BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
ĐINH THỊ TRANG
TÌM HIỂU TỤC TANG MA CỦA NGƯỜI MƯỜNG
Ở HUYỆN TÂN LẠC, TỈNH HÒA BÌNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
SƠN LA, NĂM 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
ĐINH THỊ TRANG
TÌM HIỂU TỤC TANG MA CỦA NGƯỜI MƯỜNG
Ở HUYỆN TÂN LẠC, TỈNH HÒA BÌNH
Chuyên ngành: XH2b
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Người hướng dẫn: Th.S. Phạm Thu Hà
SƠN LA, NĂM 2013
LỜI CẢM ƠN
Bằng tấm lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc em xin chân thành cảm ơn cô
giáo, Th.S Phạm Thu Hà - người đã hướng dẫn, động viên và tận tình giúp đỡ
em trong quá trình thực hiện khóa luận này.
Xin gửi lời cảm ơn tới các phòng ban của nhà trường, Ban chủ nhiệm
khoa Lý luận Chính trị, thư viện trường Đại học Tây Bắc. Cảm ơn Ban tuyên
giáo huyện Tân Lạc, thư viện huyện ủy Tân Lạc cùng các ông bà, cô chú người
Mường ở huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình đã cung cấp cho em những tài liệu quan
trọng liên quan đến khóa luận.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo chủ nhiệm, các bạn sinh viên lớp
K50 – Đại học Giáo dục Chính trị và gia đình đã tạo điều kiện, động viên em
trong quá trình học tập và nghiên cứu để em hoàn thành khóa luận.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sơn La, tháng 05 năm 2013
Tác giả
Đinh Thị Trang
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 3
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4
6. Phương pháp nghiên cứu 4
7. Cấu trúc của đề tài 5
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI 6
1.1. Cơ sở lí luận 6
1.1.1. Phương pháp luận Mácxit 6
1.1.2. Quan niệm chung về tang ma 7
1.1.3. Quan niệm về tang ma của người Mường ở Hòa Bình 8
1.2. Cơ sở thực tiễn 9
1.2.1. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu 9
1.2.2. Vài nét về dân tộc Mường 10
CHƯƠNG 2: NHỮNG ĐẶC TRƯNG TRUYỀN THỐNG TRONG TỤC
TANG MA CỦA NGƯỜI MƯỜNG 18
2.1. Quan niệm về sống và chết của người Mường 18
2.1.1. Quan niệm về sống và chết của của người Mường 18
2.1.2. Quan niệm về sống và chết của của người Mường ở Tân Lạc 20
2.2. Tang phục và các điều kiêng kị 22
2.2.1. Tang phục 22
2.2.2. Các điều kiêng kị của gia đình chịu tang 24
2.3. Các bước tiến hành lễ tang 24
2.3.1. Báo tin 24
2.3.2. Nghi thức cho xác vào quan tài 25
2.3.3. Thăm hỏi chia buồn và đồ cúng tang 27
2.3.4. Phát tang 28
2.3.5. Đưa tang 30
2.3.6. Hạ huyệt 32
2.4. Đặc điểm mâm cơm dành cho các đối tượng khác nhau có liên quan đến
người chết 33
2.4.1. Mâm cơm dành cho người chết 33
2.4.2. Mâm cơm dành cho con cái, dâu rể, khách và họ thông gia 34
2.4.3. Mâm cơm dành cho thầy Mo và phường bát âm 34
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ NÉT THAY ĐỔI TRONG TỤC TANG MA HIỆN
NAY CỦA NGƯỜI MƯỜNG Ở HUYỆN TÂN LẠC, TỈNH HÒA BÌNH 35
3.1. Một số nét thay đổi trong tục tang ma hiện nay của người Mường ở huyện
Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình 35
3.1.1. Báo tin có người chết 35
3.1.2. Thăm hỏi chia buồn và đồ cúng tang 35
3.1.3. Cỗ quan tài 35
3.1.4. Nghi lễ trong lễ tang 36
3.1.5. Đặc điểm mâm cơm dành cho các đối tượng khác nhau 43
3.2. Một số yếu tố tác động dẫn đến những thay đổi trong tục tang ma hiện nay
của người Mường ở huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình 43
3.2.1. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước 43
3.2.2. Quy định riêng của địa phương 45
3.2.3. Trình độ dân trí 47
KẾT LUẬN 49
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Việt Nam là một quốc gia có hơn năm mươi dân tộc anh em cùng chung
sống. Mỗi dân tộc có một nền văn hóa riêng biệt độc đáo tạo thành một bức
tranh văn hóa sinh động. Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta gắn với xu
thế hội nhập văn hóa các dân tộc và đã góp phần tạo nên văn hóa Việt Nam “đa
dạng trong thống nhất”. Trong số những dân tộc góp phần tạo nên văn hóa Việt
Nam “đa dạng trong thống nhất”, dân tộc Mường là một trong những dân tộc có
đóng góp to lớn tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam.
Hiện nay, người Mường sống trên lãnh thổ Việt Nam chiếm một số lượng
khá đông, nhưng chủ yếu tập trung ở các tỉnh Hòa Bình, Thanh Hóa, Phú Thọ. Ở
Hòa Bình, người Mường cư trú với số lượng đông đảo, họ sống tập trung ở các
huyện miền núi như: Lạc Thủy, Lạc Sơn, Tân Lạc, Kim Bôi… Tân Lạc là một
vùng đất cổ, trải qua những thăng trầm của lịch sử đến hôm nay vẫn còn bảo lưu
nhiều yếu tố văn hóa truyền thống.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước đã tác động và làm thay
đổi mọi mặt đời sống kinh tế, xã hội. Sự giao lưu văn hóa ngày càng được mở
rộng giữa quốc gia này với quốc gia khác, tộc người này với tộc người khác.
Tuy nhiên, những hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của các dân tộc thiểu
số nói chung và của người Mường nói riêng vẫn còn hạn chế. Trong thời đại
công nghiệp hóa và toàn cầu hóa, văn hóa của người Mường ở Tân Lạc đang có
những thay đổi nhanh chóng. Do vậy, việc tìm hiểu văn hóa truyền thống và
những biến đổi là việc làm rất cần thiết có tác dụng giáo dục cho thế hệ trẻ thấy
được bản sắc văn hóa quê hương.
Mặt khác, là một người yêu thích nghiên cứu khoa học đồng thời là người
con của dân tộc Mường, được sinh ra và trưởng thành trên mảnh đất quê hương
Tân Lạc giàu truyền thống, bản thân tác giả cảm nhận được sự hiểu biết của thế hệ
trẻ về những nét văn hóa truyền thống của dân tộc còn rất mơ hồ. Do đó, tác giả
chọn nghiên cứu vấn đề “Tìm hiểu tục tang ma của người Mường ở huyện Tân
Lạc, tỉnh Hòa Bình” làm khóa luận tốt nghiệp. Với mong muốn làm sáng tỏ thêm
những đặc trưng truyền thống và một số nét thay đổi hiện nay trong phong tục tang
ma của người Mường và góp phần nhỏ bé vào việc bảo tồn và phát huy các giá trị
văn hóa truyền thống tốt đẹp của đồng bào Mường ở huyện Tân Lạc.
