A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Đào tạo thế hệ trẻ trở thành những người năng động sáng tạo, độc lập tiếp thu
tri thức là một vấn đề mà nhiều nhà giáo dục đã và đang quan tâm trong giai đoạn
hiện nay.
Đổi mới phương pháp dạy học là tổ chức các hoạt động học tập tích cực cho
người học. Từ đó khơi dậy và thúc đẩy lòng ham muốn, phát triển nhu cầu tìm tịi,
khám phá, từ đó phát huy khả năng tự học của họ. Trước vấn đề đó, người giáo viên
khơng ngừng tìm tịi, khám phá, khai thác, xây dựng hoạt động, vận dụng, sử dụng
phối hợp các phương pháp dạy học sao cho phù hợp với từng kiểu bài, từng đối
tượng học sinh, xây dựng cho học sinh hướng phát huy chủ động, sáng tạo
Trong những năm qua, một thực trạng là càng ngày tính đa dạng về trình độ
học sinh trong các lớp càng tăng. Do đó, làm cách nào để có thể giúp cho học sinh
khai thác tối đa bài giảng của thầy, nhất là đối với học sinh yếu. Ở các em có sự
khác biệt về: khả năng tiếp thu bài, phong cách nhận thức, sức khoẻ… so với những
học sinh khác. Cần xem xét những học sinh này với những đặc điểm vốn có của các
em để tìm ra những biện pháp nhằm dẫn dắt các em đạt đến kết quả tối đa, tránh cho
các em bị rơi vào những khó khăn thường trực trong học tập. Đó chính là điều mà
bản thân muốn trao đổi, chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp để giúp đỡ đối
tượng học sinh yếu.
Việc vận dụng sự đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh yếu khơng chỉ là
trách nhiệm mà cịn là bổn phận, nghĩa vụ của người thầy. Mặc khác, nếu quan tâm
đến việc phụ đạo học sinh yếu thì sẽ làm cho các em tự tin hơn khi đến lớp, cơng tác
duy trì sĩ số mới được đảm bảo, góp phần làm nên thắng lợi của công tác phổ cập
giáo dục tiểu học ở địa phương.
Với những lí do trên, ngay đầu năm học, từ giai đoạn tổ chức lớp cho đến khi
giảng dạy, bản thân luôn chú ý, quan tâm đến việc giúp đỡ học sinh yếu. Đây sẽ là
nền tảng, là động lực để thúc đẩy các em tiếp thu bài đầy đủ, được trau dồi tri thức
và tiếp tục vươn xa trên con đường học vấn của mình.
Từ những suy nghĩ trên, bản thân đã mạnh dạn chọn đề tài: “Một số biện
pháp đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh yếu” để áp dụng vào thực tế lớp 2
tơi đang chủ nhiệm nói riêng và học sinh trường Tiểu học phường 8A nói chung.
1. Mục đích nghiên cứu:
Qua những năm trực tiếp giảng dạy, bản thân cũng nắm bắt và thấu hiểu được
tâm lí lứa tuổi học sinh tiểu học. Nếu các em được sống trong sự u thương, chăm
sóc, quan tâm của gia đình, thầy cơ và có một mơi trường học tập tốt thì các em sẽ
ham thích, say mê và nỗ lực trong học tập. Điều này có tác động rất lớn đến các em
là học sinh yếu, giúp các em tự tin hơn trong việc học của mình. Việc phụ đạo học
sinh yếu hay nói khác hơn, để nâng cao chất lượng giáo dục khơng chỉ là trách
nhiệm của nhà trường, gia đình mà là của tồn xã hội. Vì vậy, đây là động lực để
những ai đang làm công việc “trồng người” luôn cố gắng tìm ra được những tồn tại
và nguyên nhân làm cho chất lượng phụ đạo học sinh yếu chưa đạt hiệu quả cao. Và
từ đó sẽ có những biện pháp khắc phục phù hợp. Đây cũng chính là mục đích của đề
tài này.
