Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

lop 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.3 KB, 26 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
* Về mặt lý luận
Để đáp ứng được mục tiêu giáo dục đào tạo trong thời kỳ cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước đó là “ Đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài cho xã hội.”
Do vậy công tác giáo dục đạo đức trong trường THCS là một yêu cầu
hết sức cấp bách và cần thiết. Việc giáo dục đạo đức tốt sẽ góp phần tạo ra
những con người có nhân cách, phẩm chất đạo đức tốt và góp phần nâng cao
chất lượng giáo dục con người. Công tác giáo dục đạo đức thông qua việc
giảng dạy trong nhà trường, bởi qua bài học sẽ hình thành cho các em những
phẩm chất tốt đẹp, từ đó tạo cho các em có bản lĩnh trong ứng xử hơn
Với kinh nghiệm giảng dạy của mình, tơi cũng xin mạnh dạn đưa ra
một số giải pháp nhỏ về việc“Giáo dục đạo đức học sinh qua công tác chủ
nhiệm” trường THCS A” với đề tài này – Tôi mong muốn rằng tất cả chúng
ta với tình cảm u nghề tha thiết hết lịng giáo dục các em phát triển toàn
diện cả tài lẫn đức.
Một trong những tư tưởng đổi mới giáo dục & đào tạo hiện nay là tăng
cường giáo dục đạo đức cho học sinh, được thể hiện trong nghị quyết của
Đảng, Luật giáo dục 2005 đã xác định:
“Mục tiêu của giáo dục phổ thơng là giúp cho học sinh phát triển tồn diện về
đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành
nhân cách con người Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách
nhiệm công dân” (Điều 23-Luật giáo dục).
Giáo dục học sinh nói chung và giáo dục đạo đức học sinh nói riêng là
một q một q trình tác động có mục đích, có kế hoạch đến học sinh nhằm
hình thành và bồi dưỡng về hành vi, thói quen, đạo đức, hình thành những nét
tính cách của con người mới phù hợp mục đích giáo dục.


Giáo dục đạo đức học sinh đặc biệt giáo dục học sinh chưa ngoan có vị


trí hàng đầu trong tồn bộ công tác giáo dục ở nhà trường. Bác Hồ đã dạy:
“Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả đức lẫn tài. Đức là đạo đức cách
mạng. Đó là cái gốc rất quan trọng”. Do vậy, giáo dục học sinh chưa ngoan
giữ vị trí then chốt trong nhà trường. Công tác giáo dục đạo đức tốt sẽ là cơ
sở để nâng cao giáo dục toàn diện.
Giáo dục đạo đức học sinh là công việc vô cùng nan giải đối với đội ngũ
cán bộ giáo viên, đặc biệt là đối với người giáo viên chủ nhiệm lớp. Hiện
nay, đạo đức của học sinh có chiều hướng sa sút, một bộ phận khơng nhỏ học
sinh có những biểu hiện chưa ngoan trong học tập và rèn luyện đạo đức.
Thậm chí ở một số tỉnh, thành có tội phạm giết người hoặc gây thương tích
cho người khác là học sinh. Đó là trình trạng báo động chung hiện nay.
Qua thực tế giảng dạy và làm công tác chủ nhiệm ở trường THCS A, tơi
nhận thấy việc giáo dục học sinh nói chung và giáo dục về đạo đức học sinh
ở lớp chủ nhiệm nói riêng vơ cùng khó khăn về mọi mặt. Tôi từng băn khoăn,
trăn trở: Do đâu mà số học sinh chưa ngoan ở các lớp có chiều hướng tăng?
Các kinh nghiệm, các biện pháp tôi đã và đang giáo dục học sinh lớp chủ
nhiệm đã thực sự hiệu quả? Với tình hình chung hiện nay, phải xử trí thế nào
để đạt được mục tiêu hình thành nhân cách học sinh tồn diện về Đức - Trí Thể - Mỹ?
Những năm gần đây, về lý luận cũng như thực tế đã có nhiều nghiên cứu
về vấn đề giáo dục đạo đức học sinh. Tuy nhiên, hiện tại vẫn chưa có sự
nghiên cứu đầy đủ để tạo ra sự định hướng thống nhất về hình thức, biện
pháp giáo dục có hiệu quả.
Xuất phát từ tình hình thực tế của nhà trường nói chung, của lớp chủ
nhiệm nói riêng, tơi trình bày biện pháp “Giáo dục đạo đức học sinh qua


cơng tác chủ nhiệm” mà bản thân đã tích lũy được trong q trình cơng tác,
học tập ở nhà trường sư phạm và học hỏi từ đồng nghiệp. Xin được trao đổi
cùng đồng nghiệp với mong ước được góp phần vào việc giảm dần số lượng
học sinh chưa ngoan, nâng cao hiệu quả đào tạo của nhà trường.

