa Champa về nơi đền tháp để
người Chăm cúng tế. Đây là nghi lễ mở đầu cho ngày lễ hội diễn ra rất trọng thể.
Lễ rước y trang diễn ra ở 3 đền tháp: đền Po Ina Nagar, tháp Pô Rome và tháp
Pô Klong Garai. Khi rước y trang lên tháp, đồn người Ra Glai tập trung đơng
Page |
đủ, ơng từ giữ đền dâng cúng lễ vật, gồm: Trứng, rượu, trầu cau và xin phép
thần được rước y trang về tháp Pơ Klong Garai cúng lễ. Khi đồn rước kiệu vua
Pơ Klong Garai về đến tháp thì đội múa lễ của đoàn rước múa mừng trước tháp.

Đây cũng là điệu múa mừng (tamia uen) khi kết thúc một công đoạn trong nghi
thức lễ của người Chăm.
Tiếp theo là lễ mở cửa tháp do một vị cả sư và ông từ trong coi tháp điều
hành. Lễ vật gồm có rượu, trứng, trầu cau, nước tắm thần có pha trầm hương....
Trong khơng khí trang nghiêm, vị cả sư đọc mấy câu thơ (trong kinh hành lễ):
“Chúng con lấy nước từ sông lớn/ Chúng con đội về tháp tắm thần/ Thần là thần
của trời đất/ Chúng con lấy những tấm khăn đẹp nhất/ Lau mồ hơi trên mình, tay
chân của thần...”. Sau khi đoạn hát lễ kết thúc, thì đồn lễ tiến vào tháp, bà
Bajau và ông Camanei bắt đầu mở cửa tháp trong khỏi hương trầm tỏa ra nghi
ngút. Lễ mở cửa tháp kết thúc.
Lễ tắm tượng thần được diễn ra bên trong tháp. Sau khi mọi người đã ngồi
vào bàn lễ xung quanh hệ thờ thần thì Po Adhia làm nghi thức tế lễ, Bajau đốt
rượu dâng lễ. Trong tháp thầy Kadhar kéo đàn rabap đang hát thì ơng Camanei
cầm bình nước tưới lên pho tượng đá, mọi người bắt tay cũng nhau tắm cho
thần, những tín đồ nhiệt thành lấy nước trên thân tượng thần bơi lên đầu, lên
thân thể mình để cầu tài lộc, sức khoẻ, may mắn....
Sau khi lễ tắm kết thúc sẽ bắt đầu lễ mặc y phục cho thần. Lễ thức được tiến
hành theo lời hát thánh ca của thầy Kadhar, lời thầy hát đến đâu thì ông từ, bà
bóng mặc y phục đến đó. Đầu tiên là mặc váy, áo, khăn đội, thắt dây lưng, rồi
mang giày, đội mão...cứ tuần tự như vậy đến lúc hát để đội vương miện cho
tượng thần thì bài hát kết thúc.
12


Đại lễ được tiếp theo khi tượng thần đã mặc trên mình bộ long bào lộng lẫy,
thì cũng là lúc các lễ vật dâng cúng được bày ra trước bệ thờ. Chủ trì buổi lễ là
vị cả sư, bà bóng bày lễ vật, thầy kéo đàn Kanyi mời các vị thần cùng về dự lễ.
Lần lượt thầy cò ke hát mời 30 vị thần, mỗi vị thần thầy hát một bài thánh caPage
để |
mời. Thầy cả sư làm phép đọc kinh cầu nguyện xin thần về hưởng lễ và phù hộ

