Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (577.56 KB, 22 trang )

BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HỐ TP. HỒ CHÍ MINH

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

TÊN ĐỀ TÀI: HỒ CHÍ MINH LÀ MỢT NHÀ VĂN HÓA KIỆT SUẤT
SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG VĂN HÓA HỒ CHÍ MINH
CỦA ĐẢNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Người thực hiện

: Huỳnh Văn Rắt

Lớp

: 21DLTQLVH

MSSV

: D21.LTQL25

GVHD

: Lê Bá Vương

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2021


MỤC LỤC
HỒ CHÍ MINH LÀ MỢT NHÀ VĂN HÓA KIỆT SUẤT SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG


VĂN HÓA HỒ CHÍ MINH CỦA ĐẢNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
MỤC LỤC ........................................................................................................................................................ 1
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................................................................. 2
1.

PHẠM VI NGHIÊN CỨU ..................................................................................................... 2

2.

ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU ................................................................................................ 2

PHẦN NỘI DUNG .......................................................................................................................................... 3
1.

2.

3.

4.

CƠ SỞ LÝ LUẬN ................................................................................................................. 3
1.1.

Quan niệm của Hồ Chí Minh về Văn hóa ............................................................................ 3

1.2.

Quan điểm của Hồ Chí Minh về quan hệ giữa Văn hóa với các lĩnh vực khác .......................... 7

QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ MỢT SỚ LĨNH VỰC CHÍNH CỦA VĂN HÓA ........ 8

2.1.

Văn hóa giáo dục ............................................................................................................. 9

2.2.

Văn học nghệ thuật .......................................................................................................... 9

2.3.

Văn hóa phục vụ Quần chúng nhân dân ............................................................................ 10

QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA MỚI ......................... 10
3.1.

Hồ Chí Minh quan niệm, xây dựng “tâm lý” ..................................................................... 10

3.2.

Hồ Chí Minh về xây dựng “luân lý” ................................................................................. 10

3.3.

Hồ Chí Minh về xây dựng “xã hội” .................................................................................. 11

3.4.

Hồ Chí Minh về xây dựng “chính trị”: .............................................................................. 11

3.5.


Hồ Chí Minh về xây dựng “kinh tế”: ................................................................................ 11

HỒ CHÍ MINH NHÀ VĂN HÓA KIỆT SUẤT ..................................................................... 12
4.1.

Một nhà lý luận văn hóa, tu dưỡng, kế thừa những nền văn hóa trên thế giới ......................... 12

4.2.

Nhà quản lý nền văn hóa................................................................................................. 13

4.3. Khơng những là nhà cách mạng mà còn là nhà văn hóa lớn, Hồ Chí Minh đã để lại một sự
nghiệp văn hóa vơ cùng trong sáng và đẹp đẽ. .............................................................................. 14
5. SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH CỦA ĐẢNG VÀ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY .............................................................................................. 15
5.1. Q trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng và phát triển đất nước trong giai đoạn
hiện nay .................................................................................................................................. 15
5.2.

Kết quả ......................................................................................................................... 18

5.3.

Định hướng của Đảng và những giải pháp trong giai đoạn hiện nay ..................................... 18

PHẦN KẾT THÚC ........................................................................................................................................ 20
QUÁ TRÌNH VÀ Ý NGHĨA THỰC HIỆN ĐỀ TÀI........................................................................ 20
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................................................. 21


1


PHẦN MỞ ĐẦU
Những đóng góp quan trọng và nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên các lĩnh vực
văn hóa, giáo dục và nghệ thuật chính là sự kết tinh của truyền thống văn hóa hàng ngàn năm
của dân tộc Việt Nam, và những tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của
các dân tộc mong muốn được khẳng định bản sắc văn hóa của mình và mong muốn tăng
cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc. Chúng ta tự hào về sự vinh danh này nhưng có
những điều đồng chí, đồng bào, những người tiếp xúc với Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thấy
trước đó rất lâu. Đó là ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX ở người thanh niên yêu nước
Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa…có lẽ là một nền văn hóa tương lai, và khi trở
thành lãnh tụ Người đã định hướng xây dựng một nền văn hóa mới cho nhân dân để cùng
nhân dân kiên định chiến đấu vì mục tiêu khơng thể chuyển lay là độc lập, tự do cho đất nước,
hạnh phúc cho đồng bào. Hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh - nhà văn hóa Việt Nam kiệt xuất
vĩnh hằng trong trái tim dân tộc và nhân loại như thế. Để rồi những đóng góp của Người đã
mang lại những giá trị vơ giá và có ý nghĩa quan trọng và có thể coi là có hiệu quả nhất là chúng
ta tìm về với những giá trị của Tư Tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa. Đây được xem là giải pháp
tối ưu có hiệu quả và tác động lớn đến hầu khắp quần chúng nhân dân cả nước. Bên cạnh đó việc
vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh trên lĩnh vực văn hóa và nhất là sự vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh của Đảng ta là một điều tất yếu trong giai đoạn hiện nay.
1. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về các vấn đề văn hóa giáo dục văn nghệ, đời sống có
giá trị vào việc xây dựng và phát triển đất nước đây là những giá trị cốt lõi tiêu biểu tạo nên
một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Các chủ trương chính sách của Đảng trong từng
giai đoạn lịch sử nhằm khẳng định rõ vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa trong
việc duy trì và phát triển văn hóa của Việt Nam.
Khơng gian Quốc gia Việt Nam.
2. ĐỚI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Chứng minh Hồ Chí Minh là một nhà văn hóa kiệt suất. Sự vận dụng tư tưởng văn hóa

Hồ Chí Minh của Đảng trong giai đoạn hiện nay.

2


PHẦN NỘI DUNG
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.

Quan niệm của Hồ Chí Minh về Văn hóa

1.1.1. Nguồn gốc và q trình hình thành tư tưởng Văn hóa của Hồ Chí Minh
Những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trước hết là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã
hình thành tư tưởng Văn hóa của Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền
thống cần cù lao động, anh dũng chiến đấu trong dựng nước và giữ nước, truyền thống đồn
kết, sống có tình, có nghĩa, nhân ái Việt Nam. Trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Việt Nam thì chủ nghĩa u nước là dịng chủ lưu xuyên suốt lịch sử dân tộc. Chủ nghĩa yêu
nước đã trở thành động lực, sức mạnh truyền thống, đạo lý làm người, niềm tự hào và là nhân
tố hàng đầu trong bảng giá trị tinh thần của con người Việt Nam.
Tiếp thu tinh hoa văn hố nhân loại: phương Đơng và phương Tây: Cùng với chủ
nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh cịn chịu ảnh hưởng của văn hố phương Đơng. Người cũng đã
tiếp thu và kế thừa có phê phán tư tưởng dân chủ, nhân văn của văn hoá Phục hưng, thế kỷ
Ánh sáng, của cách mạng tư sản phương Tây và cách mạng Trung Quốc.
Chủ nghĩa Mác - Lênin: Từ khi rời Tổ quốc (1911) cho đến năm 1917, Hồ Chí Minh
đã đến nhiều nước thuộc địa và nhiều nước tư bản đế quốc. Trong khoảng thời gian đó, Hồ
Chí Minh được bổ sung thêm những nhận thức mới về những gì ẩn dấu đằng sau các từ Tự
do, Bình đẳng, Bác ái mà vào trạc tuổi 13, lần đầu tiên Người đã nghe. Khoảng cuối năm
1917, khi trở lại Pari, Hồ Chí Minh đã làm quen với nhiều nhà hoạt động chính trị, xã hội của
nước Pháp và nhiều nước trên thế giới. Năm 1919, Hồ Chí Minh tham gia Đảng Xã hội Pháp
(SFIO), một đảng tiến bộ lúc bấy giờ thuộc Quốc tế II. Việc Hồ Chí Minh tiếp thu bản Luận