* Về mặt thực tiễn
Hiện nay một số bộ phận thanh thiếu niên có dấu hiệu sa sút nghiêm trọng
về đạo đức, nhu cầu cá nhân phát triển lệch lạc, kém ý thức trong quan hệ
cộng đồng, thiếu niềm tin trong cuộc sống, ý chí kém phát triển, khơng có
tính tự chủ dễ bị lôi cuốn vào những việc xấu.
Trong nhà trường THCS nói chung và trường THCS A nói riêng, số
học sinh vi phạm đạo đức có chiều hướng gia tăng, giáo viên chưa thật sự
quan tâm đến học sinh cá biệt mà chỉ lo chú trọng đến việc dạy tri thức khoa
học, xem nhẹ và không chú ý đến việc giáo dục tình cảm đạo đức cho học
sinh.
* Về cá nhân
Xuất phát từ lý luận và thực tiễn trên, để góp phần vào công tác giáo
dục đạo đức cho học sinh trong giai đoạn hiện nay, và qua thực tiễn công tác
giảng dạy học sinh ở trường THCS A, tôi nhận thấy việc nắm rõ thực trạng
và đề ra giải pháp về công tác giáo dục đạo đức cho học sinh THCS A là một
nhiệm vụ hết sức quan trọng đối với mỗi giáo viên. Đó là lý do tại sao tơi
chọn đề tài này để viết chun đề.
2. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá được thực trạng của công tác giáo dục đạo đức học sinh ở trường
THCS, thơng qua đó đề ra biện pháp giáo đạo đức học sinh một cách có hiệu
quả giúp cho các em trở thành những người tốt trong xã hội.
3. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu về công tác giáo dục đạo đức học sinh ở trường THCS A
4. Nhiệm vụ nghiên cứu


Nghiên cứu một số vấn đề về cơ sở lý luận giáo dục đạo đức, tiến hành
điều tra thực trạng của công tác giáo dục đạo đức học sinh, phân tích ngun
nhân, tìm ra những yếu tố liên quan đến cơng tác giáo dục đạo đức học sinh
để từ đó đề ra biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh trong giai đoạn hiện

nay.


B. PHẦN NỘI DUNG
Chương I: Cơ sở Lý luận
1. Đạo đức- Chức năng của đạo đức
1.1 Khái niệm đạo đức
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội bao gồm những nguyên tắc và
chuẩn mực xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi cho phù hợp
với lợi ích, hạnh phúc của mình và sự tiến bộ của xã hội trong mối quan hệ
người và người và con người với tự nhiên.
1.2 Chức năng đạo đức
- Chức năng giáo dục.
- Chức năng điều chỉnh hành vi của cá nhân, của cộng đồng và là công cụ
tự điều chỉnh mối quan hệ giữa người và người trong xã hội.
- Chức năng phản ánh.
2.Vị trí và đặc điểm của công tác giáo dục đạo đức cho học sinh
2.1. Vị trí: Giáo dục đạo đức là q trình tác động có mục đích, có kế hoạch
đến học sinh nhằm giúp cho nhân cách mỗi học sinh được phát triển đúng
đắn, giúp học sinh có những hành vi ứng xử đúng mực trong các mối quan
hệ, của cá nhân với xã hội, của cá nhân với lao động, của cá nhân với mọi
người xung quanh và của cá nhân với chính mình.Trong tất cả các mặt giáo
dục đạo đức giữ một vị trí hết sức quan trọng. Do vậy việc giáo dục đạo đức
là mặt trận hàng đầu, của trường phổ thơng.
2.2 Ý nghĩa: Giáo dục đạo đức cịn có ý nghĩa lâu dài, được thực hiện
thường xuyên và trong mọi tình huống chứ khơng phải chỉ được thực hiện
khi có tình hình phức tạp hoặc có những địi hỏi cấp bách. Trong nhà trường
THCS, giáo dục đạo đức là mặt giáo dục phải được đặc biệt coi trọng, nếu
công tác này được coi trọng thì chất lượng giáo dục tồn diện sẽ được nâng
lên vì đạo đức có mối quan hệ mật thiết với các mặt giáo dục khác.