độ trì cho mn dân. Kết thúc đại lễ là màn vũ điệu múa thiêng của bà bóng.
Trong lúc bà Bajau đang xuất thần điệu múa thiêng bên trong tháp để kết thúc
đại lễ thì bên ngồi bắt đầu mở Hội. Những điệu trống Ginăng, kèn Saranai cùng
loạt vang lên, cầm nhịp cho các cô gái Chăm trong vũ điệu cuồng nhiệt, say sưa,
hấp dẫn, thôi thúc mọi người. Không khí vui nhộn liên tục cho đến khi mặt trời
khuất sau các dãy núi...
Các lễ hội Katê ở các làng Chăm diễn ra một hoặc có khi là vài ngày sau khi
kết thúc lễ hội ở các tháp. Ở đây, mấy hôm trước ngày hành lễ Katê làng, dân
làng đã quét dọn đền miếu (mỗi làng Chăm thường thờ riêng một vị thần), chuẩn
bị sân khấu, bãi chơi để thi dệt thổ cẩm Chăm, thi đội nước, kéo co…Những
năm gần đây cịn tổ chức cho thanh niên chơi bóng đá, bóng chuyền, mọi nhà
đều dọn dẹp trang hồng nhà cửa, mua sắm đồ ăn, thức uống...
Lễ hội Katê ở tháp nặng về phần lễ, còn Katê làng lại nghiêng về phần hội.
Trong ngày hội Katê làng, sau khi chuẩn bị xong lễ vật, buổi sáng, mọi người
làm lễ cúng Katê ở Nhà Làng để cầu mong thần phù hộ cho dân làng bình an,
khoẻ mạnh và làm ăn phát đạt. Chủ lễ không phải là chức sắc tôn giáo mà chủ
làng (Pơ Paley) hoặc già làng có uy tín và tinh thông phong tục tập quán. Khi kết
thúc buổi lễ là lúc bắt đầu các trò chơi. Tại làng dệt Mỹ Nghiệp, nơi tập trung
hơn 500 thợ dệt thổ cẩm Chăm lành nghề (thị trấn Phước Dân huyện Ninh
Phước, tỉnh Ninh Thuận) trong lễ hội Katê hàng năm, ngoài các trò chơi như,
múa quạt, kéo co... còn diễn ra hội thi dệt thổ cẩm khá sôi nổi.
Khi lễ Katê làng kết thúc thì lễ Katê gia đình mới được bắt đầu. Lễ vật cúng
Katê ở gia đình cũng là một cặp gà, năm mâm cơm, bánh tét, hoa quả, trầu cau,
13


rượu trứng... Nếu lúc kinh tế khó khăn thì có thể mỗi dịng họ cử ra một gia đình
để tổ chức, chứ khơng nhất thiết gia đình nào cũng cúng tế. Theo điều kiện của
mình mà mua sắm các thứ cho ăn mặc như Tết Nguyên Đán của người Kinh.
Người trong gia đình phải có mặt đầy đủ khi cúng lễ để cầu mong tổ tiên thần

Page |
linh phù hộ cho con cháu làm ăn phát đạt, tránh rủi ro, gặp nhiều may mắn...
Đây cũng là dịp ông bà, cha mẹ giáo dục con cháu nhớ công lao sinh thành, giáo
dưỡng của ông bà, tổ tiên... Mọi người sau khi cúng lễ xong thì hưởng lễ hay đi
thăm viếng người thân, bạn bè, chúc tụng nhau về sức khoẻ, hạnh phúc và công
việc, mời nhau uống rượu, ăn bánh trái. Làng Chăm chìm trong niềm vui, thân
thiện, tình làng nghĩa xóm, gắn kết gia đình bạn bè. Họ hịa mình vào những
phút giây thăng hoa ngắn ngủi trong ngày lễ hội, quên đi những vất vả lo âu của
đời sống thường nhật.
2.5. Sự biến đổi – phát triển lễ hội Katê xưa và nay
Lễ hội Katê theo truyền thống từ xa xưa của người Chăm có các bước lễ cơ
bản như sau: lễ đón rước y trang, lễ mở cửa tháp, lễ tắm tượng thần, lễ mặc y
phục cho thần, Đại lễ và Hội. Đó là nghi thức linh thiêng bắt buộc trong nghi lễ
ở đền tháp Chăm. Tuy nhiên, ngày nay quy trình nghi lễ này của lễ Katê đã bị
biến đổi ở một số đền tháp như sau:
Thường sau lễ đón rước y trang sẽ là nghi lễ mở cửa tháp. Đây là nghi lễ linh
thiêng ở các đền tháp Chăm. Thầy Kadhar hát lễ, thầy Camnei và bà Bajau đốt
hương trầm tẩy uế đền tháp và xin thần Siva để mở cửa đền tháp. Nhưng tiếc
rằng ngày nay cửa đá của đền tháp đã khơng cịn nữa, và được thay bằng cửa gỗ.
Ngày xưa đền tháp là nơi linh thiêng, nơi ngự trị của thần, và là nơi cúng tế
của tầng lớp tu sĩ, dân thường không ai được viếng thăm trừ khi có dịp tham gia
cúng tế, và ngay cả ông Camanei – ông trông coi đền tháp cũng không được tùy
tiện mở cửa tháp nếu không phải là ngày lễ cúng của tháp. Ngày nay đền tháp
Chăm chịu sự quản lí của Bảo tàng tỉnh thuộc Sở VHTT – DL tỉnh Ninh Thuận
nên tháp Chăm phải mở cửa thường xuyên để phục vụ du lịch.
14