2
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu các phong tục, tập quán của
các tộc người, đặc biệt là các dân tộc thiểu số của dân tộc Việt Nam được đẩy
mạnh và thu được những thành tựu đáng kể, góp phần không nhỏ làm phong phú
thêm kho tàng văn hóa dân tộc Việt Nam.
Cuốn “Bức tranh văn hóa các dân tộc Việt Nam” của tác giả Nguyễn Văn
Huy đã đề cập một cách khái quát về năm mươi tư dân tộc Việt Nam, trong đó
có dân tộc Mường. Ở phần viết về người Mường, tác giả đã giới thiệu đôi nét về
người Mường, tuy nhiên chưa đi sâu cụ thể [9].
Cuốn sách “Truyền thống văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam” của tác
giả Vũ Ngọc Khánh, trong đó tác giả đã đề cập đến truyền thống văn hóa của
các dân tộc thiểu số Việt Nam ở khía cạnh địa danh, con người huyền thoại dưới
dạng các câu chuyện. Trong tác phẩm, tác giả đã đề cập đến người Mường ở lĩnh
vực nguồn gốc tộc người, công cuộc đấu tranh bảo vệ bản mường của nhân dân
thông qua bài mo “Đẻ đất đẻ nước”, qua câu chuyện “Dịt dàng” và đề cập đến
một số loại nhạc cụ của dân tộc Mường như: cồng, chiêng… Tuy nhiên, những
nghiên cứu còn rất sơ lược, khái quát chưa phải là tác phẩm nghiên cứu có hệ
thống về văn hóa Mường [11].
Cuốn “Người Mường ( địa lý nhân văn và xã hội học)” của nhà dân tộc
học người Pháp Jeanne Cuisinier là công trình nghiên cứu địa lý - nhân chủng
học về người Mường, đồng thời đề cập đến một số tục lệ: làm nhà, ăn uống,
cưới xin, tang ma…song mới chỉ dừng ở mức độ khái quát, sơ lược [10].
Tiếp đó, cuốn “Mo Mường” của Đặng Văn Lung, Bùi Thiện, Bùi Văn
Nợi đã trình bày một số bài mo của dân tộc Mường [12].
Tác giả Bùi Huy Vọng đã khái lược về những công việc, sự kiện diễn ra
trong tang lễ cổ truyền của người Mường thông qua tác phẩm “Tang lễ cổ
truyền người Mường”. Tuy nhiên tác phẩm chỉ là sự khái quát chung tang lễ cổ
truyền của người Mường, chưa tìm hiểu tang lễ cụ thể ở một địa phương [22].
Trong thời gian gần đây, những công trình của giới sử học và dân tộc học
Việt Nam khá đồ sộ, đã cho ra đời một khối lượng lớn về việc tìm hiểu phong
tục tập quán, các lĩnh vực đời sống văn hóa dân tộc Mường nói chung, trong đó
có công trình “ Người Mường ở Tân Lạc tỉnh Hòa Bình” do tiến sĩ dân tộc học
Nguyễn Thị Thanh Nga chủ biên đã phác họa khá phong phú, đa dạng về người
3
Mường ở huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình. Nhưng việc nghiên cứu tục tang ma
của người Mường Tân Lạc một cách toàn diện vẫn chưa thỏa đáng [13].
Ngoài ra, còn một số công trình nghiên cứu của các tác giả, nhà báo, các
cán bộ ban ngành quan tâm như: cơ quan Ban Tuyên giáo của huyện, tỉnh, Bộ
văn hóa…Tuy nhiên, tất cả các công trình nghiên cứu trên mới chỉ dừng lại ở
việc mô tả chung chung về tục tang ma của người Mường, mà chưa đi sâu phân
tích những đặc trưng truyền thống và một số nét thay đổi trong tục tang ma người
Mường nói chung và của người Mường ở huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình nói riêng.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
♦ Ý nghĩa khoa học
Khóa luận giúp chúng ta hiểu sâu hơn về tộc người Mường, bên cạnh đó
còn thấy được quá trình vận động, biến đổi của một số giá trị văn hóa dân tộc
Mường ở huyện Tân Lạc nói riêng và dân tộc Mường trên lãnh thổ Việt Nam nói
chung cụ thể ở đây là tục tang ma.
♦ Ý nghĩa thực tiễn
Khóa luận có thể cung cấp những thông tin có giá trị khoa học làm cơ sở
cho các cơ quan chức năng xây dựng và hoàn thiện các chính sách văn hóa nhằm
bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của tộc người Mường nói
riêng và các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam nói chung.
Các cá nhân, tập thể quan tâm đến vấn đề văn hóa tộc người Mường nói
chung và tục tang ma nói riêng có thể dùng khóa luận làm tư liệu tham khảo.
Khóa luận sẽ là tư liệu bổ ích đối với sinh viên chuyên ngành chính trị, văn
hóa khi tìm hiểu về văn hóa các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
♦ Mục đích nghiên cứu
Từ những cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn mà đề tài tiếp cận, mục đích
nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu những đặc trưng truyền thống và làm rõ một số
nét thay đổi trong phong tục tang ma hiện nay của người Mường ở huyện Tân
Lạc, tỉnh Hòa Bình.
4
♦ Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn để nghiên cứu phong tục tang ma
của người Mường ở huyện Tân Lạc nói riêng và của người Mường nói chung.
- Phân tích những đặc trưng truyền thống trong tục tang ma của người
Mường ở huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình.
- Làm rõ một số nét thay đổi và một số yếu tố tác động dẫn đến những
thay đổi trong phong tục tang ma hiện nay của người Mường ở huyện Tân Lạc,
tỉnh Hòa Bình. Từ đó, đưa ra một số khuyến nghị nhằm bảo tồn và phát huy các
giá trị văn hóa dân tộc Mường ở huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
♦ Đối tượng nghiên cứu
Tục tang ma của người Mường ở huyện Tân lạc, tỉnh Hòa bình.
♦ Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: xóm Trăng, xã Do Nhân và một số xã khác thuộc huyện
Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình.
- Thời gian: từ tháng 9 năm 2012 đến tháng 5 năm 2013.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích và nhiệm vụ mà khóa luận đã đề ra thì khóa
luận đã dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác - Lênin để tìm hiểu sự vận động, phát triển của văn hóa Mường, cụ
thể là tục tang ma. Từ đó tác giả sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể:
Phương pháp phân tích tài liệu là phương pháp thu thập thông tin thông
qua các tài liệu có sẵn như: sách, báo cáo của huyện theo từng giai đoạn. Thông
qua việc tổng hợp và phân tích những tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu
đã giúp cho tác giả có được những số liệu cần thiết để viết đề tài này.
Phương pháp phỏng vấn (phỏng vấn thầy Mo về một số đoạn mo được
sử dụng trong lễ tang ngày nay của người Mường ở huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa
Bình), và phương pháp thống kê (thống kê các số liệu thứ cấp thu thập được qua
các báo cáo địa phương)…
5
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận khóa luận gồm 3 chương.