2. Nhiệm vụ:
- Khảo sát tình hình học yếu của học sinh lớp 2 hiện nay.
- Tiếp cận với học sinh, các thầy cô trong khối, các bậc phụ huynh học sinh để tìm ra
những biện pháp có hiệu quả nhất trong việc phụ đạo học sinh yếu.
- Rút ra kết luận và những kinh nghiệm để giải quyết một số khó khăn (nếu có)
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.
B: NỘI DUNG
I- Thuận lợi, khó khăn:
a . Thuận lợi
Đối với học sinh lớp 2 là lớp bắt đầu tập tự thân mình làm mọi hành động của
bậc tiểu học nên ý thức, động cơ học tập của các em tương đối cao. Học sinh lớp 2
có thể tiếp nhận sự giúp đỡ trong học tập từ nhiều phía. Trong đó, bạn học với vai
trị “ Đơi bạn cùng tiến” đã giúp các em học sinh yếu giảm bớt phần nào khó khăn
trong học tập.
Đội ngũ giáo viên khối nhiệt tình, thân thiện ln quan tâm đến từng đối
tượng học sinh đặc biệt là học sinh yếu. Sự quan tâm, phối hợp của Ban Giám Hiệu
và Đoàn thể nhà trường.
Hiện nay, việc thực hiện đổi mới công tác dạy và học theo hướng khốn nội
dung chương trình cho phép giáo viên chủ động thời lượng trong từng phân mơn,
từng bài học. Vì vậy, việc giúp đỡ các em trên lớp dễ dàng hơn, chủ động hơn
b. Khó khăn;
Như đã nêu, đối tượng học sinh yếu có những khác biệt. Và hơn thế nữa, trong
từng cá nhân của đối tượng này cũng là sự khác biệt về phong cách nhận thức.Vì
vậy, mỗi dạng đối tượng cần có sự tác động khác nhau. Trong thực tế, những học
sinh yếu môn Tốn, Tiếng Việt thì những mơn học khác cũng bị ảnh hưởng. Điều
này địi hỏi sự nỗ lực kiên trì của thầy và trò rất cao.
Đối tượng học sinh yếu thường là những em có hồn cảnh khó khăn về kinh tế,
cha mẹ ly hôn, cuộc sống không ổn định hoặc là gia đình người đồng bào dân tộc
thiểu số, ít quan tâm đến việc học tiếng Việt.
Ngoài ra, các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả giáo dục như: Đội ngũ giáo viên, cơ
sơ vật chất.
Trước những thách thức đó địi hỏi người thầy phải nỗ lực bản thân, kiên trì,
bền bỉ cùng nhà trường khắc phục khó khăn và từng bước nâng cao chất lượng giáo
dục.
II. Thực trạng tình hình:
Học sinh của lớp tôi chủ nhiệm là học sinh thuộc vùng ven của thành phố Bạc
Liêu. Hoàn cảnh gia đình của các em cịn gặp nhiều khó khăn, khơng có việc làm ổn
định, đa số đi làm mướn. Khơng có thời gian quan tâm đến tình hình học tập của con
em mình, cịn “khốn trắng” việc học tập của các em cho giáo viên chủ nhiệm và
nhà trường.
Ngay từ đầu năm học, khi bắt đầu nhận lớp, tôi tiến hành khảo sát chất lượng
của các em, cụ thể như sau:
Tổng số học sinh : 27 em
- Học Giỏi:
5 em
- Học Khá:
7 em
- Học Trung bình: 8 em
- Học Yếu:
7 em
Căn cứ vào kết quả khảo sát, tôi nhận thấy chất lượng học sinh yếu của lớp cịn
cao. Qua tìm hiểu tôi đã nắm được một số nguyên nhân sau:
III. Nguyên nhân dẫn đến học sinh yếu .
a. Về phía học sinh:
Học sinh lười học: Qua quá trình giảng dạy, bản thân nhận thấy rằng các em
học sinh yếu là những học sinh cá biệt, vào lớp không chịu chú ý chun tâm vào
việc học, về nhà thì khơng xem bài, khơng chuẩn bị bài, cứ đến giờ học thì cắp sách
đến trường.