Nghi lễ tắm tượng thần là do ông Camanei (ông từ giữ đền tháp) cử hành.
Ngày xưa ông Camanei như là một tu sĩ Chăm theo chế độ cha truyền con nối

được cộng đồng Chăm cho hưởng hoa lợi ruộng đất đền tháp, suốt ngày phải
kiêng cử nhiều việc để chú tâm trông coi đền tháp. Ngày nay ông Camanei
Page |
Chăm bị thay thế bởi nhân viên Bảo tàng, do đó ơng Camanei phải tái nhập vào
đời sống để kiếm kế sinh nhai, khơng cịn giữ được những điều kiêng cử. Việc
không kiêng cử của ông Camanei được xem là ô uế đối với thần linh. Điều này
từ nguyên nhân khách quan, làm cho ông Camanei ngày nay khác hẳn với ông
Camanei theo phong tục Chăm xưa.
Các vị thần linh cầu cúng trong đền tháp lễ hội Katê truyền thống ngày xưa là
những bức tượng đá cổ, linh thiêng như tượng Pô Klong Garai ở tháp Pô Klong
Garai (Đô Vinh – Tháp Chàm), Pô Ina Nagar ở tháp Pô Ina Nagar (Hữu Đức Ninh Phước), Pô Rome, Bia Sucan, Bia Sucih, tượng bị Nandin ở tháp Pơ Rome
(Hậu Sanh – Ninh Phước) … Ngày nay một số bức tượng cổ nêu trên đã bị mất
cắp và đã được thay thế bằng những tượng giả vô hồn.
Ngày xưa nhiều tư liệu và hiện vật còn lưu giữ ở các bảo tàng cho biết Chăm
nổi tiếng về đồ trang sức, kim hoàn bằng vàng bạc đá quý. Trước năm 1975, một
số hiện vẫn vẫn còn được lưu giữ và dùng mặc cho các tượng thần trong ngày lễ
Katê ở một số đền tháp Chăm. Chẳng hạn như tượng thần Pơ Rome ngồi mặc y
phục còn được mang nhiều vật trang sức như mão, đồ đeo tai, còng tay, ... bằng
vòng vàng trong ngày lễ. Tuy nhiên ngày nay những hiện vật này khơng cịn nữa
mà đã bị mất cắp. Vì vậy mà nay trong ngày lễ hội Katê chúng ta thấy tượng của
vua Pô Rome và một số tượng Chăm khác chỉ mặc trang phục mà không đeo đồ
trang sức lộng lẫy như xưa.
Các đồ cúng trong lễ Katê ngày nay cũng bị thay đổi. Ngày xưa đền tháp
Champa có ruộng đất riêng để hưởng hoa lợi nên có nguồn kinh phí lớn để các
tu sĩ Chăm mua sắm lễ vật, vật dùng quý giá để dùng trong cúng lễ đền tháp như
mâm bằng gỗ mun, mâm đồng, chén bạc, áo quần ngũ sắc…Ngày nay do không
15