cương của Lênin tháng 7-1920 và trở thành người cộng sản vào cuối năm đó đã tạo nên bước
ngoặt căn bản trong tư tưởng của Người.
Tài năng và hoạt động thực tiễn sáng tạo của Hồ Chí Minh: Tư chất thơng minh, tư
duy độc lập, sáng tạo tính ham hiểu biết và nhạy bén với cái mới là những đức tính dễ thấy ở
người thanh niên Nguyễn Tất Thành. Phẩm chất đó được rèn luyện, phát huy trong suốt cuộc
đời hoạt động cách mạng của Người. Nhờ vậy, giữa thực tiễn phong phú và sinh động, giữa
nhiều học thuyết, quan điểm khác nhau, giữa biết bao tình huống phức tạp, Hồ Chí Minh đã
tìm hiểu, phân tích tổng hợp, khái qt hình thành những luận điểm đúng đắn và sáng tạo,
hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh. Kế thừa thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa học
3


căn cứ vào các văn kiện của Đảng thì tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn
diện, sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể kế thừa và phát triển các
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.
1.1.2. Khái niệm của Hồ Chí Minh về Văn hóa
Văn hóa là từ Hán Việt, Văn là đẹp, hóa là giao hóa, Culture có nguồn gốc từ chữ Latinh
Cultura với 2 nghĩa, nghĩa đen là trồng trọt ngồi đồng (Cultura agri), nghĩa bóng có nghĩa là
trồng trọt tinh thần (Cultura animi).
Văn hóa theo 2 nghĩa, nghĩa hẹp là giới hạn bởi không gian (vùng miền, chổ..) thời gian,
mọi lĩnh vực, nghĩa rộng là tất cả những gì do con người sáng tạo ra.
Văn hóa là bao gồm tất cả những sản phẩm của con người, và như vậy, văn hóa bao gồm
cả hai khía cạnh: khía cạnh phi vật chất của xã hội như ngơn ngữ, tư tưởng, giá trị và các khía
cạnh vật chất như nhà cửa, quần áo, các phương tiện… Cả hai khía cạnh cần thiết để làm ra
sản phẩm và đó là một phần của văn hóa.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, mỗi định nghĩa phản ánh một cách nhìn nhận
và đánh giá khác nhau. Ngay từ năm 1952, hai nhà nhân loại học Mỹ là Alfred
Kroeber và Clyde Kluckhohn đã từng thống kê có tới 164 định nghĩa khác nhau về văn hóa
trong các cơng trình nổi tiếng thế giới.

Theo UNESCO: “Văn hóa hơm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt và tinh
thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách cử một xã hội hay của một nhóm
người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền
cơ bản của cong người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng: Văn
hóa đem lại cho con người khả năng suy xét về bản thân. Chính văn hóa làm cho chúng ta trở
thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lí tính, có óc phê phán và d ấn thân một cách đạo
lí.
Tháng 8 năm 1943 khi còn trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch, Hồ Chí Minh đã đưa ra
khái niệm của mình về văn hóa, Người viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống,
lồi người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học,
tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các
4


phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là
sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản
sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và địi hỏi của sự sinh tồn”1. Định nghĩa về
văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khắc phục được những quan niệm phiến diện về văn
hóa trong lịch sử và hiện tại. Theo nghĩa hẹp, Người viết: “Trong công cuộc kiến thiết nước
nhà, có bốn vấn đề cần chú ý đến, cũng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội,
văn hóa. Nhưng văn hóa là một kiến trúc thượng tầng”. Theo nghĩa rất hẹp, văn hóa đơn giản
là trình độ học vấn của con người, thể hiện ở việc Hồ Chí Minh yêu cầu mọi người phải đi
học “văn hóa”, xóa mù chữ…Trên thực tế, văn hóa bao gồm toàn bộ những giá trị vật chất và
những giá trị tinh thần mà loài người đã sáng tạo ra, nhằm đáp ứng sự sinh tồn và cũng là mục
đích cuộc sống của lồi người.
1.1.3. Tính chất của nền Văn hóa
-

Tính dân tộc của văn hố
Tính dân tộc của văn hóa là sự thể hiện của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần độc lập, tự


cường của dân tộc trong lĩnh vực văn hóa, nên trước hết nó phải được thể hiện ở nội dung
tuyên truyền cho lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do và tinh thần vì nước qn mình. Tính dân tộc
là cái tinh túy đặc trưng riêng của văn hóa dân tộc. Cốt cách văn hóa dân tộc khơng phải:
“Nhất thành bất biến”, mà có thể phát triển và bổ sung nét mới. Biết gìn giữ, kế thừa, phát
huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Phát triển những truyền thống ấy cho phù hợp với điều
kiện lịch sử mới. Người từng cảnh báo: “Coi chừng, có nhiều người Việt Nam lại khơng hiểu
rõ lịch sử, đất nước, con người và những cái vốn rất q báu của mình bằng những người
nước ngồi”. Lại cũng phải hiểu kỹ hiểu sâu truyền thống văn hóa nghệ thuật Việt Nam. Về
mặt ngôn ngữ, Người căn dặn: “Tiếng nói là một thứ của cải rất quý báu của dân tộc, chúng
ta phải hết sức giữ gìn lấy nó, chớ để bệnh nói chữ lấn át nó đi”. Quan điểm của Hồ Chí Minh
về tính dân tộc của văn hóa rất tồn diện và sâu sắc.
-

Tính khoa học của văn hóa
Tính khoa học của văn hóa địi hỏi phải đấu tranh chống lại những gì trái với khoa học,

phản tiến bộ; phải truyền bá tư tưởng triết học mácxít. Đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm
thần bí, mê tín, dị đoan. Tính khoa học là tính hiện đại tiên tiến kết hợp với trào lưu tiến hóa

1

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.3, tr.458.