2.3. Đặc điểm


Giáo dục đạo đức địi hỏi khơng chỉ dừng lại ở việc truyền thụ khái niệm tri
thức đạo đức, mà quan trọng hơn là kết quả giáo dục phải được thể hiện
thành tình cảm, niềm tin, hành động thực tế của học sinh.
Quá trình dạy học chủ yếu được tiến hành bằng các giờ học trên lớp, cịn q
trình giáo dục đạo đức khơng chỉ bó hẹp trong giờ lên lớp mà nó được thể
hiện thơng qua tất cả các hoạt động có thể có trong nhà trường .
Đối với học sinh THCS, kết quả của công tác giáo dục đạo đức vẫn còn phụ
thuộc rất lớn vào nhân cách người thầy, gương đạo đức của người thầy sẽ tác
động quan trọng vào việc học tập, rèn luyện của các em .
Để giáo dục đạo đức cho học sinh có hiệu quả, yếu tố tập thể giữ vai trò hết
sức quan trọng. Công tác giáo dục đạo đức cho học sinh chỉ đạt kết quả tốt
khi nó có sự tác động đồng thời của các lực lượng giáo dục: Nhà trường, gia
đình và xã hội.
Việc giáo dục đạo đức cho học sinh đòi hỏi người thầy phải nắm vững các
đặc điểm Tâm-Sinh-Lý lứa tuổi của học sinh, nắm vững cá tính, hồn cảnh
sống cụ thể của từng em để định ra sự tác động thích hợp. Giáo dục đạo đức
là một q trình lâu dài, phức tạp, địi hỏi phải có cơng phu, kiên trì, liên tục
và lặp đi lặp lại nhiều lần.
3. Công tác giáo dục đạo đức cho học sinh ở trường THCS
3.1 Những nhiệm vụ của công tác giáo dục đạo đức cho học sinh
Để hình thành phẩm chất đạo đức cho học sinh, công tác giáo dục đạo đức
nói chung và giảng dạy nói riêng trong nhà trường phải thực hiện các nhiệm
vụ sau:
- Hình thành cho học sinh ý thức các hành vi ứng xử của bản thân phải phù
hợp với lợi ích xã hội, giúp học sinh lĩnh hội được một cách đúng mức các
chuẩn mực đạo đức được quy định.
- Biến kiến thức đạo đức thành niềm tin, nhu cầu của mỗi cá nhân để đảm

bảo các hành vi cá nhân được thực hiện.


- Bồi dưỡng tình cảm đạo đức, tính tích cực và bền vững, và các phẩm chất ý
chí để đảm bảo cho hành vi luôn theo đúng các yêu cầu đạo đức. Rèn luyện
thói quen hành vi đạo đức để trở thành bản tính tự nhiên của mỗi cá nhân.
3.2 Các phương pháp giáo dục đạo đức ở trường THCS
* Phương pháp thuyết phục: Là những phương pháp tác động vào lý trí
tình cảm của học sinh để xây dựng những niềm tin đạo đức, gồm các nội
dung sau:
- Giảng giải về đạo đức: Được tiến hành trong giờ dạy cũng như trong các
giờ học môn khác, giờ sinh hoạt lớp, sinh hoạt dưới cờ…
- Nêu gương người tốt, việc tốt bằng nhiều hình thức như: nói chuyện, kể
chuyện, đọc sách báo, mời những người có gương phấn đấu tốt đến nói
chuyện, nêu gương tốt của giáo viên và học sinh trong trường.
- Trị chuyện với học sinh hoặc nhóm học sinh để khuyến khích động viên
những hành vi cử chỉ đạo đức tốt của các em, khuyên bảo, uốn nắn những
mặt chưa tốt.
* Phương pháp rèn luyện: Là những phương pháp tổ chức cho học sinh
hoạt động để rèn luyện cho các em những thói quen đạo đức, thể hiện được
nhận thức và tình cảm đạo đức của các em thành hành động thực tế:
- Rèn luyện thói quen đạo đức thông qua các hoạt động cơ bản của nhà
trường: Dạy học trên lớp, lao động, hoạt động xã hội đoàn thể và sinh hoạt
tập thể.
- Rèn luyện đạo đức thông qua các phong trào thi đua trong nhà trường là
biện pháp tác động tâm lý rất quan trọng nhằm thúc đẩy các động cơ kích
thích bên trong của học sinh, làm cho các em phấn đấu vươn lên trở thành
người có đạo đức tốt, vì vậy nhà trường cần tổ chức các phong trào thi đua và
động viên học sinh tham gia tốt phong trào này.
- Rèn luyện bằng cách chuyển hướng các hoạt động của học sinh từ hoạt

động có hại sang hoạt động có ích, phương pháp này dựa trên đặc tính ham
hoạt động của trẻ và được dùng để giáo dục học sinh bỏ một thói hư xấu nào