Cịn một bộ phận nhỏ thì các em khơng xác định được mục đích của việc học.
Các em chỉ đợi đến khi lên lớp, nghe giáo viên giảng bài rồi ghi vào những nội dung
đã học sau đó về nhà lấy tập ra “ học vẹt” mà không hiểu được nội dung đó nói lên
điều gì.
Một số học sinh khơng có thời gian cho việc tự học, khi ở nhà các em phải
phụ giúp việc cùng với gia đình. Học sinh bị hổng kiến thức từ lớp dưới.
b. Về phía giáo viên:
Ngun nhân học sinh học yếu khơng phải hoàn toàn là ở học sinh mà một
phần ảnh hưởng không nhỏ là ở người giáo viên. Thầy hay thì mới có trị giỏi. Ngày
nay, để có thể thực hiện tốt trong cơng tác giảng dạy thì địi hỏi giáo viên phải khơng
ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Tuy nhiên, ở đây không
phải giáo viên nào có trình độ học vấn cao, tốt nghiệp giỏi thì sẽ giảng dạy tốt mà ở
đây giáo viên phải biết lựa chọn phương pháp dạy học nào là phù hợp với từng đối
tượng học sinh và với từng nội dung kiến thức.
Qua q trình cơng tác bản thân nhận thấy, vẫn còn một bộ phận nhỏ giáo
viên chưa chú ý quan sát đến các đối tượng học sinh, đặc biệt là học sinh yếu. Chưa
tìm tịi nhiều phương pháp dạy học mới kích thích tính tích cực, chủ động của học
sinh. Chưa thật sự quan tâm tìm hiểu đến hồn cảnh gia đình của từng học sinh.
Trên đây là một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh học yếu mà bản
thân nhận thấy trong q trình cơng tác. Qua việc phân tích những ngun nhân đó,
bản thân đưa ra một số biện pháp để giáo dục, phụ đạo học sinh yếu. Trong phạm vi
của bài viết, bản thân chỉ đề cập đến biện pháp giúp đỡ học sinh yếu ở hai mơn Tốn
và Tiếng Việt.
IV. NHỮNG BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
a. Những biện pháp chung
+ Giáo viên xây dựng môi trường học tập thân thiện
Sự thân thiện của giáo viên là điều kiện cần để những biện pháp đạt hiệu quả
cao. Thông qua cử chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ cười… giáo viên tạo sự gần gũi, cảm
giác an toàn nơi học sinh để các em bày tỏ những khó khăn trong học tập, trong cuộc
sống của bản thân mình,
Giáo viên ln tạo cho bầu khơng khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng, khơng
đánh mắng hoặc dùng lời thiếu tôn trọng với các em, đừng để cho học sinh cảm thấy
sợ giáo viên mà hãy làm cho học sinh thương u và tơn trọng mình.
Bên cạnh đó, giáo viên phải là người đem lại cho các em những phản hồi tích
cực. Ví dụ như giáo viên nên thay chê bai bằng khen ngợi, giáo viên tìm những việc
làm mà em hồn thành dù là những việc nhỏ để khen ngợi các em. Hoặc có thể dùng
các phiếu thưởng có in các lời khen phù hợp với từng việc làm của các em như:
“Biết giúp đỡ người khác”, “ Thái độ nhiệt tình và tích cực”…
+ Giáo viên phân loại các đối tượng học sinh
Giáo viên cần xem xét, phân loại những học sinh yếu đúng với những đặc
điểm vốn có của các em để lựa chọn biện pháp giúp đỡ phù hợp với đặc điểm chung
và riêng của từng em. Một số khả năng thường hay gặp ở các em là: Sức khoẻ kém,
khả năng tiếp thu bài, lười học, thiếu tự tin, nhút nhát.