Chương 1: Cơ sở khoa học của đề tài.
Chương 2: Những đặc trưng truyền thống trong tục tang ma của người Mường.
Chương 3: Một số nét thay đổi trong tục tang ma hiện nay của người
Mường ở huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình.
6
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.1 . Cơ sở lí luận
1.1.1. Phương pháp luận Mácxit
Khóa luận sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác – Lênin làm cơ sở lí luận cho việc phân tích những đặc
trưng truyền thống trong tục tang ma của người Mường, từ đó thấy được những
nét thay đổi và một số yếu tố tác động dẫn đến những thay đổi trong phong tục
tang ma hiện nay của người Mường ở huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình. Các
nguyên tắc phương pháp luận biện chứng Mác – Lênin được khái quát như sau:
Thứ nhất, nguyên tắc phát triển: bản thân các sự vật, hiện tượng vận động,
biến đổi không ngừng. Khi nghiên cứu xem xét bất cứ sự vật hiện, tượng nào
cũng phải đặt chúng trong sự phát triển, cần dự đoán xu hướng diễn ra trong
tương lai.
Thứ hai, nguyên tắc mối liên hệ phổ biến cho rằng: sự vật trong một chỉnh
thể toàn vẹn có quan hệ biện chứng với nhau. Tang ma của người Mường là một
trong những nghi lễ tập trung của nhiều tập tục cổ truyền, có mối quan hệ với
các giá trị văn hóa khác của người Mường (tục thờ cúng tổ tiên, động vật cây cỏ,
sự tích nhà sàn dân tộc Mường…). Phong tục tang ma trong quá trình vận động
không riêng rẽ hoàn toàn, nó luôn tác động với các yếu tố đời sống kinh tế,
chính trị, văn hóa, giáo dục của đồng bào dân tộc Mường.
Thứ ba, nguyên tắc tính khách quan: nguyên tắc này đòi hỏi phản ánh bản
thân sự vật, hiện tượng phải như chúng tồn tại thực tế, không phán đoán chủ
quan, duy ý chí.
Tác giả đã vận dụng các nguyên tắc trên để làm rõ những đặc trưng truyền
thống trong tục tang ma của người Mường, từ đó tìm hiểu những nét thay đổi
trong tục tang ma ấy. Sự thay đổi đó có nhiều yếu tố tác động: chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước, quy định riêng của địa phương, sự nâng cao trình
độ dân trí của nhân dân, sự phân bố dân cư, sự phát triển của công nghệ thông
tin Đồng thời vận dụng phương pháp luận Mácxit để có thể đưa ra một số
khuyến nghị nhằm bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong xu thế hội
nhập kinh tế quốc tế.
7
1.1.2. Quan niệm chung về tang ma
Từ xa xưa người Việt Nam sống với tâm thức: con người ta sinh ra, lớn
lên, dựng vợ gả chồng, sinh con đẻ cái, tạo lập công danh sự nghiệp… cuối cùng
cũng theo quy luật sinh lão bệnh tử. Do xem và chấp nhận cái chết là quy luật
nên người Việt Nam đón nhận cái chết trong tinh thần chủ động thư thản như
sắm trước quan tài (gọi là Thọ), xây dựng sinh phần (gọi là Kim tỉnh) cho chính
bản thân khi còn sống. Nhân sinh quan người Việt xưa nay cũng cho là "sống ở,
thác về", xem cuộc sống trên mặt đất chỉ là cõi trọ tạm bợ, và chết không phải là
hết, mà về cõi vĩnh cửu. Do vậy, "người chết cần được mồ yên mả đẹp", việc
"động mồ động mả" rất kiêng cử ví có thể ảnh hưởng đến sự nghiệp của con
cháu nhiều đời. Người Việt còn sống theo đạo lý: "nghĩa tử là nghĩa tận", tức là
bao nhiêu hờn oán đều xóa bỏ khi đối tượng đã chết, vì chết là dứt nợ trần gian.
Không ai truy cứu người chết bao giờ. Trong dân gian tới nay ngay vẫn còn một
bộ phận lớn người tin vào linh hồn, cho rằng người chết rồi thì linh hồn sẽ sống
ở cõi âm, nơi đó linh hồn cũng sinh hoạt như ở dương thế [23].
Sống làm vợ khắp người ta
Khéo thay thác xuống làm ma không chồng
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Dầu quan niệm cái chết thế nào thì tang lễ là một hình thức bày tỏ lòng
nhớ ơn và thương xót của người sống đối với người chết. Người Việt quan niệm
lễ tang là một phần của đạo hiếu mà con cháu dành cho ông bà cha mẹ khi quá
cố. Đám tang là một nghi lễ lớn, nghi lễ cuối cùng trong đời một con người.
Nghi lễ đám tang Việt được thiết kế theo nghi thức tang lễ có gốc từ sách “Văn
công gia lễ” của Chu Hy đời nhà Tống bên Tàu, giản lược theo “Thọ mai gia lễ”
của Hồ Sĩ Dương đời Lê. Nghi lễ đám tang ấy thể hiện rất rõ quan điểm con
người là do khí âm, khí dương hòa hợp lại, con người có hồn có vía nên dù đã
nhắm mắt xuôi tay vẫn có ảnh hưởng tốt hoặc xấu đối với những người sống.
Đám tang là một nghi lễ với những thủ tục quy định nghiêm ngặt, nào “Thiên
chính tẩm” (dời ra giữa nhà), nào lắng nghe “Di ngôn” (lời trăng trối), nào “Gia
tân y” (thay quần áo), nào “Hạ tịch” (đặt xuống chiếu trải dưới đất), nào “Trị
quan” (chuẩn bị quan tài), nào “Nhập quan” (đặt vào quan tài)…[23].
Tóm lại, đám tang hay đám ma, lễ tang, tang lễ, tang ma là một trong
những phong tục của Việt Nam. Bao gồm nhiều quy trình của những người đang
sống thực hiện đối với người vừa chết.
8
1.1.3. Quan niệm về tang ma của người Mường ở Hòa Bình
Đối với người Mường ở Hòa Bình, “tang ma là một trong những nghi lễ
tôn giáo “đậm đặc” là hình thái khá tập trung của nhiều tập tục cổ truyền. Như mọi
nghi lễ lớn của bất cứ dân tộc nào, tang lễ Mường thể hiện trên lễ tiết, những quan
niệm về vũ trụ và về nhân sinh quan của dân tộc. Các quan niệm ấy đã bắt rễ từ lâu
đời, ăn sâu vào tâm khảm người dân, là chất liệu góp phần xây dựng nên cái mà
nhiều nhà dân tộc học gọi là “mối cộng cảm” của một dân tộc. Bên cạnh những
quan niệm lỗi thời những tập tục lạc hậu, tang lễ Mường còn bao gồm nhiều giá trị
của di sản văn hóa dân tộc” [13; 107].