đó bằng cách gây cho học sinh hứng thú với một hoạt mới bổ ích, lơi kéo trẻ
ra ngồi những tác động có hại.
* Phương pháp thúc đẩy: Là phương pháp dùng những tác động có tính
chất “ cưỡng bách đạo đức bên ngồi ” để điều chỉnh, khuyến khích những “
động cơ kích thích bên trong” của học sinh nhằm xây dựng đạo đức cho học
sinh.
- Những nội quy, quy chế trong nhà trường vừa là những yêu cầu với học
sinh, vừa là những điều lệnh có tính chất mệnh lệnh địi hỏi học sinh tn
theo để có những hành vi đúng đắn theo yêu cầu của nhà trường.
- Khen thưởng: là tán thành, coi trọng, khích lệ những cố gắng của học sinh
làm cho bản thân học sinh đó vươn lên hơn nữa và động viên khuyến khích
các em khác noi theo.
- Xử phạt : là phê phán những khiếm khuyết của học sinh, là tác động có tính
chất cưỡng bách đến danh dự lịng tự trọng của cá nhân học sinh để răn đe
những hành vi thiếu đạo đức và ngăn ngừa sự tái phạm của học sinh đó và
những học sinh khác. Do đó phải thận trọng và đúng mực, không được lạm
dụng phương pháp này. Khi xử phạt cần phải làm cho học sinh thấy rõ sai
lầm,

Chương II
Thực trạng của công tác giáo dục đạo đức cho học sinh
của trường THCS
1. Đặc điểm tình hình chung.
*Thuận lợi:
- Đội ngũ giáo viên THCS đã xác định nhiệm vụ và ln cố gắng hồn thành
nhiệm vụ được giao.

- Đội ngũ cán bộ và giáo viên của trường đều qua trường lớp sư phạm chính
quy từ chuẩn đến trên chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ.
- Trong những năm gần đây, vấn đề dạy đã và đang đổi mới và là một trong
những chuyển biến mạnh mẽ về đổi mới phương pháp dạy học được xác định


là một nhiệm vụ quan trọng, là đòi hỏi cấp bách của xã hội đối với việc nâng
cao chất lượng giáo dục phổ thông. Thông qua bài học học sinh có thể tự
hoạt động tích cực, chủ động sáng tạo tìm tịi phát hiện và chiếm lĩnh nội
dung bài học.
* Khó khăn
- Đời sống nhân dân cịn gặp nhiều bấp bênh do phụ thuộc vào thiên nhiên.
Kinh tế phụ thuộc nhiều vào việc làm nông nghiệp. Thời tiết bất lợi ảnh
hưởng đến đời sống của nhân dân
- Trong đó có một số thành phần gia đình phụ huynh các em làm nơng nghiệp
có quan niệm học cũng chẳng làm được gì, nên việc vận động các em đến
trường, lớp cịn gặp khó khăn.
2.Thực trạng cơng tác giáo dục đạo đức học sinh của trường trong năm
học 2018-2019
Thực trạng của vấn đề:
Đất nước ta đang trong giai đoạn Cơng nghiệp hóa - Hiện đại hóa, xã
hội ngày một phát triển, cuộc sống ngày một hiện đại với bao sự đổi mới.
Đặc biệt, đời sống văn hóa, tinh thần được nâng lên với những tiến bộ của
cơng nghệ thơng tin tồn cầu.
Song song với những sự phát triển đó, tình hình đạo đức của học sinh ở
các tỉnh, thành nói chung và của học sinh ở trường THCS nói riêng cũng có
nhiều biến động.
Năm học 2018- 2019, trường THCS A có 209 học sinh, trong đó khối
7 là 61 học sinh. Được sự phân công của Ban giám hiệu. Tôi chủ nhiệm lớp
7A, sau một thời gian dạy lớp, tôi thấy lo lắng cho vấn đề đạo đức của các

em, đa số học sinh đều ham học và chăm ngoan, đáp ứng được yêu cầu đào
tạo. Bên cạnh đó, vẫn có một bộ phận không nhỏ học sinh chưa ngoan, biểu
hiện đạo đức ở các em vô cùng phức tạp và đa dạng: Văng tục, chửi bậy ,
không vâng lời cha mẹ, thầy cô, không trung thực, trốn học để chơi game