Trong quá trình thiết kế bài học, giáo viên cần cân nhắc các mục tiêu đề ra
nhằm tạo điều kiện cho các em học sinh yếu được củng cố và luyện tập phù hợp.
Trong dạy học cần phân hóa đối tượng học tập trong từng hoạt động, dành cho
đối tượng này những câu hỏi dễ, những bài tập đơn giản để tạo điều kiện cho các em
được tham gia trình bày trước lớp, từng bước giúp các em tìm được vị trí đích thực
của mình trong tập thể. u cầu luyện tập của một tiết là 4 bài tập, các em này có
thể hồn thành 1, 2 hoặc 3 bài tuỳ theo khả năng của các em.
Ngồi ra, giáo viên có thể tổ chức phụ đạo cho những học sinh yếu khi các
biện pháp giúp đỡ trên lớp chưa mang lại hiệu quả cao. Có thể tổ chức phụ đạo từ 1
đến 2 buổi trong một tuần. Tuy nhiên, việc tổ chức phụ đạo phải kết hợp với hình
thức vui chơi nhằm lôi cuốn các em đến lớp đều đặn và tránh sự quá tải, nặng nề..
+ Giáo dục ý thức học tập cho học sinh:
Giáo viên phải giáo dục ý thức học tập của học sinh tạo cho học sinh sự hứng
thú trong học tập, từ đó sẽ giúp cho học sinh có ý thức vươn lên. Trong mỗi tiết dạy
giáo viên nên liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế để học sinh thấy được ứng dụng và
tầm quan trọng của môn học trong thực tiễn. Từ đây, các em sẽ ham thích và say mê
khám phá tìm tịi trong việc chiếm lĩnh tri thức.
Bên cạnh đó, giáo viên phải tìm hiểu từng đối tượng học sinh về hồn cảnh
gia đình và nề nếp sinh hoạt, khun nhủ học sinh về thái độ học tập, tổ chức các trị
chơi có lồng ghép việc giáo dục học sinh về ý thức học tập tốt và ý thức vươn lên
trong học tập, làm cho học sinh thấy tầm quan trọng của việc học. Đồng thời, giáo
viên phối hợp với gia đình giáo dục ý thức học tập của học sinh. Do hiện nay, có
một số phụ huynh ln gị ép việc học của con em mình, sự áp đặt và quá tải sẽ dẫn
đến chất lượng không cao. Bản thân giáo viên cần phân tích để các bậc phụ huynh
thể hiện sự quan tâm đúng mức. Nhận được sự quan tâm của gia đình, thầy cơ sẽ tạo
động lực cho các em ý chí phấn đấu vươn lên.
+ Kèm cặp học sinh yếu
Ngay từ đầu năm giáo viên phải khảo sát chất lượng để biết số lượng học sinh
yếu là bao nhiêu để có kế hoạch phụ đạo. Như lớp 2 mà bản thân chủ nhiệm, sau khi
thi khảo sát chất lượng đầu năm thì có 7 học sinh yếu và bản thân đã lên kế hoạch
phụ đạo cho các em. Chủ động gặp phụ huynh trao đổi về việc học của học sinh,
cùng với phụ huynh tìm biện pháp khắc phục
Lập danh sách học sinh yếu (theo mẫu dưới đây) và chú ý quan tâm đặc biệt
đến những học sinh này trong mỗi tiết dạy như thường xuyên gọi các em đó lên trả
lời câu hỏi, khen ngợi các em đó khi các em trả lời đúng,…
DANH SÁCH HỌC SINH YẾU LỚP …
Số
TT
Họ và tên
Tiếng Việt
1
Nguyễn Văn Đọc
A
yếu
Toán
Con ông Địa chỉ
( bà )
Viết yếu Không Tính
biết tính chậm,
yếu
2
…
.
b. Những biện pháp cụ thể:
* Tìm hiểu những hạn chế của học sinh trong bộ môn Tiếng Việt và biện pháp
khắc phục:
+ Tập đọc: Dù là học sinh lớp 2, nhưng trong lớp còn một số em đọc rất yếu.