Theo quan niệm thông thường, chết là kết thúc một đời người, là sự vĩnh
viễn ra đi không bao giờ gặp lại, là đem lại sự mất thăng bằng tới một nhóm gia
đình do sự mất đi của một thành viên. Khi còn sống với nhau, đạo lý người Mường
đã chỉ ra rằng nên đối xử tốt đẹp với nhau thì khi có người chết đi đạo lý ấy cũng
khuyên người sống phải chăm lo tận tình “nghĩa tử là nghĩa tận”. Đó là trách
nhiệm, là bổn phận, đồng thời cũng thể hiện các mối quan hệ giữa con người với
con người thông qua nghi lễ tang ma. Tuy nhiên các nghi thức trong đám tang cũng
thấy có sự khác biệt giữa các địa phương.
Người Mường ở Hòa Bình, nghi lễ tang ma của họ có đặc điểm chung là
những đêm mo. Một lễ tang có thể kéo dài từ một đêm, hai đêm, hoặc mười
đêm, mười hai đêm hoặc lâu hơn nữa. Điều này phụ thuộc vào tuổi tác và địa vị
xã hội làng, bản của người chết.
Các nghi thức tang ma được quy định rất nghiêm ngặt: từ trang phục của
người chết, con cháu, anh em, họ hàng… cho đến việc ngày, giờ nhập quan,
cách bày trí các đồ cúng lễ, áo quan; các nghi lễ, nghi thức: đưa ma, quạt ma, lễ
nhạc đặc biệt là những đêm mo.
Trước năm 1954, người xứ Mường Hòa Bình có tục làm ma khô, tục làm
ma khô gắn liền với mối quan hệ xã hội: với người giàu, việc lưu trữ xác chết
trong nhà là cơ hội để bày tỏ sự giàu có, bởi phong tục đòi hỏi những nghi lễ tốn
kém trong suốt thời gian lưu quan tài ở trong nhà. Ngược lại với người nghèo đó
là dấu hiệu tủi nhục, vì việc chôn cất người chết chỉ được thực hiện sau khi đã
làm đủ các nghi lễ rất tốn kém theo hủ tục cổ truyền. “Giờ đã đến lúc đưa người
thân vừa mất về thế giới bên kia, một thế giới phù hợp với thân phận người ấy:
một tinh linh đã hoàn toàn tách khỏi thân xác người sống. Giữa thế giới đó và
9
thế giới chúng ta là cả một khoảng cách chỉ có thể vượt qua bằng uy lực của bố
Mo” (Từ Tri - “Vũ trụ luận Mường”).
Theo người Mường ở Hòa Bình nghi lễ tang ma liên quan trực tiếp tới tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Nghi lễ tang ma không chỉ cầu xin sự che chở, bảo vệ
của người chết cho người sống mà còn thể hiện mối quan tâm, trách nhiệm sâu
sắc của người sống đối với người chết. Không phải ngẫu nhiên người Mường
gọi đám ma là đám hiếu và việc hoàn thành những nghi thức tang ma cho cha
mẹ lúc về già là bổn phận lớn lao nhất của một đời người. Dưới góc độ tín
ngưỡng tổ tiên, các nghi lễ tang ma chính là sự định vị cho linh hồn người chết
một vị trí mới trong các thứ bậc của tổ tiên có mặt trên bàn thờ gia đình.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu
Tân Lạc là một huyện miền núi nằm ở phía tây tỉnh Hòa Bình, ở vào 21
0
27’ -
20
0
35’ vĩ độ Bắc và 105
0
6’ - 105
0
23’ kinh độ Đông, phía đông giáp với huyện Cao
Phong, phía tây giáp với huyện Mai Châu, phía bắc giáp với huyện Đà Bắc, phía
nam và tây nam giáp với huyện Lạc Sơn và tỉnh Thanh Hóa. Tổng diện tích tự nhiên
của huyện là 523Km
2
, gồm 1 thị trấn và 23 xã. Huyện Tân Lạc gồm 4 dân tộc anh
em cùng sinh sống: Mường (chủ yếu), Kinh, Thái, Dao [2; 11].
Theo số liệu điều tra dân số ngày 01/10/1974 toàn huyện có 38.661 người,
trong đó người Mường có 32.873 người chiếm 85,03%, người Kinh có 5.009
người chiếm 12,96%, còn lại là các dân tôc khác. Năm 1989 huyện có 61.355
người, trong đó người Mường có 51.724 người chiếm 83,3%, người Kinh có
9.424 người chiếm 15,36%, các dân tộc khác có 207 người chiếm 0,34%. Năm
1999, huyện Tân Lạc có 73.652 người, trong đó người Mường có 61.522 người
chiếm 83,53%, người Kinh có 11.779 người chiếm 16,0%, các dân tộc khác 355
người chiếm 0,47%. Theo số liệu thống kê điều tra dân số ngày 01/04/2005, toàn
huyện có 78.110 người trong đó người Mường có 65.245 người chiếm 83,53%,
người Kinh có 12.513 người chiếm 16,02%, các dân tộc khác có 352 người
chiếm 0,45% [2; 12]. Như vậy, ở Tân Lạc đại đa số là người dân tộc Mường.
Tân Lạc là huyện có vị trí địa lý đặc biệt thuận lợi: có quốc lộ 6 nối liền
thủ đô Hà Nội và Tây Bắc, đường 12B từ Mường Khến chạy theo tuyến đi Nho
Quan (Ninh Bình), nối với đường Hồ Chí Minh. Đó là những con đường huyết
mạch nối thủ đô Hà Nội, các tỉnh Đồng bằng Bắc bộ, khu IV (cũ) với vùng Tây
Bắc [2; 16]. Địa hình Tân Lạc được chia thành ba vùng rõ rệt: vùng cao (bao
10
gồm các xã nằm trên dải Trường Sơn chạy dọc theo phần phía tây của huyện),
vùng trung du miền núi (gồm các xã nằm dọc phía đông Trường Sơn), vùng
đồng bằng (bao gồm thị trấn và các xã nằm dọc theo quốc lộ 6 và đường 12B).
Là một huyện miền núi nên Tân Lạc có địa hình phức tạp: dãy Trường
Sơn chạy theo chiều dài của huyện, đất đai bị chia cắt bởi hệ thống suối, đồi núi
và có hướng thấp dần về hướng Đông – Nam. Độ cao trung bình của huyện so
với mặt biển là 318m [7; 13].
Tân Lạc thuộc khu vực chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, có
hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến
tháng 4. Nhiệt độ trung bình năm là 23,3
0
C, lượng mưa khoảng 1900mm có nơi
tới 2200mm, độ ẩm trung bình là 85% [7; 15].
Đặc điểm nổi bật trong phân bố dân cư của người Mường Tân Lạc là cư
trú tập trung. Bên cạnh đó, hình thức cư trú xen kẽ với dân tộc Việt (Kinh) cũng
đã xuất hiện. Song cư trú xen kẽ diễn ra ở nhiều mức độ khác nhau, đó là: cư trú
xen kẽ thành từng làng riêng biệt (làng người Việt, làng người Mường - kiểu cư
trú này chủ yếu là ở những xã gần huyện lỵ); hoặc cư trú xen kẽ ngay trong một
làng (tức là trong một làng vừa có người Mường vừa có người Việt cư trú).