online, gây gổ đánh nhau, vô lễ với người lớn, ln có nguy cơ bỏ học, xem
thường nội quy trường lớp cãi lại thầy cô giáo, thường xuyên vi phạm nề nếp,
khơng học bài và ghi chép bài,… chính vì thế ngay từ đầu năm học tôi đã
kiểm tra để năm tình hình về hạnh kiểm và học lực của lớp:
+ Tổng số học sinh 31
+ Nề nếp tốt : 21
+ Nề nếp chưa tốt: 10
Xét về tâm sinh lý lứa tuổi học sinh THCS là lứa tuổi hiếu động và
hiếu thắng, nhiều nông nổi do sự phát triển tâm sinh lý chưa hoàn chỉnh, là
lứa tuổi đang trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách. Quá trình
hình thành cái mới diễn ra không đồng đều ở các mặt trong mỗi cá nhân.
Ở góc độ chủ quan và khách quan, học sinh có đạo đức chưa tốt do chịu
ảnh hưởng từ những nguyên nhân sau:
Minh Tân là xã thuộc địa bàn nông thôn vùng sâu, vùng xa đa số gia
đình học sinh sống bằng nghề nơng, kinh tế chậm phát triển, nhiều cha mẹ
học sinh phải đi làm ăn xa, để con em tự quản lý gia đình.
Sự phát triển của mạng Internet về nông thôn, nhiều điểm chat, chơi
game online mọc lên ở lân cận trường học và trên đường đi học của nhiều
học sinh.
Nhiều bậc cha mẹ hoặc phải lo làm ăn do kinh tế còn khó khăn hoặc mải lo
làm giàu mà vơ tình qn đi việc giáo dục đạo đức cho con, đẩy hết trách
nhiệm về phía nhà trường.
Một số gia đình phụ huynh có điều kiện nhưng lại nng chìêu con q mức.
Một số học sinh có cha mẹ bất hịa hoặc cha mẹ li thân, li dị, hoặc cha (mẹ)

có vợ (chồng) khác,…


Một số học sinh kết bạn và đi chơi với các thanh thiếu niên hư hỏng ở bên
ngoài nhà trường cộng với sự tác động của những tiêu cực xã hội.
Mục tiêu năm học 2018 – 2019
là đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng giáo dục. Nhà trường
luôn quan tâm đến vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh. Là một giáo viên
vừa giảng dạy, vừa làm công tác chủ nhiệm lớp, cộng với những biểu hiện
chưa ngoan của một bộ phận học sinh đã thôi thúc tôi thực hiện đề tài này
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức học sinh của lớp chủ nhiệm và
góp phần vào việc thực hiện mục tiêu chung của năm học.
* Việc giảng dạy chương trình trường
- Trường đã tổ chức thực hiện giảng dạy đầy đủ theo đúng quy định của
chương trình, có lồng ghép giáo dục pháp luật vào bộ môn. Tuy nhiên thực tế
việc dạy và học ở trường cịn nhiều khó khăn, bất cập nên hiệu quả giáo dục
của mơn học cịn thấp, số học sinh dưới trung bình cịn cao, từ trước đến nay
chưa được coi trọng, nhiều giáo viên, học sinh, Cha mẹ học sinh vẫn xem đây
là môn học phụ.
* Nguyên nhân: thực trạng trên do nhiều nguyên nhân, trong đó có những
nguyên nhân chủ yếu sau: Trang thiết bị dạy học, các điều kiện khác phục vụ
dạy học còn thiếu thốn, lạc hậu gây khó khăn cho việc đổi mới dạy học. âm
lý chung của mọi người trong đó có Cha mẹ học sinh cho rằng đây là môn
học phụ, kết quả học tập khơng quan trọng lắm, vì chưa chú ý động viên con
em tích cực học tập.
* Hoạt động của giáo viên chủ nhiệm
- Tầm quan trọng của công tác giáo viên chủ nhiệm đối với công tác giáo
dục đạo đức trong nhà trường: Giáo viên chủ nhiệm là lực lượng chính trong
cơng tác giáo dục đạo đức cho học sinh là người quản lý mọi hoạt động của
lớp học, là người triển khai mọi hoạt động của trường của nhà trường đến

từng lớp, từng học sinh.


- Hưởng ứng câu khẩu hiệu “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực”. Giáo viên ln trau dồi đạo đức tác phong, cô giáo là tấm gương sáng
cho học sinh noi theo không ngừng học hỏi đồng nghiệp để nâng cao tay
nghề. Dạy học luôn đổi phương pháp, phát huy khả năng tư duy, sáng tạo của
học sinh, phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh trong học
tập và các hoạt động xã hội một cách phù hợp và hiệu quả, tăng cường sự
tham gia một cách hứng thú của học sinh trong các hoạt động giáo dục có ý
thức và sáng tạo, phát huy sự chủ động, sáng tạo của thầy, cô giáo đáp ứng
yêu cầu đổi mới phương pháp giáo dục trong thời đại hội nhập, tuyên truyền
lịch sử cách mạng cho học sinh.
* Những hoạt động của giáo viên chủ nhiệm trong năm học:
- Thực hiện các loại sổ theo quy định của ngành: sổ liên lạc, sổ chủ nhiệm sổ
theo dõi đạo đức học sinh …
- Tổ chức sinh hoạt lớp cuối tuần, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, xây
dựng kế hoạch chủ nhiệm, kế hoạch thi đua…
- Kết hợp chặt chẽ với Cha mẹ học sinh, chủ động phối hợp với các giáo viên
bộ mơn, đồn TNCS HCM, đội TNTP HCM và các ban ngành đoàn thể địa
phương trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh.
- Nhận xét, đánh giá, xếp loại Hạnh kiểm và Học lực cho học sinh, đề nghị
khen thưởng và kỷ luật học sinh.
*Hoạt động gắn liền nhà trường với thực tế đời sống địa phương
- Tổ chức cho các em thăm viếng nghĩa trang liệt sĩ nhân ngày 22/12 hàng
năm và ngày Tết.
- Tổ chức cho học sinh đi cổ động về An tồn giao thơng, phịng chống sốt
xuất huyết, hiểm họa AIDS, ngày thanh niên lên đường nhập ngũ
* Nhận xét: Kết quả đạt được về phía học sinh là phần lớn các em có được
những hiểu biết ban đầu về một số chuẩn mực hành vi đạo đức, từng buớc