Nguyên nhân đọc yếu ở các em là ngắt nghỉ hơi chưa đúng dấu câu, cụm từ, không
phân biệt được các dấu câu , chưa đạt được tốc độ đọc của học sinh lớp 2, với những
từ có vần khó thì phải đánh vần thật lâu, tùy tiện lượt bớt hoặc thêm từ vào khi đọc.
Bên cạnh đó, khả năng đọc trơi chảy, đọc hiểu một văn bản cịn hạn chế.
+ Chính tả: Đọc đúng là cơ sở, nền tảng của viết đúng. Vì vậy, các em đọc yếu
thường cũng viết yếu. Nguyên nhân các em viết yếu là do không hiểu và nắm nghĩa
của từ, không nắm vững âm, vần, dấu thanh và cách ghép, một số mắc lỗi do phát
âm chưa đúng nên dẫn đến.
+ Luyện từ và câu: Vốn từ vựng ít, thường mắc lỗi về ngữ pháp khi viết câu.
+ Tập làm văn: Khả năng đọc, viết hạn chế ảnh hưởng nhiều khi diễn đạt bằng lời,
diễn đạt khi viết. Hơn nữa, hoàn cảnh sống làm hạn chế khả năng hiểu biết của các
em. Vì vậy, các em gặp khó khăn khi cần mở rộng hiểu biết về cuộc sống theo các
chủ điểm đã học thông qua các kỹ năng như: phân tích đề, tìm ý, quan sát, viết đoạn
* Biện pháp
+ Tập đọc:
Đối với những học sinh đọc yếu thì giáo viên cần:
Tạo điều kiện cho học sinh được đọc nhiều trong giờ tập đọc như: thường
xuyên gọi các em đọc bài, luyện phát âm đúng, sửa sai kịp thời cho các em và cho
các em luyện đọc lại từ sai nhiều lần. Nếu thời gian của tiết học không đủ thì giáo
viên có thể tranh thủ cho các em luyện đọc thêm vào giờ giải lao 5 hoặc 10 phút.
Dặn các em về nhà đọc lại bài, có thể đọc tham khảo thêm một văn bản, một
bài tập đọc khác có nội dung phù hợp và quan trọng là giáo viên phải kiểm tra và
nhận xét đánh giá việc đọc ở nhà của các em để động viên khuyến khích kịp thời.
Bên cạnh đó, thỉnh thoảng một hoặc hai tuần giáo viên có thể đến nhà gặp phụ
huynh học sinh để xem cách học ở nhà của các em như thế nào, nếu thấy cần thiết
thì giáo viên đưa ra biện pháp giúp đỡ.
Giáo viên động viên học sinh xuống thư viện mượn truyện thiếu nhi, truyện
cổ tích đọc vào giờ nghỉ giải lao. Giáo viên nên dành thời gian để các em thể hiện
giọng đọc của mình, đọc câu chuyện trước lớp cho các bạn nghe, cho các bạn nhận
xét, đánh giá về sự tiến bộ của các em sau mỗi tuần. Làm được điều này, ta sẽ tạo
được niềm tin nơi các em rất nhiều, là động lực thúc đẩy các em say mê rèn đọc.
Khi các em đã đọc đúng thì giáo viên tổ chức cho các em luyện đọc trơi chảy
thơng qua các hình thức đọc trước lớp, đọc trong nhóm. Giúp học sinh mở rộng vốn
từ và hiểu nghĩa từ qua việc đọc chú giải và nghe bạn trình bày nghĩa một số từ
trong bài đọc, từ đó giúp các em hiểu nội dung bài đọc.