Song có một điều dễ nhận thấy là ở các làng cư trú đan xen, các dân tộc thường
tạo lập thành các xóm chòm riêng biệt.
Với địa hình, khí hậu, dân số và kết cấu dân cư như vậy đã tạo nên sự
phong phú, đa dạng của tài nguyên thiên nhiên, môi trường sinh thái và văn hóa
nơi đây và ảnh hưởng lớn đến đời sống cư dân Mường Tân Lạc.
1.2.2. Vài nét về dân tộc Mường
♦ Nguồn gốc dân tộc Mường
Người Mường và người Kinh đều là những nhóm cư dân bản địa thuộc
các tộc Lạc Việt. Theo tục truyền thì người Việt Nam là nòi giống Tiên Rồng,
vua đầu tiên họ Hồng Bàng nước Xích Quỷ là Lộc Tục, tức Kinh Dương Vương,
một hôm đi ngoạn cảnh ở hồ Động Đình gặp một người thiếu nữ nhan sắc tuyệt
vời tự xưng là Long Nữ, con gái của Động Đình Quân. Lộc Tục kết duyên cùng
nàng ấy sinh ra được một người con trai đặt tên Sùng Lám, nối ngôi cha làm vua
tự xưng là Lạc Long Quân [1; 22].
11
Lạc Long Quân lấy Âu Cơ là con gái Đế Lai, vua một nước láng giềng đẻ
ra một lần trăm cái trứng, sau nở thành trăm người con trai. Một hôm, Lạc Long
Quân nói với Âu Cơ rằng: “Tôi là dòng dõi Long Quân mà mình là dòng dõi
thần tiên, ăn ở lâu với nhau không thể được. Nay trăm đứa con thì mình đem 50
đứa lên núi, còn 50 đứa để tôi đem xuống Nam Hải”. Sau Lạc Long Quân cho
người con đầu làm vua. Ở nước Văn Lang, người ấy là Thủy Tổ của nòi giống
Việt Nam ta [1; 22].
Chuyện ấy tuy là hoang đường, song tất vẫn có ý nghĩa. Theo Đào Duy
Anh Trong cuốn Việt Nam văn hóa sử cương, ông cho rằng: “…Có lẽ nó chỉ có
sự phân biệt của nước Xích Quỷ thành những nước gọi là Bách Việt, nhưng đó
chỉ là một điều phỏng đoán. Nay ta hãy căn cứ vào sự nghiên cứu của các nhà sử
học, nhất là các vị giáo sư ở trường Viễn Đông bác cổ, mà xem gốc tích của dân
tộc ta thế nào. Có người cho rằng tổ tiên ta phát tích từ Tây Tạng, sau theo lưu
vực của sông Nhị mà di cư xuống miền trung châu Bắc Việt. Nhưng theo ông
Aurousseau dẫn chứng cổ điển rất kỹ càng thì tổ tiên ta lại là người nước Việt ở
miền họ lưu sông Dương Tử, sau bị nước Sở (thời xuân thu) đánh đuổi phải
chạy xuống miền nam ở miền Quảng Đông, Quảng Tây, rồi lần lượt đến Bắc
Việt và phía bắc Trung Việt. Theo nhiều nhà nhân chủng học hiện thời thì ở đời
thượng cổ, giống người Anhđônêgiêng bị giống Ariăng đuổi ở Ấn Độ mà tràn
sang bán đảo Ấn Độ China, làm tiêu diệt giống người thổ trước đầu tiên ở đấy là
giống Mê - La nêdiêng, rồi một phần trong đám người di dân ấy đi thẳng mãi
sang Nam Dương quần đảo, còn một phần ở lại Ấn Độ China, ở phía nam thành
người Chiêm Thành vào Cao man. Sau đồng hóa theo văn hóa Ấn độ, ở phía bắc
thì hỗn hợp với giống Mông Cổ ở Trung Hoa xuống mà thành người Việt Nam.
Giống người Việt Nam buổi đầu ở địa vực xứ Bắc Việt ngày nay, sau vì
địa thế và hoàn cảnh sinh hoạt khác nhau mà chia ra hai nhánh: nhánh ở miền
trung châu trù phú, dễ hấp thụ ảnh hưởng của người loài, thì dần dần hóa theo
văn hóa Trung Quốc mà tiến thẳng vào phương nam, tức là người Việt Nam
ngày nay; còn nhánh ở miền đồi núi thì còn duy trì được tính chất văn hóa xưa
và vẫn còn tổ chức theo chế độ phong kiến, tuy có chịu ảnh hưởng ít nhiều của
người Thái là giống lân bang, đó là người Mường hiện ở miền thượng du Nghệ
An, Thanh Hóa, Hòa Bình” [1; 22 - 23]. “Các tác giả Bùi Văn Kín, Mai Văn Trí,
Nguyễn Phụng trong cuốn Góp phần tìm hiểu tỉnh Hòa Bình đã trình bày: …
Trên cơ sở các công trình nghiên cứu về ngôn ngữ học, về dân tộc học, về lịch
sử, về khảo cổ học, chúng ta có thể nhận định rằng: dân tộc Việt và dân tộc
Mường trước đây mấy ngàn năm có chung một tổ tiên là người Lạc Việt, chủ
12
nhân của nền văn hóa Đông Sơn rực rỡ của Việt Nam. Nguyên nhân làm cho
người Lạc Việt phân hóa thành hai dân tộc là do chế độ áp bức của thời Bắc
thuộc. Người Việt ở vùng đồng bằng trong khi bắt buộc phải sống chung với
bọn phong kiến ngoại tộc đã có điều kiện tiếp xúc với văn hóa các nước ngoài
(như văn hóa Trung Quốc, văn hóa Ấn Độ, văn hóa Chiêm Thành), hoàn cảnh
đó làm cho người Việt ở vùng đồng bằng và người Việt ở vùng núi dần dần phát
sinh những yếu tố khác nhau về đời sống tinh thần và đời sống vật chất. Tình
hình này đã kéo dài hơn một ngàn năm và cuối cùng làm cho người Việt phân
hóa thành hai dân tộc: dân tộc Việt (Kinh) chịu ảnh hưởng một phần của văn hóa
nước ngoài; dân tộc Mường do cư trú lâu đời ở miền rừng núi vẫn bảo lưu được
nét đặc biệt của văn hóa Lạc Việt” [18; 50].
Như vậy, người Mường có cùng nguồn gốc với người Việt, tổ tiên của
người Việt - Mường là người Lạc Việt, một cộng đồng nguyên thủy có mặt ở
vùng chân núi phía Tây Bắc Việt Nam từ rất sớm.
♦ Tên tự gọi: Mol (hoặc Mon, Moan, mual); các nhóm địa phương: Ao tá
(Âu tá), Mọi Bi.