cịn ruộng đất tu sĩ Chăm khơng cịn kinh phí để cúng lễ và mua sắm những vật

dùng trong lễ. Vì thế đồ cúng lễ Katê hiện nay trơng khơng đẹp mắt, họ dùng
loại mâm cũ gãy chân, chén ly bể miệng, khay trầu bị hư hỏng để đựng lễ vật
dâng cúng thần linh trong ngày lễ Katê.

Page |

Nhạc cụ trong nghi lễ Katê truyền thống chỉ có đàn Rabap (cịn gọi là Kanyi)
được ơng thầy Kadhar dùng để đệm hát bài thánh ca ca ngợi các vị thần. Nhưng
ngày nay ngồi đàn Rabap cịn có trống Ginang, Baranang, kèn Saranai - những
nhạc cụ chỉ được phép biểu diễn trong lễ Rija cũng được đem ra biểu diễn theo
kiểu văn nghệ múa hát của những chàng trai cô gái Chăm thời hiện đại.
Ngày xưa, từ dân thường đến quan chức người Chăm kể cả người Kinh đều
mặc trang phục truyền thống Chăm khi lên tháp dự lễ Katê. Đây là điều lệ bắt
buộc theo phong tục của người Chăm. Nhưng ngày nay tục này khơng cịn nữa,
đến 80% những người dự lễ, ngồi người Kinh cịn có các cơ gái Chăm đã lột bỏ
lớp áo dài truyền thống để mặc Âu phục lên tháp dự lễ Katê. Ngày nay khi nhìn
tồn cảnh ngày hội Katê khơng cịn mang đậm bản sắc dân tộc Chăm.
Ngày xưa trong lễ hội Katê lễ phải diễn ra trước hội. Trong lúc bà Bajau đang
xuất thần điệu múa thiên trong tháp để két thúc đại lễ thì bên ngồi mới được bắt
đầu mở Hội. Đó là nghi thức thiêng liêng bắt buộc của các lễ hội ở đền tháp. Thế
nhưng ngày nay do ảnh hưởng của lễ hội hiện đại, lễ hội Katê truyền thống của
người Chăm bị đảo lộn, phần Hội được tổ chức trước Lễ với những màn múa hát
trình diễn trước đền để khai mạc lễ hội và đón tiếp quan khách, sau mới tới phần
lễ.
Katê được diễn ra trên một không gian rộng lớn từ đền tháp – làng – gia đình.
Lễ hội được tổ chức theo tuần tự trước sau tạo thành dòng chảy của một lễ hội
Champa phong phú, đa dạng. Có nghĩa là chỉ khi Katê ở đền tháp kết thúc thì
Katê ở gia đình mới bắt đầu. Đây không phải phong tục mà đã thuộc về luật tục
(adat) của người Chăm, một quy ước của cộng đồng, dân tộc mà mỗi cá nhân,
mỗi làng phải tuân theo. Ngày nay luật tục, nghi thức lễ Katê này bị phá vỡ ở