+ Chính tả:
Đối với những học sinh viết yếu thì giáo viên cần:
Tổ chức cho các em ôn lại âm, vần đã học. Giáo viên yêu cầu học sinh mỗi
ngày viết khoảng một trang vở gồm cả âm, vần, tiếng, từ. Sau đó, giáo viên đọc cho
học sinh viết một đoạn văn mà sử dụng nhiều các âm, vần vừa viết. Chúng ta có thể
cho các em viết vào giờ ra chơi hoặc về nhà viết. Các em sẽ có một vở riêng để
luyện viết và giáo viên phải thường xuyên kiểm tra, nhận xét đánh giá kịp thời.
Nếu có điều kiện thì u cầu các em đến nhà của giáo viên để luyện viết thì
các em sẽ tiến bộ nhanh hơn. Chỉ cần các em nắm hết các âm, vần thì dần dần các
em sẽ viết đúng chính tả. Khi các em đã nắm được các âm, vần thì đối với bài chính
tả trong sách giáo khoa, giáo viên cần cho học sinh nêu từ khó và luyện viết từ khó
nhiều lần, nhiều từ. Có thể cho các em có chọn từ để luyện viết thêm.
Đối với chính tả nhớ viết, các em này thường nhớ rất ít so với yêu cầu nên có
thể chấp nhận em viết đến hết phần nhớ được nhưng khuyến khích viết đúng chính
tả.
+ Luyện từ và câu:
Sửa lỗi ngữ pháp trong câu cụ thể, trong giao tiếp hàng ngày. Hướng dẫn các
em tra từ cách đặt câu, tạo cơ hội cho các em được nêu lên những câu văn đúng giúp
các , tạo sự ham thích tìm hiểu.
+ Tập làm văn:
Nhận dạng thể loại, xác định nội dung, viết đoạn.
Giáo viên chỉ ra lỗi cụ thể trên bài làm của học sinh.
Học sinh tự viết lại.
Cần tạo điều kiện để các em nhận xét bài của bạn, ghi chép lại ý hay nếu thích.
Khuyến khích các em trình bày bài viết trước lớp.
Gợi mở, tạo hứng thú cho các em bằng cách thay đổi những đề bài tập làm
văn thành những tình huống, nhằm tạo ra cho các em một hồn cảnh giao tiếp. Nhờ
có hồn cảnh giao tiếp, các em dễ bày tỏ suy nghĩ của mình hơn.
c. Tìm hiểu những hạn chế của học sinh trong bộ mơn Tốn và biện pháp
khắc phục
Trong lớp bản thân chủ nhiệm có nhiều em khơng biết tính khi học tốn. Ngun
nhân thì có rất nhiều, bản thân chỉ xin nêu một số ngun nhân tiêu biểu:
Khơng nắm được các phép tính cộng, trừ trong phạm vi 100 có nhớ, Vì vậy,
các em cũng khơng nắm được các phép tính cộng, trừ, trong phạm vi 1000. có nhớ .
Khơng nắm được lí thuyết bài (quy tắc).
Không nắm được cấu tạo số tự nhiên (hàng, lớp, cách đặt tính)… Từ chỗ
khơng nắm được cấu tạo số tự nhiên nên các em cũng không nắm được cấu tạo số
trong phạm vi 1000. Mà đối với học sinh lớp 2, các em phải làm rất nhiều bài tập về
các số có 2,3 chữ số
Vậy, đối với những học sinh khơng biết tính thì giáo viên cần:
Hướng dẫn để các em hiểu, cộng có nghĩa là thêm vào, trừ là bớt đi. Khi thực
hiện các phép tính cộng, trừ, giáo viên nên sử dụng nhiều hình ảnh trực quan cho các
em cầm, nắm, sờ vào và thực hành đếm. Được thực hành nhiều lần, dần dần các em
sẽ nhớ và biết cách tính. Đối với những em khơng thuộc bảng nhân, chia thì giáo
viên gọi lên kiểm tra thường xuyên vào sinh hoạt 15 phút đầu giờ, giáo viên có thể
lấy nhiều ví dụ minh họa trong cuộc sống, tạo thành các tình huống liên quan đến
các phép tính nhân, chia cho học sinh thực hiện.