♦ Ngôn ngữ: tiếng Mường thộc nhóm ngôn ngữ Việt - Mường (ngữ hệ
Nam Á), rất gần với tiếng Việt.
♦ Trang phục
Trang phục nam, nữ dân tộc Mường
Trang phục nam: nam mặc áo xẻ ngực, cổ tròn, cúc sừng vai, hai túi dưới
hoặc thêm túi trên ngực trái. Đây là loại áo cánh ngắn phủ kín mông. Quần lá tọa
13
ống dùng khăn thắt giữa bụng còn gọi là Khăn quần. Xưa có tục để tóc dài búi
tóc, trên đầu bịt khăn, khăn dài gấp 3 vòng đầu quấn dưới búi tóc. Cũng có khi
họ dùng khăn ngắn hơn, quấn vòng từ sau gáy sang phía trước giao nhau ở trán,
hai đầu khăn dựng nghiêng giống như hình đôi sừng trông khá ngộ nghĩnh.
Trong dịp lễ hội dùng áo lụa tím hoặc tơ vàng, khăn màu tím than, ngoài khoác
đôi áo chùng đen dài tới gối, cài cúc nách và sườn phải.
Trang phục nữ: bộ y phục nữ đa dạng hơn nam giới và còn giữ được nét
độc đáo. Khăn đội đầu (mụ) là một mảnh vải trắng hình chữ nhật không thêu
thùa. Váy (Wẳl) dài đến mắt cá chân gồm hai phần chính là thân váy và cạp váy,
cạp váy nổi tiếng với các loại hoa văn được dệt kì công. Trang sức thường ngày
gồm vòng tay, chuỗi hạt và bộ xà tích 2 hoặc 4 dây bạc có treo hộp quả đào và
móng vuốt hổ, gấu bịt bạc.
Áo mặc thường ngày có tên là Áo pắn (áo ngắn). Đây là loại áo cánh
ngắn, xẻ ngực, thân ngắn hơn so với áo cánh người kinh, ống tay dài, áo màu
nâu hoặc trắng (về sau có thêm các màu không phải loại vải cổ truyền). Bên
trong là loại Áo báng (yếm), cùng với đầu váy nổi lên giữa hai vạt áo ngắn. Đầu
thường đội khăn trắng, xanh với các phong cách không cầu kỳ như một số tộc
người khác. Váy là loại váy kín màu đen, toàn bộ phận được trang trí là đầu váy
và cạp váy, khi mặc mảng hoa văn nổi lên giữa trung tâm cơ thể. Đây là một
cách trang trí và thể hiện ít gặp ở các tộc khác trong nhóm ngôn ngữ và khu vực
láng giềng. Trong các dịp lễ, tết họ mang chiếc áo dài xẻ ngực thường không cài
khoác ngoài bộ trang phục thường nhật vừ mang tính trang trọng vừa phô được
hoa văn cạp váy kín đáo bên trong. Nhóm mặc áo cánh ngắn xẻ ngực thường
mang theo chiếc yếm bên trong, về cơ bản giống yếm của phụ nữ dân tộc Kinh
nhưng ngắn hơn.
♦ Nơi ở: người Mường sống tập trung thành làng, xóm ở chân núi, ở bên
sườn đồi, nơi đất thoải gần sông suối… ở tỉnh Hòa Bình, Thanh Hóa, Phú Thọ…
Mỗi làng có khoảng vài chục nóc nhà, khuôn viên của mỗi gia đình thường nổi
bật lên những hàng cau, cây mít.
14
Một góc bản làng người dân tộc Mường
♦ Nhà ở truyền thống: người Mường sống trong những ngôi nhà sàn
truyền thống. Nhà sàn của người Mường là kiểu kiến trúc cổ truyền, việc dựng
nhà sàn của người Mường là kết quả của một quá trình dài đúc kết kinh nghiệm
cư trú. Điều đó được thể hiện ở bản mo nổi tiếng là “Tẻ tất tẻ đác” (Đẻ đất đẻ
nước). Trong bản mo đồ sộ này có đoạn nói về sự ra đời của nhà sàn Mường:
“thời con người chưa có nhà ở, họ còn phải cư trú trong các hang núi, hốc cây,
họ phải đối phó với bao tai ương, hiểm họa: thú dữ ăn thịt, mưa, bão… Khi đó
lang Đá Cần được người Mường tôn lên làm vua đã tìm cách dựng nhà ở. Một
hôm ông gặp được con rùa vàng, bắt đem về, sắp bị làm thịt, bỗng nhiên nó xin
tha tội chết và đền mạng bằng cách hiến kiểu xây nhà. Lời cầu xin được chấp
thuận, rùa liền vươn mình trên bốn cái chân tựa như bốn cái cột, mai rùa trở
thành mái nhà, vẩy rùa thành ngói lợp, rùa nói:
…Bốn chân tôi là bốn cái cột
Hai vỉa sườn là hai mái nhà
Xương sống nên đòn nóc bắc cái kèo
Lỗ đầu làm lối lên cửa chạn…
Lang Đá Cần cho người làm lấy nhà ở” [14; 19]. Từ đó, người Mường
sống ở nhà sàn.
♦ Ăn uống: người Mường thích ăn các món như xôi đồ, cơm tẻ đồ, rau, cá
đồ hay “củ mài, rau sắng, măng đắng, mật ong”, “cơm đồ, nhà gác, nước vác,
lợn thui…”
15
Rượu cần người Mường nổi tiếng bởi cách chế biến và hương vị đậm đà
của men được đem ra mời khách quý và uống trong các cuộc vui tập thể.
Phụ nữ cũng như nam giới thích hút thuốc lào bằng loại ống điếu to. Đặc biệt
phụ nữ còn có phong tục nhiều người cùng chuyền nhau hút chung một điếu thuốc.
♦ Cưới xin: trai gái tự do yêu đương tìm hiểu, ưng ý nhau thì báo để gia
đình chuẩn bị lễ cưới. Để dẫn đến đám cưới phải qua các bước: ướm hỏi (kháo
thiểng), lễ bỏ trầu (ti nòm péng), lễ xin cưới (nòm khảu), lễ cưới lần thứ nhất (ti
cháu), lễ đón dâu (ti du). Trong ngày cưới, ông mối dẫn đầu đoàn nhà trai
khoảng ba, bốn chục người gồm đủ nội, ngoại, bạn bè mang lễ vật sang nhà gái
tổ chức cưới. Chú rể mặc quần áo đẹp chít khăn trắng, gùi một chón (gùi) cơm
đồ chín (bằng khoảng 10 đấu gạo), trên miệng chón để 2 con gà sống thiến luộc
chín. Trong lễ đón dâu, cô dâu đội nón, mặc váy áo đẹp ngoài cùng là chiếc áo
dài màu đen thắt hai vạt ở phía trước. Cô dâu mang về nhà chồng thường là 2
chăn, 2 cái đệm, 2 quả gối tựa để biếu bố mẹ chồng và hàng chục gối con để nhà
trai biếu cô dì, chú bác.