hình thành thái độ tự trọng, tự tin vào khả năng của bản thân, có trách nhiệm
với hành động của mình, u thương, tơn trọng con người, mong muốn đem


lại niềm vui, hạnh phúc cho mọi người. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn cịn một
số bộ phận học sinh chưa ngoan, thường hay vi phạm đạo đức.

Chương III: Giải pháp chủ yếu để thực hiện đề tài
1. Xây dựng trong nhà trường một môi trường thật tốt để giáo dục đạo
đức cho học sinh
* Đối với BGH nhà trường: Phải xây dựng kế hoạch giáo dục đạo đức cho
học sinh ngay từ đầu năm học trên cơ sở dựa vào tình hình thực trạng đạo
đức của học sinh, tình hình thực tế của địa phương để định ra, nội dung, biện
pháp, thời gian, chỉ tiêu cho phù hợp.
* Đối với giáo viên: Phải chí cơng vơ tư, khơng phân biệt, khơng thiên vị,
Phải gương mẫu về mọi mặt, đồn kết, nhất trí thành một khối thống nhất có
tác dụng giáo dục mạnh mẽ đối với học sinh. Phải không ngừng tự hồn thiện
nhân cách của mình, phải thương u, tơn trọng, tin tưởng học sinh, có ý thức
trách nhiệm về mọi hành vi ngơn ngữ, cử chỉ của mình đối với học sinh, đồng
nghiệp, bản thân phải là tấm gương cho học sinh noi theo.
* Đối với Đoàn đội: Chủ động phối hợp với giáo viên chủ nhiệm, giáo viên
bộ môn tổ chức tốt phong trào thi đua học tập, rèn luyện đội viên theo năm
điều Bác Hồ dạy. Giáo dục tinh thần yêu nước cho các em, thăm viếng các
Bà mẹ Việt Nam anh hùng ở địa phương,
2. Đổi mới công tác chủ nhiệm lớp là biện pháp góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục đạo đức cho học sinh
- GVCN có vai trị rất to lớn trong cơng tác giáo dục đạo đức cho học sinh, vì
GVCN là người quản lý toàn diện học sinh của lớp được phụ trách, là cầu nối
giữa Ban giám hiệu với các tổ chức trong nhà trường, các giáo viên bộ môn
với tập thể lớp, là người cố vấn tổ chức các hoạt động tự quản của lớp, đồng

thời là người đứng ra phối hợp các lực lượng xã hội nhằm thực hiện tốt mục
tiêu giáo dục của trường.
- Xuất phát từ thực trạng công tác chủ nhiệm của trường, việc đưa ra các
biện pháp giúp GVCN định hướng đổi mới công tác chủ nhiệm cho phù hợp