Ôn lại các hàng, lớp và cách đặt tính số tự nhiên. Giáo viên cho học sinh làm
các bài tập từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Ban đầu, cho học sinh đặt tính
các số có các chữ số thuộc cùng một hàng.
Để biết đặt tính thì các em phải thuộc tất cả các hàng theo thứ tự từ nhỏ đến
lớn hoặc từ lớn đến nhỏ. Bên cạnh những học sinh khơng biết tính thì có những em
tính cịn yếu. Ngun nhân các em tính yếu có thể là do: Khả năng tính nhẩm kém
do cộng, trừ, nhân, chia trong bảng chưa thuần thục dẫn đến tính tốn chậm, thiếu
chính xác khi thực hiện các phép tính cộng, trừ có nhớ và nhân, chia ngồi bảng.
Nhiều em chưa có kỹ năng làm bài tập dạng trắc nghiệm, lười tính và thường
chọn kết quả theo cảm tính hoặc xem bài của bạn. Mặt khác, các em chưa biết cách
suy luận khi giải toán. Các em rất sợ các bài tập về giải tốn vì ảnh hưởng bởi khả
năng đọc hiểu và khơng biết tính hoặc tính thiếu chính xác. Vậy đối với những học
sinh tính yếu thì giáo viên cần:
Chú trọng vào việc giúp các em thành thạo 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia
mức độ đơn giản.
Khi giải tốn, giáo viên có thể u cầu các bạn khá, giỏi phân tích đề bài, tóm
tắt và trình bày bài giải. Sau đó, ra một bài tập tương tự như vậy chỉ cần thay đổi
một vài con số và yêu cầu các em học yếu làm lại. Các em có thể làm vào giờ ra
chơi hoặc giờ rèn vào buổi chiều. Khi các em làm bài, giáo viên theo dõi, sửa sai
(nếu có) kịp thời. Bước đầu, tạo cho các em sự tự tin, hứng thú khi làm đúng những
bài tốn cơ bản.
Động viên, giúp đỡ các em hồn thành các bài tập cơ bản ngay tại lớp. Nâng
dần mức độ luyện tập theo khả năng từng em.
Trên lớp, bạn học hoặc giáo viên cần giúp đỡ kịp thời để tránh những khó
khăn thường trực, dần dần giúp các em tự kiểm tra, biết nhờ bạn, thầy giúp đỡ khi
cần.
Khuyến khích các em tự rèn vào vở bài tập đối với các dạng bài thường sai,
xem trước bài mới.
Giáo viên cần có sự kiểm tra việc rèn qua vở bài tập để có hướng khắc phục
và động viên kịp thời.
Như vậy:
Ngoài những giải pháp nhằm cải thiện kết quả học tập của học sinh yếu, biện
pháp lâu dài là tạo ra sự hứng thú trong quá trình học tập. Thơng qua những phương
pháp dạy học tích cực, người thầy phải chuyển yêu cầu học tập thành nhu cầu vì
nguồn gốc của tính tích cực, sự hứng thú là nhu cầu. Khi học sinh có nhu cầu thì tự
các em sẽ tìm kiếm tri thức. Đó chính là khả năng tự học.
Hơn nữa, các em học sinh tiểu học là thế hệ Măng non của đất nước. Nên bản
thân luôn ln hướng các em theo khẩu hiệu “Học vì ngày mai lập nghiệp”. Học để
hiểu biết, học để trau dồi tri thức và học để trở thành những người công dân có ích
cho xã hội. Bản thân cũng tin tưởng rằng, mình đã đưa ra những biện pháp thích hợp
trong cơng tác phụ đạo học sinh yếu. Đây là yếu tố cần thiết, giúp cho chất lượng
học tập của các em ngày một được nâng cao.