♦ Quan hệ xã hội: quan hệ làng xóm với nhau chủ yếu là quan hệ láng
giềng. Gia đình hai, ba thế hệ chiếm phổ biến. Con cái sinh ra lấy họ cha. Quyền
con trai trưởng được coi trọng và con trai trong gia đình được thừa kế tài sản.
♦ Lịch: lịch cổ truyền người Mường gọi là sách Đoi làm bằng 12 thẻ tre
tương ứng với 12 tháng. Trên mỗi thẻ có khắc kí hiệu khác nhau để biết tính
toán, xem ngày, giờ tốt xấu cho khởi sự công việc.
Người Mường ở Mường Bi (Tân Lạc – Hòa Bình) có cách tính lịch khác
với người Mường ở các nơi khác gọi là cách tính ngày lùi, tháng tới. Tháng
giêng lịch Mường Bi ứng với tháng 10 của lịch Mường các nơi khác và tháng 10
âm lịch.
♦ Lễ hội: Người Mường có nhiều ngày hội quanh năm: sắc bùa, hội
xuống đồng (Khung mùa), hội cầu mưa (tháng 4), lễ cơm mới…
♦ Văn nghệ dân gian: Kho tàng văn nghệ dân gian người Mường khá
phong phú, có các thể loại thơ dài, bài mo, truyện cổ, dân ca, ví đúm, tục ngữ.
Người Mường còn có hát ru em, đồng dao, hát đập hoa, hát đối, hát trẻ con chơi.
Hát Xéc bùa (có nơi gọi là Xắc bùa hay Khóa rác) được nhiều người ưa
thích. Thường (có nơi gọi Ràng thường hoặc Xường) là loại dân ca ca ngợi lao
16
động và các nét đẹp phong tục dân tộc. Đặc biệt, ở người Mường phải kể đến lễ
ca, đó là những áng mo, bài khấn do thầy mo đọc và hát trong đám tang.
Cồng chiêng là nhạc cụ đặc sắc của người Mường, ngoài ra còn có nhị,
sáo, trống, khèn lù…
♦ Tổ chức cộng đồng: xưa kia, hình thái tổ chức đặc thù của người
Mường là chế độ Lang đạo (Đinh, Quách, Bạch, Hà) chia nhau ra cai quản các
vùng. Đứng đầu mỗi mường có các lang cun, dưới lang cun có các lang xóm
hoặc đạo xóm, cai quản một xóm.
♦ Tôn giáo tín ngưỡng
Tục thờ cúng tổ tiên: tục thờ cúng tổ tiên bắt nguồn từ tiềm thức tâm linh
cho rằng chết là về với tổ tiên nơi chín suối, tin rằng tuy ở nơi chín suối nhưng
ông bà tổ tiên vẫn thường xuyên đi về thăm nom, phù hộ cho con cháu.
Người Mường quan niệm con người có hai phần: phần hồn và phần xác;
cái chết là sự tách lìa hồn ra khỏi xác. Hồn người sau khi chết sẽ được nhập vào
thế giới bên kia - nơi có cộng đồng tổ tiên sinh sống và trở thành tổ tiên của gia
đình. Do vậy, họ quan niệm cái chết là sự tiếp tục cuộc sống của linh hồn, linh
hồn đó có thể phù hộ, bảo vệ mang lại điều tốt đẹp cho người sống. Chính vì
lòng tin đó người ta hình thành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
Trong ngôn ngữ người mường tại Tân Lạc khái niệm “Tổ tiên” gọi là
“Thốl thăm”. Có thể khẳng định, thờ cúng tổ tiên là một trong những hình thái
tín ngưỡng xa xưa nhất của người Mường được giữ lại cho đến ngày nay. Theo
quan niệm của người Mường khái niệm tổ tiên không chỉ bao gồm thành viên
thân thuộc dòng họ cha mà gồm cả những thành viên của dòng họ mẹ. Đây là
nét khác biệt với phong tục một số tộc người khác chỉ thờ cúng tổ tiên là thành
viên thuộc dòng họ cha.
Cũng như nhiều dân tộc anh em khác, người Mường coi tổ tiên là ma
lành, thường xuyên che chở, phù hộ cho gia đình nếu được thờ phụng, cúng lễ
chu đáo. Ngược lại sẽ gây ra những điều xui xẻo, ốm đau, bệnh tật… nếu không
tôn kính, thờ cúng. Tổ tiên là người bảo hộ gia đình, chống lại những ma ác, tổ
tiên còn tham dự vào tất cả các sự kiện trọng đại trong gia đình và trong nhiều
lĩnh vực của đời sống [19; 65].
17
Có thể nói tục thờ cúng tổ tiên có vai trò quan trọng trong đời sống tín
ngưỡng của người Mường. Nó phản ánh ý thức sâu sắc về cội nguồn, về tình
cảm ruột già máu mủ và trở thành đạo lí “uống nước nhớ nguồn”.
Tục thờ thần bản mệnh, thổ công: cũng như một số cư dân phương Đông
khác, người Mường cũng suy tôn những cá nhân, những người lập những chiến
công và có đức độ thành thần để thờ. Họ thờ nhân vật khổng lồ trong truyền
thuyết dân gian là ông Tùng (hay ông Đùng) - người anh hùng thời tiền sử có
công diệt chim ác cứu dân Mường, bên cạnh đó người Mường còn thờ đức thánh
Tản Viên tôn kính gọi là vua ở núi Ba Vì (Bua Thơ, Bua Pavì), Quốc mẫu vua
bà gọi là mẹ của núi rừng. Ngoài ra ở mỗi vùng mường còn thờ các vị thần có
công với làng mường. Ở mỗi gia đình Mường còn có tục lệ thờ thổ công.
Tục thờ động vật cây cỏ: ngoài các con vật ở rừng và vật nuôi thường
được người Mường chọn làm vật cúng tế như trâu, gà, lợn… còn một số động
vật đặc biệt được trọng vọng trong tâm thức của người Mường: con cóc còn gọi
là chàng Hạc đã được thờ từ rất xa xưa. Con cóc là tín hiệu báo mưa, là biểu
tượng tín ngưỡng phồn thực. Ngoài cóc là cá và hươu, cá là biểu tượng cho các
con vật ở dưới nước, hươu là con vật biểu tượng cho các con vật ở trên cạn.
Ngoài những con vật được thờ cúng, người Mường ở Tân Lạc còn có tục
thờ cây: cây mía, cây lúa nương, cây pi, thờ hòn đá.
Tục lệ thờ động vật, cây cỏ phản ánh tín ngưỡng đa thần, tin vào thuyết
vạn vật hữu linh. Đó là những loài động, thực vật quen thộc gắn liền với cuộc
sống thường ngày của người Mường [19; 68].
♦ Hoạt động kinh tế truyền thống: nông nghiệp ruộng nước chiếm vị trí
hàng đầu, cây lúa là cây lương thực chính. Ngoài ruộng nước người Mường còn
làm nương rẫy, chăn nuôi gia súc, săn bắn, đánh cá, hái lượm và sản xuất thủ
công nghiệp (dệt vải, đan lát…).