với tình hình thực tế của địa phương mang ý nghĩa quan trọng đối với công
tác giáo dục đạo đức học sinh trong giai đoạn hiện nay.
* Tìm hiểu đặc điểm tình hình lớp, tình hình học sinh là góp phần cho
công tác chủ nhiệm đạt kết quả cao
- Do tính đặc thù của một địa bàn đối tượng học sinh của trường có mối quan
hệ gia đình rất đa dạng và phức tạp, việc tìm hiểu điểm tình hình lớp, tình
hình học sinh giúp cho GVCN thuận lợi trong quản lý, giáo dục học sinh.
- Đầu năm học GVCN phải có những thơng tin khái qt về gia đình học sinh
như: nơi ở, hoàn cảnh sống, lối sống, hoàn cảnh kinh tế gia đình, giáo dục
của gia đình, sự quan tâm của cha mẹ đối với con cái, quan hệ của gia đình
láng giềng. Việc tìm hiểu này sẽ giúp GVCN kết hợp tốt với gia đình trong
cơng tác giáo dục đạo đức cho học sinh.
- Đầu năm học GVCN phải nắm được đặc điểm học sinh về: sức khỏe, đạo
đức, năng lực học tập, động cơ học tập, quan hệ của học sinh với cha mẹ,
Ông bà, anh chị em trong gia đình, ở trường với thầy cơ và ngồi xã hội,
cộng đồng. Việc tìm hiểu học sinh về mọi mặt là rất cần thiết nhưng GVCN
phải thấy được nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó.
- GVCN phải tìm hiểu cơ cấu, lứa tuổi, năng lực học tập, hoạt động, mối
quan hệ giữa học sinh với học sinh, học sinh với giáo viên, sự đồn kết của
lớp mình chủ nhiệm.
Xuất phát từ việc nghiên cứu kỹ về chức năng và nhiệm vụ của người
giáo viên chủ nhiệm, về tiêu chuẩn giáo viên chủ nhiệm giỏi kết hợp với
những kinh nghiệm đã tích lũy cùng với những hiểu biết về học sinh, đặc biệt
là học sinh có đạo đức chưa tốt, đồng thời kết hợp việc khảo sát học sinh khối

7, tôi đã đúc kết được một số phương pháp giáo dục đạo đức học sinh ở lớp
chủ nhiệm. Áp dụng từng bước các phương pháp sau đây vào thực tiễn, tôi đã
thu được những kết quả khá khả quan.
2.1 Tìm hiểu từng đối tượng học sinh:


Người giáo viên chủ nhiệm phải nắm rõ được tình hình của lớp thơng
qua:
- Sơ yếu lý lịch mà giáo viên chủ nhiệm yêu cầu học sinh ghi đầu năm,
chú ý cảm tưởng của từng học sinh.
- Giáo viên chủ nhiệm cũ.
- Các giáo viên môn chuyên giảng dạy lớp năm trước.
- Gặp gỡ, trao đổi với học sinh trong các buổi lao động tổng vệ sinh đầu
năm.
Việc làm này để bước đầu tìm hiểu, phát hiện các học sinh cốt cán cũng
như học sinh chưa ngoan. Từ đó có thể kiện toàn đội ngũ Cán bộ lớp và phát
huy các mặt mạnh, các truyền thống tốt đẹp của lớp.
2.2 Lập kế hoạch cho lớp:
Giáo viên chủ nhiệm cùng Cán bộ lớp lập kế hoạch hoạt động của lớp và
phổ biến cho lớp sau đó thơng qua buổi sinh hoạt lớp, lồng ghép trong hoạt
động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Cụ thể là nội dung thi đua của các nhóm
trong lớp, việc thực hiện nội quy của lớp, quyền và nhiệm vụ của mỗi cá
nhân, phát động phong trào thi đua (có sơ kết, tổng kết ở cuối mỗi học kỳ).
Các nội dung này bám sát vào nội quy của trường và các nội dung thi đua
của tổng phụ trách Đội như xoay quanh việc thực hiện đồng phục, truy bài
đầu giờ, thực hiện nội quy trường lớp, rèn luyện tác phong, …
Sau khi hoàn chỉnh kế hoạch, giáo viên chủ nhiệm phổ biến và hướng
dẫn Cán bộ lớp cách làm việc, cách quản lý thành viên của nhóm mình. Nêu
rõ nhiệm vụ của từng thành viên trong Cán bộ lớp từ lớp trưởng, lớp phó
đến các


tổ trưởng.Nội dung này cần phổ biến trước tập thể lớp nhằm thể

hiện tính cơng khai, dân chủ trước học sinh. Mặt khác còn nhằm đưa tập thể
lớp vào ổn định nề nếp và hơn hết là nhằm giúp các học sinh có đạo đức chưa