5


của thời đại. Để phát triển được các giá trị truyền thống, hấp thụ cái mới. Nền văn hóa truyền
thống nó chưa được xây dựng trên nền tảng khoa học. Hồ Chí Minh đã khẳng định tư tưởng
khoa học có một ý nghĩa rất quan trọng. Chỉ có khoa học mới bắt kịp được nền văn minh thế

giới. Người giao cho ngành giáo dục phải dạy bảo các cháu thiếu niên về khoa học, kỹ thuật,
làm cho các cháu ngay từ thuở nhỏ đã biết yêu khoa học, để mai sau các cháu trở thành những
ngưịi có thói quen sinh hoạt và làm việc theo khoa học. Một nền văn hóa dựa trên cơ sở khoa
học là dựa vào chiếc kiềng ba chân của cái đúng, cái chân lý đó là: Quy luật khách quan - Cơ
cấu công nghệ - Hành lang pháp luật. Những người làm văn hóa phải có trí tuệ, hiểu biết khoa
học tiên tiến, phải có chiến lược xây dựng văn hóa mang tầm thời đại. Đấu tranh chống lại
những gì trái với khoa học, phản tiến bộ. Biết kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hóa trên thế giới.
-

Tính đại chúng của văn hóa
Tính đại chúng là phục vụ nhân dân, do nhân dân xây dựng, phù hợp với nguyện vọng

của nhân dân, đậm đà tính nhân văn. Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất phát từ quan niệm của chủ
nghĩa duy vật lịch sử: Quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra mọi của cải vật chất và tinh
thần, sáng tạo ra văn hóa, do đó họ phải được hưởng thụ các giá trị văn hóa. Văn hóa phải
phục vụ đại đa số nhân dân, phải hướng về đại chúng, phải phản ánh được tâm tư, nguyện
vọng, ý chí của nhân dân. Người thường xuyên nhắc nhở người cầm bút: “Phải đặt câu hỏi:
Viết cho ai? Viết cho đại đa số: Công - Nông - Binh. Viết để làm gỉ? Để giáo dục, giải thích,
cổ động, phê bình. Để phục vụ quần chúng”. Tại Hội nghị những người tích cực làm cơng tác
văn hóa quần chúng (2-1960), Người nói: “Văn hóa phải thiết thực phục vụ nhân dân, góp
phần vào việc nâng cao đời sống vui tươi, lành mạnh của quần chúng”. Văn hóa là trình độ
phát triển của con người, do con người làm ra, nó phải trở về phục vụ con người. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đấu tranh giải phóng dân tộc để đem lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân,
trong đó có văn hóa. Văn hóa khơi dậy khả năng sáng tạo của đại chúng, chúng tạo nên các
chủ thể văn hóa có chất lượng cao trong lịch sử. Đó chính là nội dung cơ bản chủ yếu cả yếu
tố văn hóa trong sự phát triển của xã hội.
1.1.4. Chức năng của Văn hóa
Quan niệm của Hồ Chí Minh, văn hóa có ba chức năng chủ yếu:
-


Một là, bồi dưỡng tư tưởng đúng và tình cảm cao đẹp cho con người.
6


Văn hố phải làm cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do. Đồng thời văn hoá phải
làm thế nào cho quốc dân có tinh thần vì nước qn mình, vì lợi ích chung mà qn lợi ích
riêng. Hồ Chí Minh cũng thường nói phải làm thế nào cho văn hoá đi sâu vào tâm lý quốc dân
để xây dựng những tình cảm lớn: yêu, ghét, căm thù, tin tưởng. Như lịng u nước tình u
thương con người, yêu tính trung thực, chân thành, thuỷ chung, ghét những thói hư tật xấu,
những sa đoạ biến chất, căm thù những thứ giặc nội xâm... tin ở con người, ở chân lý, ở sự
thật, ở đường lối của Đảng, của cách mạng xã hội chủ nghĩa... Từ đó Hồ Chí Minh cho rằng
văn hố phải soi đường cho quốc dân đi.
-

Hai là, nâng cao dân trí, mở rộng hiểu biết của con người.
Hồ Chí Minh viết: “Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn

hố cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”. Chính văn hóa giúp con người hiểu họ được hưởng
những quyền lợi gì và phải có trách nhiệm gì với dân, với nước và ngay với chính bản thân
mình, muốn biết được phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ. Ngay khi bắt tay vào xây dựng
đất nước, Hồ Chí Minh đã đặt chỉ tiêu phải phổ cập trình độ tiểu học cho mọi người dân và
đưa nước ta sánh vai với các cường quốc năm châu thông qua việc học của toàn dân.
-

Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách lành mạnh, tiên tiến,
luôn hướng con người vươn tới cái chân, thiện, mỹ để không ngừng hồn thiện bản
thân con người.
Văn hố giúp con người nhận biết và phân biệt cái tốt đẹp, lành mạnh với cái xấu xa, hư


hỏng, giữa cái tiến bộ với cái lạc hậu cản trở con người và dân tộc tiến lên phía trước. Hồ Chí
Minh từng nhấn mạnh: “Văn hố phải sửa đổi được những tham nhũng, lười biếng, phù hoa,
xa xỉ, sửa xã hội cũ, xây xã hội mới”. Nếu hiểu văn hố là tất cả những gì do con người, ở
trong con người và liên quan trực tiếp nhất đến con người, thì khi chúng ta bàn đến khái niệm
văn hoá, cả bản chất, chức năng và vai trị của văn hố tức là đã bàn vấn đề con người trong
tư tưởng Hồ Chí Minh. Và qua đó cũng thấy rõ rằng, sự nghiệp xây dựng nền văn hố mới
cũng là sự nghiệp xây dựng con người, đó cũng là sự nghiệp của mỗi con người, của toàn dân.
1.2.

Quan điểm của Hồ Chí Minh về quan hệ giữa Văn hóa với các lĩnh vực khác

1.2.1. Quan hệ giữa Văn hóa với Chính trị, kinh tế và xã hội

7


Sau khi và đồng thời với cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do, tạo ra nền tảng tồn tại và
khơng khí cho sự hít thở của văn hóa, Hồ Chí Minh mới có điều kiện thực hiện tiếp lý tưởng
chính trị, kinh tế và văn hóa của mình đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Khi
chính trị xã hội được giải phóng thì văn hóa cũng được giải phóng; chính trị giải phóng mở
đường cho văn hóa phát triển. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Phải tiến hành cách mạng chính trị trước,
cụ thể là cách mạng giải phóng dân tộc để giành chính quyền, từ đó giải phóng văn hóa, mở
đường cho văn hóa phát triển”. Bên cạnh đó muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển
kinh tế văn hóa. Vì sao khơng nói phát triển văn hóa, kinh tế. Tục ngữ ta có câu: “Có thực
mới vực được đạo, vì thế kinh tế phải đi trước”. Văn hóa khơng thể đứng ngồi mà phải ở
trong kinh tế và chính trị, phải tham gia thực hiện nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng phát
triển kinh tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Nền kinh tế chúng ta xây dựng là một nền kinh tế
xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến. Nó
có vai trị là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, chính trị: “Văn hóa ở trong kinh tế”, tức
là văn hóa phải phục vụ và thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế. Văn hóa ở trong kinh tế