Như vậy, dân tộc Mường cùng với các dân tộc khác trong cộng đồng 54
dân tộc anh em trên dải đất hình chữ S này đã có những đóng góp to lớn về sự
phát triển kinh tế của đất nước cũng như sự đa dạng văn hóa dân tộc. Những
khái quát chung về dân tộc Mường cho thấy, nền văn hóa dân tộc Mường đã có
từ lâu đời và mang bản sắc dân tộc đậm đà.
18
CHƯƠNG 2
NHỮNG ĐẶC TRƯNG TRUYỀN THỐNG
TRONG TỤC TANG MA CỦA NGƯỜI MƯỜNG
2.1. Quan niệm về sống và chết của người Mường
2.1.1. Quan niệm về sống và chết của của người Mường
Đối với người Mường thì họ cho rằng con người đang sống không tự
nhiên chết đi, mà bệnh tật cùng tai nạn làm cho con người đang từ cõi sống sẽ
chuyển tiếp sang cái chết. Theo quan niệm về thế giới của người Mường, thì con
người tồn tại trong hai thế giới: thế giới người sống và thế giới người chết, hay
là cõi Mường (thế giới trần gian) và cõi hư vô (Mường ma). Họ quan niệm rằng,
cái chết là sự thay đổi môi trường sống của con người từ cõi Mường sang cõi hư
vô. Tuy nhiên, đối với họ hai thế giới ấy không hề có ranh giới rõ ràng, mà
ngược lại giữa chúng còn có mối liên hệ chắc bền không thể tách riêng rẽ.
Với người Kinh, mối liên hệ này trước hết thể hiện ở cuộc đấu tranh giằng
xé nội tâm giữa sự khước từ thực tế và sự chịu đựng vô vọng dẫn tới sự chấp
nhận thực tế mất đi một người thân yêu. Đó là sự tranh chấp của cá nhân và tình
cảm, bởi lẽ sự kiện đột biến của cái chết của thể chất không đủ làm tiêu tan cái
chết trong đầu óc mọi người, hình ảnh của người chết gần đây vẫn tham gia vào
những việc của thế giới này. Sự đấu tranh ấy, xuất phát từ hầu hết mọi người
nghĩ rằng: người chết đã chết từ lâu, vì chúng ta quá gắn chặt người đó vào
chung một cuộc sống với chúng ta, và do vậy những mối liên lạc không thể ngày
một ngày hai mà cắt đứt, những mối liên hệ này đối với quan niệm của chúng ta
là do nỗi đau đớn sâu sắc. Còn ở người Mường, mối tranh chấp tình cảm trên là
độc lập, không chịu sự chi phối của quá trình suy nghĩ, mối liên hệ trên được
biểu đạt trong sự tín ngưỡng chung rằng: người chết tiến dần từng bước tới địa
vị chết cuối cùng của anh ta.
Theo quan niệm của người Mường, cái chết dù xảy ra bất thần hay chậm
chạp, thì cũng là sự trục xuất tinh thần sống ra khỏi thể xác, vật thể vào thời gian
nhất định bởi những lực lượng phá hoại. Quá trình đó chỉ được coi là hoàn toàn
sau một khoảng thời gian gần tương ứng với sự tan rã của thân thể. Đó là cái
chết về thể xác, còn tinh thần sau khi bị trục xuất cũng dần chết đi, và sự di
chuyển của chúng từ thế giới này sang thế giới khác, từ thế giới người sống sang
thế giới người chết, được hoàn thành theo nhiều giai đoạn, nhưng ngày nay họ
19
không thể chỉ rõ có bao nhiêu giai đoạn. Người Mường cho rằng những “tinh
thần sống” đó là những linh hồn. Linh hồn là một loại phức tạp, bao gồm một
loại nguyên khí bất tử - “Wại” (tiếng Việt gọi là “Hồn”, tiếng Tàu gọi là
“Huẩn”), và một nguyên lí chủ trì các sinh vật của con người sống - “Bía” (tiếng
Việt gọi là “Vía”, tiếng Tàu gọi là “Pô”). Tuy nhiên, chỉ có những người như
thầy lang, thầy cúng, thầy bói mới có sự phân biệt như vậy. Còn thường dân
Mường thì họ không có sự phân biệt giữa “Wại” và “Bía”, trong tỉnh Hòa Bình
nói chung, và huyện Tân Lạc nói riêng “Wại” được dùng nhiều hơn “Bía”.
Khi thành viên của cộng đồng Mường qua đời, thì họ quan niệm: một bộ
phận của các linh hồn chuẩn bị trú ngụ ở trên đời, và một bộ phận khác lại gắn
liền đối với xác chết, tiếp tục một cuộc sống trong bóng tối ở gần xác chết, ở bên
ngoài và xung quanh chiếc quan tài, rồi ở vùng xung quanh mộ. Họ cũng cho
rằng linh hồn cũng là linh hồn của người sống, còn khi đã thoát khỏi thể xác thì
nó biến thành một con ma - một linh hồn đi lang thang và nguy hiểm. Phần lớn
linh hồn đi lang thang, sau một thời kỳ chuyển tiếp tương đương với thời gian để
tang của những người thân thích, thì chúng đi vào thế giới của người chết bởi
lòng thành của người thân, bằng những nghi lễ tập tục đã quy định. Còn một vài
linh hồn rơi vào trạng thái lang thang vĩnh viễn: họ bị đuổi ra khỏi cuộc sống
nhưng cũng không được đưa vào cuộc sống người chết. Họ trở thành những cô
hồn ở giữa cuộc sống của người sống và cuộc sống của người chết.
Người Mường còn tin tưởng và cho rằng có những cuộc tái sinh, tuy là rất
hiếm. Bởi họ cho rằng, những linh hồn tạm thời hay vĩnh viễn lang thang luôn
tìm cách lôi kéo những linh hồn mới lìa khỏi xác, bởi vậy muốn cho thân thể có
khả năng sống lại thì bắt buộc những linh hồn sống phải quay lại nhập vào thân
thể một vài giờ sau khi đã thoát khỏi thân thể đó. Hiện tượng tái sinh như vậy
theo cách giải thích khoa học đó là hiện tượng chết lâm sàng.
Không dừng lại ở hiện tượng chết lâm sàng, người Mường còn tin tưởng
rằng, hiện tượng tái sinh sẽ xuất hiện ở người chết nhiều ngày nhưng có sự can
thiệp của pháp thuật. Nhưng họ cũng nhận ra, nếu người chết được một thời gian
khá lâu thì sự can thiệp của pháp thuật cũng bất lực, không gây ra điều kì lạ nữa.
Tóm lại, theo quan niệm của người Mường thì con người gồm hai phần
tách biệt nhau: phần hồn và phần xác. Khi hồn lìa khỏi xác thì cái chết ập đến,
linh hồn trở thành “con ma” và đi vào thế giới của người chết. Người Mường
cũng cho rằng có hiện tượng tái sinh, nhưng thực chất của vấn đề đấy lại là hiện
tượng chết lâm sàng; nhưng trước do điều kiện chậm phát triển nên họ dựa vào