C: KẾT LUẬN
I. Kết quả:
Sự đổi mới công tác dạy và học những năm gần đây ở bậc tiểu học đã tạo điều
kiện cho chúng tôi phát huy sở trường trong dạy học, mạnh dạn trong việc đề ra
những giải pháp trong giảng dạy, giáo dục học sinh phù hợp với từng đối tượng. Từ
đó giúp học sinh dễ dàng hơn trong việc phát huy ưu điểm và khắc phục, sửa chữa
những hạn chế của bản thân. Vì vậy, chúng ta cần nhận thức đúng đắn, đầy đủ về
quan điểm đổi mới để vận dụng vào thực tiễn. Những biện pháp trên có thể áp dụng
cho vào việc đổi mới dạy và phụ đạo học sinh yếu các khối 2,3 trong nhà trường
đạt hiệu quả.
Theo dõi bảng số liệu trong nửa đầu năm học của học sinh lớp 2, ta sẽ thấy sự
tiến bộ của các em :
NĂM HỌC
TỔNG SỐ HS
LỚP 2
SỐ HỌC SINH YẾU
Số lượng
Tỉ lệ
Đầu năm
27
7
25,9%
Cuối học kì I
27
4
14,8%
II. Kết luận:
Là người giáo viên trực tiếp giảng dạy bản thân thiết nghĩ, muốn giúp đỡ đối
tượng học sinh yếu, giáo viên chủ nhiệm cần:
Phải nhiệt tình, năng nổ, phải ln tự bồi dưỡng nâng cao tay nghề để cải tiến
phương pháp giảng dạy nhằm lôi cuốn học sinh học tập tích cực.
Phải kết hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, với các đồn thể trong nhà
trường, với chính quyền địa phương, tạo mơi trường giáo dục tốt nhất cho các em.
Phải tạo sự đoàn kết, yêu thương giúp đỡ của học sinh trong lớp thông qua các
phong trào, tạo cho các em động cơ ham học. Trong việc uốn nắn các em, giáo viên
chủ nhiệm phải ln giữ thái độ bình tĩnh, khơng nóng vội, khơng dùng lời lẽ nặng
nề với các em, hịa hợp với các em, xem học sinh là con em của mình, chia sẻ vui
buồn, cùng lắng nghe ý kiến của các em để từ đó có biện pháp giáo dục phù hợp.
Học sinh lớp 2 rất thích được động viên khen thưởng, giáo viên khơng nên
dùng hình phạt, đánh mắng làm cho các em sợ sệt, phải tạo cho các em có niềm tin
để các em an tâm học tập.
Tóm lại, nếu giáo viên chủ nhiệm tạo được sự mật thiết giữa thầy với trò, giữa
học sinh với học sinh, thầy trò tạo được sự vui vẻ, thoải mái và nhẹ nhàng trong học
tập thì chắc chắn rằng các em là học sinh yếu sẽ mạnh dạn và tự tin hơn rất nhiều để
phát huy khả năng tự học của mình. Cùng với lịng nhiệt thành của người thầy và sự
cố gắng, nỗ lực của chính bản thân các em thì chúng ta tin tưởng vào kết quả học tập
tốt nhất sẽ đến với các em.
Một số kinh nghiệm bản thân ghi ra ở đây với hy vọng rằng: Đây sẽ là một tài
liệu nhỏ để các quý đồng nghiệp có thể tham khảo, vận dụng trong những tình huống
sư phạm thích hợp. Hơn thế nữa, giúp đỡ học sinh yếu là nghĩa vụ, trách nhiệm của
người thầy. Hãy làm hết trách nhiệm bằng cái tâm của người thầy và hãy nhận lấy
trách nhiệm về mình.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ trong việc giúp đỡ học sinh yếu. Trong
bài viết chắc khơng tránh khỏi thiếu sót. RÊt mong sù gãp ý, gióp ®ì của Ban giám
hiệu, của cỏc anh ch v bạn bè đồng nghiệp cho bn thân tôi được tiếp thu những
cái mới, cái hay trong kinh nghiệm giảng dạy để đưa chất lượng văn hóa nói chung ,
chất lượng một lớp học nói riêng ngày một nâng cao.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Phường 8, ngày 24 tháng 2 năm 2017
Người viết
Ngô Minh Huân