và chính trị cũng có nghĩa là kinh tế và chính trị cũng phải có tính văn hóa. Mà Văn hóa phát
triển thì đời sống nhân dân ngày càng phồn vinh và hạnh phúc bởi lẽ văn hóa là món ăn tinh
thần cho xã hội phát triển.
1.2.2. Vấn đề giữ gìn bản sắc Văn hóa dân tộc, tiếp thu văn hóa nhân loại
Tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh là sự thống nhất giữa chủ nghĩa chủ nghĩa yêu nước và
tinh thần quốc tế trong lĩnh vực văn hóa. Tư duy văn hóa Hồ Chí Minh là tư duy mở rộng để
thâu hóa, nó rất xa lạ với mọi thứ kỳ thị văn hóa. Người đề ra chủ trương kế thừa, bảo tồn
truyền thống tốt đẹp của văn hố dân tộc phải đi đơi với việc học tập và tiếp thu có chọn lọc
tinh hoa văn hố nhân loại. Trước hết là tiếp thu cả đơng, tây, kim, cổ, tìm mẫu số chung của
nền văn hóa trên thế giới. Tính tồn diện cịn thể hiện ở việc tiếp thu nhiều mặt: tư tưởng
Khổng giáo, Phật giáo, Thiên chúa giáo, văn hóa châu âu, tư tưởng Tơn Trung Sơn, đặc biệt
là chủ nghĩa Mác - Lênin, ngoài ra còn tiếp thu các lĩnh vực hội họa, âm nhạc…Hồ Chí Minh
chỉ rõ mục đích của tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại là để làm giàu cho văn hóa Việt Nam,
xây dựng nền văn hóa Việt Nam hợp với tinh thần dân chủ.
2. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ MỢT SỚ LĨNH VỰC CHÍNH CỦA
VĂN HÓA
8


2.1.

Văn hóa giáo dục

Mục tiêu của văn hố giáo dục là thực hiện cả ba chức năng của văn hoá bằng giáo dục,
có nghĩa là bằng dạy và học. Đó là đào tạo những con người tồn diện vừa có đức vừa có tài,
những cơng dân biết làm và đủ điều kiện làm chủ để xây dựng và bảo vệ đất nước. Người
quan tâm xây dựng nền giáo dục mới của Việt Nam độc lập. Nền giáo dục này được hình
thành từ những năm hai mươi, thực sự ra đời từ trước Cách mạng Tháng tám thành công và
phát triển cùng sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Hồ Chí Minh xác định, xây dựng nền giáo
dục mới là một nhiệm vụ cấp bách, có ý nghĩa chiến lược, vì nó góp phần làm cho dân tộc ta

xứng đáng với nước Việt Nam độc lập. Học đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tế,
học tập phải kết hợp với lao động, phải luôn luôn gắn nội dung giáo dục với thực tiễn Việt
Nam. Có như vậy, văn hố giáo dục mới có tính hướng đích đúng đắn, rõ ràng, thiết thực.
2.2.

Văn học nghệ thuật

Trong lịch sử phát triển, dân tộc Việt Nam là dân tộc rất quý trọng văn nghệ và văn nghệ
cũng đã trở thành nhu cầu không thể thiếu của nhân dân ta. Tiếp nối truyền thống dân tộc, Hồ
Chí Minh là một chiến sĩ tiên phong trong sáng tạo văn nghệ và là người đã khai sinh một nền
văn nghệ cách mạng Việt Nam. Cống hiến của Hồ Chí Minh về văn nghệ là bộ phận đặc sắc
trong sự nghiệp của Người đã để lại cho Đảng, cho dân tộc. Quan điểm của Hồ Chí Minh về
văn nghệ có thể tóm tắt như sau: “Văn nghệ là mặt trận, nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn
nghệ là vũ khí sắc bén trong đấu tranh cách mạng, trong xây dựng xã hội mới, con người
mới”. Văn nghệ phải gắn với thực tiễn đời sống nhân dân. Thực tiễn đời sống nhân dân là lao
động, chiến đấu, sinh hoạt và xây dựng xã hội mới. Văn nghệ phản ánh và hướng thực tiễn ấy
phát triển theo quy luật của cái đẹp. Cái đẹp của cuộc sống đang vận động và biến đổi, do con
người tạo ra, đồng thời cũng tạo ra sự hoàn thiện của con người chứ không phải là cái đẹp
siêu thực, vĩnh hằng. Theo tinh thần đó, Hồ Chí Minh u cầu chiến sĩ văn nghệ phải thật hồ
mình với quần chúng, nguồn nhựa sống sáng tác của nhà văn là từ nhân dân. Người nêu: “cần
làm cho món ăn tinh thần được phong phú, không nên bắt mọi người chỉ được ăn một món
thơi. Cũng như vào vườn hoa, cần cho mọi người thấy được nhiều loại hoa đẹp”. Định hướng
mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là duy nhất và cũng là đề tài bao trùm
nhất của Hồ Chí Minh. Chính điều đó mở ra con đường sáng tạo không giới hạn của văn nghệ
sĩ.
9


2.3.


Văn hóa phục vụ Quần chúng nhân dân

Hồ Chí Minh đã phát động phong trào xây dựng đời sống mới và viết tác phẩm Đời
sống mới để hướng dẫn thực hiện trong xã hội. Khái niệm "Đời sống mới” mà Hồ Chí Minh
đưa ra bao hàm cả đạo đức mới, lối sống mới và nếp sống mới:
+ Đạo đức mới: thực hành đời sống mới trước hết là thực hành đạo đức cách mạng:
cần, kiệm, liêm, chính.
+ Lối sống mới: là lối sống văn minh, tiên tiến, kết hợp hài hoà truyền thống tốt đẹp
của dân tộc và tinh hoa văn hố của nhân loại. Hồ Chí Minh địi hỏi phải: “sửa đổi những việc
rất cần thiết, rất phổ thông, trong đời sống của mọi người, tức là sửa đổi cách ăn, cách mặc,
cách ở, cách đi lại, cách làm việc”. Đó là 5 cách phải sửa đổi khơng chỉ với mỗi người mà
còn cho cả tập thể, cộng đồng. Theo Hồ Chí Minh phải xây dựng cách sống khiêm tốn, giản
dị, chừng mực, điều độ, ngăn nắp, vệ sinh, u lao động, biết q trọng thời gian, ít lịng ham
muốn về vật chất, về chức quyền, danh lợi. Trong quan hệ với nhân dân, bạn bè đồng chí thì
cởi mở chân tình, ân cần tế nhị, giàu lịng u thương quý mến con người, trân trọng con
người; đối với mình thì chặt chẽ đối với người thì khoan dung, độ lượng.
+ Nếp sống mới: Xây dựng nếp sống mới là xây dựng những thói quen và những
phong tục tập quán tốt đẹp, kế thừa và phát triển được những thuần phong mĩ tục lâu đời của
dân tộc. Là quá trình làm cho lối sống mới dần dần thành nền nếp, thói quen, ổn định ở mỗi
người, thành phong tục tập quán của tập thể hay cả cộng đồng, trong khu vực hay cả nước,
thường gọi là nếp sống mới hay nếp sống văn hố.
3. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA MỚI
3.1.