16


một số làng, chẳng hạn như làng Hữu Đức, gia đình thường tổ chức ăn lễ Katê
trước ngày lễ Katê của đền tháp và Katê của làng. Ngày nay Katê gia đình đã
được rút ngắn trong thời gian một tuần.
Ngày xưa lễ Katê đơn điệu trầm lắng, nhưng ngày nay ồn ào, náo nhiệt. Ngày
Page |
xưa đất tháp là đất thiêng, đất thánh, xung quanh tĩnh lặng thường ngày không ai
dám lai vãng vì sợ thần bắt. Tất cả mọi điều cấm kỵ của người xưa đều có
nguyên do của nó. Khơng gian đền tháp ngày nay khơng cịn tĩnh lặng, khơng
cịn kiêng cử như xưa.
Lễ hội Katê là sản phẩm lâu đời của nền văn minh vùng Panduranga –
Champa đến nay ko còn nguyên gốc mà dần bị lai căng. Biến đổi là quy luật tất
yếu của thời đại, thế nhưng biến đổi như thế nào để phát triển đi lên, và vẫn bảo
tồn được những nét văn hóa truyền thống của đồng bào Chăm. Đó là hậu quả
của sự ảnh hưởng, tác động của văn hóa hiện đại và làn sóng du lịch trong lễ hội
Katê cũng như ở các di tích đền tháp Chăm. Các cơ quan quản lí văn hóa cần
thiết có biện pháp kịp thời và đúng đắn để bảo tồn sự trang nghiêm và bản sắc
văn hóa truyền thống của lễ hội Katê.
2.6. Ý nghĩa
Lễ hội Katê là hình thức diễn xướng dân gian đặc sắc nhất trong kho tàng
văn hóa Chăm. Lễ hội thực sự cuốn hút tất cả mọi thành viên trong cộng đồng,
không để một người nào bị bỏ quên kể cả là Chăm Ahier, Chăm Awal, người
Raglai, Kinh mà gắn kết họ lại trong một mơi trường văn hóa, tín ngưỡng
Champa đặc sắc. Đến dự lễ hội Katê chúng ta sẽ thấy sự gần gũi, gắn bó, đồn
kết và đây cũng là dịp giải trí sau một năm lao động miệt mài.
Lễ hội Katê chính là dịp cho người Chăm phơ bày sắc thái văn hóa của dân
tộc. Khơng những đem đến cho người dự hội những vẻ đẹp của tháp Champa cổ
kính, những sản vật của nghề trồng lúa và nghề đi biển, thông qua lễ vật dâng

cúng, mà cịn trình diễn trước cơng chúng một nền ca – múa nhạc nhân gian giàu
17


bản sắc riêng. Cùng với đền tháp người Chăm vẫn còn lưu giữ khá tốt các nghi
lễ, hội hè liên quan đến tín ngưỡng tơn giáo.
Mặc dù cộng đồng người Chăm chịu nhiều ảnh hưởng nền văn hoá Ấn Độ
và Mã Lai (bao gồm cả Bà La Môn và Hồi giáo). Song lễ hội Katê lại biểu hiện
Page |
một lối đi riêng, một thái độ tiếp thu văn hoá riêng, gắn với truyền thống văn
hóa bản địa. Những người chủ của lễ hội này, của nền văn hoá Chăm, dù trong
tâm thức người ta vẫn thờ cúng thần Siva nhưng cộng đồng người Chăm trên
lãnh thổ Việt Nam còn coi trọng, tôn thờ những vị anh hùng dân tộc, kết hợp hài
hoà giữa cái xưa và cái nay, cái quá khứ và cái hiện tại. Vì vậy mà các tháp
Chăm, nơi hành lễ Katê đều gắn liền tên của một ông vua có nhiều công với thần
dân, được mọi người phong thành Thần và tên tháp thờ mang tên ông, như tháp
Pơ Klong Garai, Pơ Rơmê, Pơ Nagar,...Đấy chính là một điểm mấu chốt để nền
văn hóa Chăm mãi mãi vững bền trước các biến cố lịch sử, biểu hiện sức sống
mãnh liệt của văn minh cội nguồn Champa hội nhập với văn hố Đơng Nam Á,
làm cho diện mạo của lễ hội Katê thêm phong phú đa dạng, trường tồn, góp
phần điểm tơ cho vườn hoa trăm sắc của đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Hằng năm, lễ hội Katê thu hút rất nhiều lượt khách từ xa xơi đến tham quan
để hịa mình vào sắc thái văn hóa đặc sắc của người Chăm. Cũng nhờ đó mà du
lịch tỉnh Ninh Thuận và các vùng phụ cận phát triển rất tốt, mang lại nguồn thu
lợi rất lớn, góp phần tăng trưởng kinh tế cho khu vực và đất nước.