Hồ Chí Minh quan niệm, xây dựng “tâm lý”

Là xây dựng “tinh thần độc lập tự cường”, cũng có nghĩa là sự giáo dục, định hướng để
hun đúc nên tình yêu đất nước, niềm tự hào dân tộc, ý chí tự chủ, tự cường. Đó chính là cơ sở
nền tảng bảo đảm cho sự đoàn kết, đồng thuận dân tộc, điều kiện để tạo nên sức mạnh bảo vệ
độc lập dân tộc, chống lại mọi sự xâm lược, phá hoại từ bên ngoài. Lịch sử tồn tại, phát triển

của dân tộc Việt Nam đã là minh chứng hiển nhiên về bài học xương máu đó. Đối với các dân
tộc khác trên thế giới, muốn tồn tại, vượt qua những nguy cơ xâm lược, đồng hóa hay chèn
ép, xung đột để phát triển đều phải khẳng định một sức mạnh tinh thần to lớn từ độc lập tự
cường. Chỉ có điều, biểu hiện của tinh thần độc lập tự cường ấy ở mỗi nước, tùy theo những
điều kiện đặc điểm khác nhau mà thể hiện một cách sinh động, đa dạng. Đó cũng chính là một
đặc tính văn hóa, “cái làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác”.
3.2.

Hồ Chí Minh về xây dựng “luân lý”

10


Theo cách hiểu của Hồ Chí Minh quan trọng nhất của nó là “biết hy sinh làm lợi cho
quần chúng”. Đó cũng chính là nội dung quan trọng nhất của những chuẩn mực đạo đức xã
hội mà con người chúng ta nói chung hay mỗi cán bộ cách mạng nói riêng cần hướng tới.
Tiêu chuẩn con người cán bộ “cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng, vơ tư” chính là sự phát triển
đầy đủ hơn từ tiêu chí xây dựng văn hóa này. Nói cách khác, xây dựng văn hóa về “luận lý”
chính là xây dựng văn hóa sống của con người. Trong các chế độ xã hội dựa trên nền tảng của
chế độ tư hữu thì chính quan hệ bóc lột, sự bất công bằng giữa người với người tạo thành
những yếu tố, những điều kiện hình thành lối sống vụ lợi, ích kỷ, thúc đẩy con người đi tới
chủ nghĩa cá nhân.
3.3.

Hồ Chí Minh về xây dựng “xã hội”

Hồ Chí Minh coi đó là “một sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã
hội”. Ở bình diện này, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến cả “một sự nghiệp”. Đây cũng chính là
một nhận thức nhất quán, chỉ đạo hành động trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Năm 1946, ngay sau Cách mạng Tháng Tám, Người khẳng định: “Tôi

chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập,
dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
Khi nói về chủ nghĩa xã hội, nhiều lần Hồ Chí Minh đã đặt “phúc lợi của nhân dân” như là ý
nghĩa quan trọng nhất của khái niệm này: “Chủ nghĩa xã hội là mọi người dân được áo ấm
cơm no, nhà ở tử tế, được học hành”; “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ
mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già khơng lao động được
thì nghỉ”... Chủ tịch Hồ Chí Minh nhìn nhận “phúc lợi” khơng chỉ đơn thuần là những giá trị
vật chất, mà còn là những yêu cầu về “tự do”, “dân chủ”, “học hành”, “nghỉ ngơi”, những
điều kiện cần và đủ cho con người phát triển một cách tồn diện.
3.4.

Hồ Chí Minh về xây dựng “chính trị”:

Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong chính trị xuất phát từ truyền thống văn hố dân
tộc, được kết tinh qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước và đặc biệt là tính dân quyền.
3.5.

Hồ Chí Minh về xây dựng “kinh tế”:

Bác quan niệm phát triển kinh tế là nhiệm vụ quan trọng nhất, nhiệm vụ quan trọng nhất
của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,… có cơng
nghiệp và nơng nghiệp hiện đại, có văn hố và khoa học tiên tiến. Trong q trình cách mạng
11


xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây
dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài.
4. HỒ CHÍ MINH NHÀ VĂN HÓA KIỆT SUẤT
Đại hội đồng UNESCO Khóa họp lần thứ 24 tại Pari đã thơng qua Nghị quyết 24C/18.65
về kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tơn vinh Người là Anh hùng giải

phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất Việt Nam. Kỷ niệm 120 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ
Chí Minh, bà Katherine Muller Marin, Trưởng đại diện Văn phịng UNESCO Hà Nội phát
biểu: “Tơi có mặt tại đây ngày hơm nay để hồn thành sứ mệnh của Nghị quyết được Đại hội
đồng UNESCO thơng qua tại Khóa họp lần thứ 24 của cơ quan này tại Pari năm 1987, về việc
kỷ niệm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị anh hùng dân tộc và nhà văn hóa lớn và dĩ
nhiên khơng phải tự nhiên mà Bác được cả thế giới tôn vinh như vậy.
4.1.

Một nhà lý luận văn hóa, tu dưỡng, kế thừa những nền văn hóa trên thế giới

Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, gần gũi với nhân dân tại xứ
Nghệ, một vùng đất “địa linh, nhân kiệt”, mang đậm chất văn hoá truyền thống chung của dân
tộc và những nét đặc trưng riêng của dải đất miền Trung. Chính mái ấm gia đình thanh cao
và q hương anh dũng ấy đã nuôi dưỡng trong tâm hồn Hồ Chí Minh lịng u thương con
người, đức tính khiêm nhường, ơn hồ, trọng nghĩa, trọng tình, khơng ham phú q, không
màng danh lợi, ham học hỏi, ham hiểu biết… và đặc biệt là đạo đức “lấy mình làm gương”.
Trên hành trình tìm con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã luôn tiếp thu, kế thừa kế thừa
những giá trị tinh hoa của những nền văn hoá trên thế giới: sự tu dưỡng đạo đức cá nhân của
Khổng giáo - tinh hoa văn hóa Trung Hoa; lịng nhân ái, vị tha của Phật giáo - tinh hoa văn
hoá của Ấn Độ; lòng nhân từ và đức hy sinh… của Thiên Chúa giáo; tư tưởng tự do, bình
đẳng, bác ái của cách mạng tư sản Pháp… Tuy nhiên, nói đến văn hóa nhân loại có tầm cỡ vĩ
đại nhất và ảnh hưởng lớn nhất đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh phải nói đến chủ nghĩa MácLênin. Đối với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác-Lênin cũng giống như chiếc cẩm nang thần kỳ,
“là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa cộng sản”. Tìm được con đường cứu nước đúng đắn, con đường cách mạng vô sản,
Người trở về nước vào ngày 28/1/1941 để lãnh đạo nhân dân Việt Nam làm cách mạng giải
phóng dân tộc. Tại Cao Bằng, Người đã thành lập Mặt trận đoàn kết dân tộc, tổ chức lực
lượng vũ trang, vận động nhân dân đấu tranh giành độc lập vào năm 1945, lập nên nước Việt
12



Nam Dân chủ Cộng hòa, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, giải phóng các tầng lớp nhân
dân lao động khỏi ách áp bức bóc lột của thực dân, phong kiến trở thành người làm chủ nước
nhà, từng bước đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội, xóa bỏ tận gốc bóc lột, bất cơng. Đó
khơng phải chỉ là một sự nghiệp chính trị phi thường mà cịn là một sự nghiệp văn hoá cao
cả. Người đã kết hợp hài hịa tinh hoa văn hóa dân tộc, văn hóa nhân loại vào tư tưởng của
mình, lồng ghép vào đường lối xây dựng và phát triển đất nước mà Đảng và đất nước dựa vào
để để làm kim chỉ nam cho việc định hướng và phát triển đất nước.
4.2.

Nhà quản lý nền văn hóa

Quan điểm của Người là văn hóa khơng thể tách rời với quốc gia dân tộc, văn hóa mang
tâm hồn, diện mạo dân tộc. Người chỉ rõ những mục tiêu cơ bản mà cách mạng Việt Nam cần
phải đạt được trong lĩnh vực văn hoá là: “Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh
hưởng nơ dịch của văn hố đế quốc. Đồng thời phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn
hoá dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hoá tiến bộ thế giới, để xây dựng một nền văn
hố Việt Nam có tính dân tộc, khoa học và đại chúng”.
Để rồi Ngày 28/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập Bộ Thông tin tuyên
truyền, thành viên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Với quan điểm “Một dân tộc dốt là
một dân tộc yếu”, Người chủ trương một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc sau
ngày nước nhà giành được độc lập là phát triển văn hóa, xố mù chữ, nâng cao dân trí, phát
triển giáo dục. Ngày 8/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký 3 sắc lệnh quan trọng về giáo dục là
sắc lệnh về việc thành lập Nhà Bình dân học vụ, sắc lệnh quy định mọi làng phải có lớp học
bình dân và sắc lệnh cưỡng bức học chữ quốc ngữ không mất tiền. Thực hiện lời kêu gọi của
Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Những người đã biết chữ hãy dạy cho những người chưa biết chữ”...
Vợ chưa biết thì chồng bảo, em chưa biết thì anh bảo, cha mẹ khơng biết thì con bảo, người
ăn người làm khơng biết thì chủ nhà bảo”, một phong trào diệt giặc dốt đã dâng cao trong cả
nước. Nhờ đó, chỉ một năm sau Cách mạng tháng Tám, đã có 2,5 triệu người dân biết đọc,
biết viết. Cơng tác văn hố, giáo dục, y tế cũng được chính quyền mới quan tâm đẩy mạnh.
Ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 45 thành lập một ban Đại học Văn

khoa tại Hà Nội nhằm đào tạo giáo viên văn học Việt Nam cho xứng đáng một nước độc lập
và theo kịp các nước tiên tiến trên thế giới. Tính ưu việt của chế độ xã hội mới đã được khẳng
định và phát huy. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định càng thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin,
càng phải coi trọng truyền thống tốt đẹp của cha ông. Nhưng giữ gìn, phát huy truyền thống,
13


bản sắc văn hố dân tộc, khơng có nghĩa là tự bó mình trong chủ nghĩa dân tộc hẹp hịi, thiển
cận mà phải ra sức nghiên cứu học tập tinh hoa văn hố của thế giới. Chính Người, với bản
lĩnh của nhà văn hóa, nhà ngoại giao kiệt xuất, bằng sự nghiệp hoạt động cách mạng, hoạt
động văn hóa của mình, đã là người Việt Nam đầu tiên bắc nhịp cầu hữu nghị giữa nhân dân
Việt Nam với các dân tộc trên thế giới.
Năm 1958, theo lời mời cuả Thủ tướng Ấn Độ, Chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm Ấn
Độ. Trong bữa tiệc do Thủ tướng Nêru chiêu đãi Bác có món thịt gà địa phương rất nổi tiếng.
Phong tục của người Ấn Độ khi ăn cơm không dùng thìa, dĩa mà dùng 5 ngón tay để bốc thức
ăn. Cả Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ cũng muốn dùng tay bốc thức ăn. Nhưng tại bữa tiệc
quốc tế người ta phải dùng dao, thìa, dĩa cho lịch sự. thì khi mà món thịt gà được đưa ra, các
quan khách Ấn Độ có vẻ khơng quen dùng dao, dĩa. Bác rất tinh ý và nói với Thủ tướng Neru
rằng: “Thịt gà phải ăn bằng tay thì mới ngon, chứ cịn ăn bằng thìa dĩa thì khác nào nói
chuyện với người yêu lại phải qua ông phiên dịch”. Nghe Bác Hồ nói vậy, cả bàn tiệc cười
vang làm cho khơng khí bữa tiệc hơm đó rất vui và thân mật.
4.3.

Khơng những là nhà cách mạng mà cịn là nhà văn hóa lớn, Hồ Chí Minh đã để

lại một sự nghiệp văn hóa vơ cùng trong sáng và đẹp đẽ.
Là chiến sĩ tiên phong của nền văn học - nghệ thuật, báo chí cách mạng, đấu tranh cho
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cho cơng bằng, tình thương và lẽ phải trên trái đất, sự
đóng góp của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa rất phong phú và đa dạng, thấm đượm trong
toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp của Người. Chủ tịch Hồ Chí Minh là tác giả của hơn 250 bài

thơ, khoảng 2.000 bài báo, nhiều truyện, văn chính luận, tiểu phẩm văn học như: Bản án chế
độ thực dân Pháp (Đăng báo từ năm 1920; xuất bản lần đầu bản tiếng Pháp, Pari, 1925), Đây
“Công Lý” của thực dân Pháp ở Đông Dương (Đăng báo từ năm 1921 đến 1926, xuất bản lần
đầu, bản tiếng Việt, Hà Nội, 1962), Đường Kách mệnh (1927), Nhật ký chìm tàu (1931), Ngục
Trung Nhật Ký, viết 1943; xuất bản lần đầu nguyên văn chữ Hán và bản dịch tiếng Việt 1960,
Tuyên ngôn độc lập (1945)….nhưng Người khước từ mọi danh hiệu văn hóa - văn nghệ mà
chỉ nhận là nhà cách mạng chuyên nghiệp, mỗi một tác phẩm của Người đều có sự ảnh hưởng
lớn lao về tầm vóc tư tưởng, phong phú về thể loại và đa dạng về phong cách như: Văn chính
luận thường ngắn gọn xúc tích, lập luận chặt chẽ, lý lẽ đanh thép, bằng chứng đầy thuyết phục
giàu tính chính luận; truyện và kí rất hiện đại, thể hiện tính đấu tranh mạnh mẽ và nghệ thuật
trào phúng sắc bén. Hồ Chí Minh đã là người sáng lập ra nhiều tờ báo cách mạng đầu tiên ở
14