3. Kết luận
Dân tộc Chăm dù khác màu da, tiếng nói, văn hóa và các phong tục tập quán
trong sinh hoạt, họ vẫn được công nhận là một trong 54 dân tộc anh em đang
sinh sống trên đất nước Việt Nam. Người Chăm có những giá trị văn hóa truyền

thống lâu đời đáng tự hào, thể hiện được sắc thái đặc sắc riêng biệt của dân tộc
mình. Đồng thời tạo nên nền văn hóa thống nhất trong đa dạng của cả cộng đồng
dân tộc. Cụ thể có thể kể đến: về mặt thời gian, không gian và thống nhất trong
18


các yếu tố văn hóa cơ bản (ngơn ngữ, tín ngưỡng, tơn giáo, kiến trúc, điêu
khắc…). Vì vậy dân tộc Chăm nói riêng và 54 dân tộc nói chung được Nhà nước
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp để phát huy những giá trị truyền thống vốn
có, sánh vai với các dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam.

Page |

Lễ hội Chăm là sản phẩm lâu đời của nền văn minh vùng Panduranga. Một
số lễ hội Chăm không còn nguyên gốc mà bị lai căng. Sự biến đổi là quy luật tất
yếu của mọi sự vật và như vậy, lễ hội phải biến đổi là quy luật tất yếu của thời
đại nhưng biến đổi như thế nào để phát triển đi lên chứ không thể biến đổi theo
kiểu suy thoái rồi đi xuống, và Lễ hội Katê đã làm được điều đó.
Lễ hội Katê là lễ hội đặc sắc của người Chăm ở Ninh Thuận, thông qua lễ
hội này, chúng ta có thể phần nào hình dung được bản sắc văn hóa của người
Chăm. Đây là cách để người Chăm giữ gìn và phát huy giá trị truyền thống của
họ, góp phần làm đa dạng thêm bản sắc văn hóa của đất nước ta. Lễ hội Katê
chính là khơng gian văn hóa khai thác du lịch rất hiệu quả, góp phần khơng nhỏ
cho việc phát triển kinh tế và văn hóa.

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lễ hội Katê - nét đẹp văn hóa đặc sắc của người Chăm Ninh Thuận, Báo Du Lịch,

< />
Page |

Cham-Ninh-Thuan-03-24223.html>, truy cập ngày 14/03/2021.
2. Bùi Khánh Thế (chủ biên), Từ điển Chăm – Việt, NXB KHXH, 1995, tr.219.
3. Sakaya, Lễ hội người Chăm, NXB Văn Hóa Dân Tộc, 2003, tr.135.
4. Sakaya, Văn hóa Chăm: Nghiên cứu và phê bình, Tập 1, NXB Phụ nữ, 2010.
5. Thơng tin, nghị luận và tìm hiểu về Chăm Pa, <Champa.info>, truy cập ngày
20/3/2021.
6. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở Văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục, 1997.
7. Lê Đình Phụng, Phật Giáo Chăm Pa qua tư liệu khảo cổ học, Tạp chí Di sản Văn hóa
số 2, q I năm 2003, tr.31.
8. Vũ Khánh (chủ biên), Người Chăm (The Cham), NXB Thông Tấn, 2009, tr.12.

20


DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM
Page |

Họ và Tên
Võ Thị Thúy Nga

MSSV

Nhiệm vụ

Mức độ hoàn thành

44.01.607.022


Nguyễn Thị Kim Quyên 44.01.607.030
Mai Kim Ngân

44.01.607.097

Huỳnh Thị Ánh Như

44.01.607.108

Nguyễn Đoàn Hải Đăng 45.01.607.021
Lê Thị Thu Uyên

45.01.607.140

Nhận xét của giảng viên:
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………

21

Kí tên



×