Việt Nam, là người đặt nền móng cho nền giáo dục văn học, thơ ca cách mạng của nước ta.
Những người làm cơng tác văn hóa, văn học nghệ thuật cịn ln nhớ tới sự quan tâm tồn
diện, sát sao của Bác dành cho sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa, nghệ thuật của
dân tộc: Từ vị trí, vai trị, chức năng, nhiệm vụ của ngành văn hoá trong sự nghiệp cách mạng
đến nguồn gốc, đối tượng phục vụ, phạm vi phản ánh của văn hoá nghệ thuật.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại một cách có chọn lọc rồi
vận dụng tinh hoa đó một cách sát hợp vào những điều kiện cụ thể của đất nước, của dân tộc
vì mục đích khơng chỉ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc mình mà cịn góp phần tích cực nhất
vào sự nghiệp của các dân tộc khác trên thế giới.
5. SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH CỦA ĐẢNG VÀ PHÁT TRIỂN
ĐẤT NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (tháng 7-1998) đã ban
hành nghị quyết chuyên đề về “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, cho
thấy chuyển biến hết sức mạnh mẽ trong nhận thức của Đảng về tầm quan trọng của văn hóa
bên cạnh vấn đề phát triển kinh tế và xây dựng Đảng. Nghị quyết khẳng định: “Văn hóa là
nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Mọi hoạt động văn hóa, văn nghệ phải nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên

tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn,
tình cảm, lối sống, xây dựng mơi trường văn hóa lành mạnh cho sự phát triển xã hội”2.
5.1.

Quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng và phát triển đất

nước trong giai đoạn hiện nay
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng, chỉ rõ: Hoàn cảnh nước ta đòi hỏi và cho
phép xây dựng sớm, xây dựng từng bước con người mới, không phải chờ đến sau khi phát
triển cao nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Xây dựng nền văn hóa mới và con người mới là
điều cần và có thể thực hiện được từng bước, từng phần ngay từ hôm nay. Trong chặng đường
trước mắt, có những điều kiện khách quan và chủ quan cho phép chúng ta bước đầu tạo ra

Đảng Cộng sản Việt Nam: “Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng”, Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và hội nhập (Đại hội VI, VII, VIII,
IX, X, XI), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2013, tr. 356 - 357
2

15


một xã hội đẹp về lối sống, về quan hệ giữa người và người, một xã hội trong đó nhân dân
lao động cảm thấy sống hạnh phúc, tuy mức sống vật chất còn chưa cao.
Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Mọi hoạt
động văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển tồn diện về chính trị, tư tưởng,
trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lịng nhân ái, khoan dung,
tơn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ hài hịa trong gia đình, cộng đồng và xã
hội. Bước phát triển trong quan điểm của Đảng về văn hóa thời kỳ này là nhấn mạnh mục
tiêu hồn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Đại hội

xác định nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện. Để đạt
được mục tiêu đề ra, các chương trình hành động phải được triển khai đồng bộ, chú trọng việc
mở rộng và nâng cao hiệu quả cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa”, “Xây dựng nếp sống văn minh và gia đình văn hóa”, phong trào “Người tốt, việc tốt”,
làm cho văn hóa thấm sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người.
Đến Đại hội X của Đảng, với quan điểm văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, những
yêu cầu về tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm
cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và việc xây dựng, hoàn thiện giá
trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế,… được khẳng định lại, tiếp nối quan
điểm về văn hóa từ kỳ đại hội trước. Đại hội lần này cũng đề ra yêu cầu đa dạng hóa các hình
thức hoạt động của phong trào “Tồn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hóa”, xây dựng và
nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế văn hóa, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống nhà
văn hóa, bảo tàng, nhà truyền thống…
Kết luận Hội nghị Trung ương 10, khóa IX cũng nhấn mạnh: “Tiếp tục đặt lên hàng đầu
nhiệm vụ xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống lành mạnh trong xã hội, trước hết
là trong các tổ chức đảng và nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân nước và

16


trong từng cá nhân, gia đình, thơn xóm, đơn vị, tổ chức cơ sở…Cần xác định đây là nhiệm vụ
quan trọng thường xuyên, vừa cấp bách, vừa cơ bản, lâu dài”3.
Đại hội XI, của Đảng định hướng chăm lo phát triển văn hóa, nhiệm vụ chăm lo phát
triển văn hóa được đúc kết một cách cô đọng: “… xây dựng nếp sống văn hóa trong các gia
đình, khu dân cư, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi mặt đời
sống… Tiếp tục đẩy mạnh việc giáo dục, bồi dưỡng đạo đức, lối sống có văn hóa; xây dựng
nếp sống văn minh trong việc cưới, tang, lễ hội…”4.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, khoá XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng

hiện nay” nhấn mạnh: “Ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các
cấp”.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, khoá XII “về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng;
ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” đề ra mục tiêu: “Nhận thức sâu sắc về nguy cơ,
nhận diện đúng những biểu hiện và đề ra các giải pháp ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình
trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ. Kiên quyết khắc phục những yếu kém trong công tác cán bộ và
quản lý cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ và đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các
cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, trách nhiệm, năng lực và động cơ đúng đắn,
thực sự tiên phong, gương mẫu, ln đặt lợi ích của tập thể, quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích
cá nhân, thực sự là cán bộ của dân. Củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng”5.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII với nhiệm vụ “xây dựng, chỉnh đốn
Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Coi trọng
xây dựng Đảng về tư tưởng”. Nghị quyết khẳng định “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch,

Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2004), Tài liệu nghiên cứu Kết luận Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa VIII, Nxb. Chính trị Quốc gia, H, tr.65.
4
Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật,
H, tr.223.
5
Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phịng
Trung ương Đảng, H, tr.34 - 35.
3

17



cơ hội chính trị; đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”6.
5.2.

Kết quả

Tư tưởng, đạo đức, lối sống và mặt trận văn hóa có nhiều chuyển biến tích cực Xã hội
đã hình thành khn mẫu về xây dựng lối sống, nếp sống, mơi trường văn hóa tiến bộ, hình
thành chuẩn mực giá trị tư tưởng, đạo đức là yêu nước, thương dân. Các tầng lớp nhân dân
luôn trân trọng và phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
yêu quê hương đất nước, quan tâm đến đồng bào, tràn đầy sức sống, dũng cảm đổi mới, có
hồi bão, bản lĩnh chính trị vững vàng.
Các giá trị văn hóa mới về tư tưởng, văn hóa, đạo đức, lối sống theo hướng xã hội chủ
nghĩa phù hợp với đời sống thực tiễn truyền cảm hứng về tư tưởng, đạo đức, lối sống văn
hóa..., ai cũng muốn làm giàu một cách chính đáng, chứ khơng phải thụ động, dần dần thoát
khỏi bao cấp, tự ti. Những phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, “uống nước nhớ nguồn”... giúp
nhau xóa đói, giảm nghèo, khắc phục khó khăn, rủi ro do thiên tai, dịch bệnh, tai nạn... Lối
sống đẹp, chử chỉ đẹp, lòng nhân ái ngày càng được lan tỏa trong trong xã hội
Sinh hoạt cưới tang, lễ hội tạo ra diện mạo mới trong đời sống cộng đồng, bảo tồn, chấn
hưng các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc có sự tiến bộ rõ rệt, trật tự kỷ cương xã hội
trong việc cưới, việc tang và lễ hội từng bước được thiết lập; nhận thức về luật pháp và ý thức
tôn trọng pháp luật của người dân được nâng lên. Hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước các
hoạt động văn hoá ở cơ sở được khẳng định
5.3.

Định hướng của Đảng và những giải pháp trong giai đoạn hiện nay

Thứ nhất, tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nâng cao nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn nữa về văn
hóa theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết

số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 và Kết luận số 76-KL/TW ngày 04/6/2020 trước hết là ở các
cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa: Làm tốt vai trị tham mưu cho các cấp ủy đảng, chính
quyền để Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị.

Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự
thật, H, tr.180,183.
6

18


Thứ hai, xác định nhiệm vụ tham mưu, đề xuất xây dựng, hồn thiện thể chế, cơ chế,
chính sách phát triển văn hóa, thể thao và du lịch là nhiệm vụ trọng tâm ưu tiên, đột phá phục
vụ công tác quản lý nhà nước của Bộ, trên cơ sở xuất phát từ thực tiễn. Giai đoạn 2021-2025
và đến năm 2030 tập trung tham mưu, đề xuất xây dựng các dự án Luật, Nghị định thuộc lĩnh
vực văn hóa .
Thứ ba, định hình hệ sinh thái văn hóa, xây dựng mơi trường văn hóa lành mạnh.
Thứ tư, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện. Sự hoàn thiện con người cần
và chỉ có thể thực hiện được trong văn hóa và bằng văn hóa. Do đó, cần xác định và thực hành
hệ giá trị con người Việt Nam với những phẩm chất phù hợp yêu cầu của thời đại mới như
u nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đồn kết, cần cù, sáng tạo.
Thứ năm, phát triển các ngành Cơng nghiệp văn hóa có trọng tâm, trọng điểm để phát
huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam, dựa trên sự sáng tạo, khoa học công nghệ và bản
quyền trí tuệ, phấn đấu đạt mục tiêu doanh thu của các ngành cơng nghiệp văn hóa đóng góp
7% GDP vào năm 2030; gắn phát triển văn hóa với phát triển du lịch, đưa du lịch thành một
ngành kinh tế mũi nhọn, đồng thời bảo vệ, gìn giữ tài nguyên văn hóa cho các thế hệ mai sau.
Thứ sáu, quan tâm, dành nguồn lực thỏa đáng để đầu tư cho văn hóa. Văn hóa giữ vai
trị điều tiết xã hội bằng hệ thống giá trị, chuẩn mực văn hoá của cộng đồng, văn hóa giữ vai
trị định hướng sự phát triển của xã hội bằng mục đích nhân văn của mình và cột mốc văn hóa
trong tâm trí con người ln là cột mốc vững chắc nhất. Do vậy, đầu tư cho văn hóa là đầu tư

lâu dài để hướng tới tương lai.
Mối quan tâm xuyên suốt của Đảng và Nhà nước dành cho văn hóa, cùng sứ mệnh “văn
hóa soi đường cho quốc dân đi” không chỉ là niềm vinh dự, tự hào mà còn khắc sâu hơn ý
thức trách nhiệm của mỗi trí thức, văn nghệ sĩ, nhà văn hóa, nhà quản lý, những người thực
hành văn hóa.

19


PHẦN KẾT THÚC
Trong dịng chảy của văn hóa Việt Nam sau ngần ấy thời gian, nhận thức về văn hóa, xã
hội, con người ngày càng toàn diện, sâu sắc hơn. Tư tưởng, đạo đức, văn hóa và lối sống lĩnh vực then chốt của văn hóa đã có những chuyển biến tích cực. Hệ thống chính sách pháp
luật về văn hóa tiếp tục được hồn thiện, tạo điều kiện cho mọi tầng lớp nhân dân tham gia
tích cực vào hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn hố; cơng tác bảo tồn, phát huy di sản văn
hóa. Vì vậy, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa là một điều rất cần thiết và
rất cần được quan tâm và chú trọng trong giai đoạn hiện nay.
QUÁ TRÌNH VÀ Ý NGHĨA THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
Nhằm cụ thể hóa các quan điểm mới về phát triển văn hóa, con người Việt Nam được
đặt ra các giải pháp vừa bảo đảm tính trước mắt, vừa có tính căn cơ, lâu dài trên tinh thần đổi
mới sáng tạo, có tính đột phá, với những nhóm nội dung trọng tâm. Theo đó, tập trung nâng
cao nhận thức về văn hóa và nhiệm vụ phát triển văn hóa, con người Việt Nam của toàn xã
hội, trước hết là của cán bộ, đảng viên, các tổ chức Đảng, chính quyền; Định vị tầm nhìn rộng
để hoạch định chiến lược phát triển văn hóa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của đất nước
ta; Chú trọng xây dựng mơi trường văn hóa lành mạnh và nhân văn trong hệ thống chính trị,
trong từng cộng đồng thôn làng, khu dân cư, tổ dân phố, trường học, cơ quan, doanh nghiệp
và mỗi gia đình; Tiếp tục kiên trì mục tiêu xây dựng nền văn hóa Việt Nam phát triển tồn
diện, hình thành hệ giá trị văn hóa mới trên cơ sở kế thừa và phát huy những giá trị nhân văn
sâu sắc. Nhưng bên cạnh đó cũng cịn nhiều thách thức sự xâm nhập của văn hóa phản giá trị,
có những nội dung khơng lành mạnh trong đời sống của nhân dân. Vì vậy việc quyết tâm
cao, nỗ lực lớn, đoàn kết, sáng tạo, vừa phát huy truyền thống vẻ vang và những thành tựu

đạt được, vừa khai thác hiệu quả các tiềm năng, lợi thế, tận dụng tối đa những cơ hội, huy
động được nguồn lực tổng hợp và nhất là nguồn lực từ niềm tin, sự đồng lịng, nhất trí, ý chí
và khát vọng vươn lên của mỗi cán bộ, đảng viên và Nhân dân để phục vụ sự nghiệp xây dựng
và phát triển nhanh, bền vững đất nước và đặc biệt là quay về học tập với những giá trị quý
báu mà tư tưởng Hồ Chí Minh đã mang lại và để làm rõ hơn sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh trong lĩnh vực văn hóa, do đó mà chủ đề “Hồ Chí Minh là một nhà văn hóa kiệt xuất.
Sự vận dụng tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh của Đảng trong giai đoạn hiện nay” đã được
chọn cho phần báo cáo tiểu luận kết thúc mơn học Tư tưởng Hồ Chí Minh.

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (Dành cho Bậc Đại Học Hệ không Chuyên Lý
Luận Chính Trị) - Xuất bản lần thứ 11.
2. Đại cương lịch sử Văn hóa Việt Nam tập IV - Nguyễn Khắc Thuần.
3. Đại cương lịch sử Văn hóa Việt Nam tập II - Nguyễn Khắc Thuần.
4. Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh những tác phẩm tiêu biểu từ 1919 - 1945, NXB
Giáo dục - 2000.
5. />6. />7. />8. />9. />10. />11. Một số tài liệu khác…

21



×