tốt, chưa ngoan phần nào nhận thức được vai trò, nhiệm vụ của mình trong
tập thể lớp để từ đó có những hành vi phù hợp hay chỉ mới là ý nghĩ vừa
được nhấn mạnh.
2.3. Lập kế hoạch giáo dục đạo đức học sinh chưa ngoan:
Trên cơ sở lý luận, sau khi đã thực hiện được 2 bước nói trên giáo viên
chủ nhiệm vừa vạch ra vừa thực hiện kế hoạch tiếp theo tùy tình hình diễn
biến của
các học sinh có đạo đức chưa tốt, chưa ngoan. Chú ý tập trung vào những
việc sau:
a) Cần nắm rõ số lượng học sinh có đạo đức chưa tốt của lớp.
b) Tìm hiểu kỹ và phân loại học sinh có đạo đức chưa tốt đầy đủ và
chính xác về:
- Hồn cảnh sống từng học sinh, điều kiện kinh tế gia đình của học
sinh, sự quan tâm của cha mẹ, quan hệ giữa các thành viên trong gia đình,…
- Những đặc điểm thể chất, sinh lý từng học sinh. Thể trạng bình
thường hay khơng.
- Những đặc điểm về tâm lý: khả năng nhận thức, nhu cầu giao tiếp,
tình cảm như: cởi mở hay lầm lì, ưu tư, nóng nảy, ln nghĩ mình bị mọi
người “cơ lập”, “bỏ rơi”,…
- Nắm được tính cách và hành vi đạo đức từng học sinh: lười học, ba
hoa, không trung thực, cách ứng xử với mọi người xung quanh…
- Nắm được sở trường và sở thích của học sinh: khả năng ca hát,
bóng đá, bơi lội, chơi game, yêu thích thơ văn,…

- Đặc biệt cần chú trọng đến mối quan hệ của học sinh với những
thanh thiếu niên bên ngồi và học sinh có đạo đức chưa tốt khác trong nhà
trường.


c) Thực hiện thường xuyên công tác phối hợp:
- Cần kết hợp chặt chẽ ba môi trường giáo dục: Gia đình - Nhà
trường - Xã hội.
- Với phụ huynh: Thường xuyên gặp gỡ và trao đổi cùng phụ huynh
bằng nhiều hình thức như: đến thăm nhà học sinh, mời phụ huynh đến trường
dự họp, gửi sổ liên lạc giữa gia đình với nhà trường, thậm chí liên lạc qua
điện thoại để thông báo mức độ vi phạm, những biểu hiện sai lệch cần được
uốn nắn, khắc phục. Nhưng cần lưu ý rằng phải giao tiếp ở một góc độ cởi
mở, tâm lý, tế nhị nhưng chân tình, tránh sự dồn dập, gay gắt. Có như vậy
giáo viên chủ nhiệm mới tạo được với phụ huynh sự tin tưởng và tận tâm hợp
tác để giáo dục con em họ tốt hơn.
- Với Ban giám hiệu: Tham mưu thường xuyên, nhờ sự “trợ giúp”
kịp thời của các vị Hiệu trưởng và Phó Hiệu trưởng khi cần thiết nhằm có
những giải pháp thiết thực, phù hợp từng thời điểm hoặc nhờ Ban giám hiệu
trao đổi riêng với các học sinh có đạo đức chưa tốt xem như là “đưa lên cấp
cao hơn” đối với những trường hợp thường xuyên tái phạm lại lỗi cũ sau
nhiều lần đã được xử lý ở lớp.
- Với tổ chức Đoàn, Đội: Trong các hoạt động vui chơi, giải trí, các
hoạt động ngồi giờ, nhiều em học sinh có đạo đức chưa tốt lại tỏ ra xơng
xáo, thể hiện sở thích, năng lực của bản thân. Qua đó có thể tùy theo khả
năng từng đối tượng mà giao nhiệm vụ, mà phân công để các em cùng tham
gia với tập thể. Từ đó, cảm giác bị “cơ lập”, bị bỏ rơi của các em sẽ được xóa
dần.
- Với giáo viên phụ trách phổ cập: Liên hệ thường xuyên, cùng đi
đến thăm nhà học sinh, đặc biệt là các học sinh có nguy cơ bỏ học vì thơng

thường các học sinh có đạo đức chưa tốt đều rất dễ dẫn đến kết cục này.


- Với giáo viên bộ môn: Giáo viên bộ môn có một phần trách
nhiệm đối với việc giáo dục học sinh có đạo đức chưa tốt ở các lớp. Khi lên
lớp, cần chú ý đến các đối tượng học sinh này, cần tìm cách tạo ra “cơ hội
học tập tốt” bằng các câu hỏi dễ hay bài tập đơn giản. Và hãy đừng quên tặng
một lời khen khi các em có sự tiến bộ dù rất ít.
- Với giáo viên chủ nhiệm của các lớp: Ở các lớp khác cũng có
những học sinh có đạo đức chưa tốt. Khi lên lớp, người giáo viên chủ nhiệm
bây giờ trở thành người thực hiện trách nhiệm giáo dục học sinh có đạo đức
chưa tốt ở các lớp với tư cách là giáo viên dạy lớp. Cần giáo dục tại chỗ và
thông báo ngay những biểu hiện có đạo đức chưa tốt của học sinh đến giáo
viên chủ nhiệm của các lớp khác.
d) Phân công, giao nhiệm vụ cho cán bộ lớp:
Hơn cả giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ môn , Cán bộ lớp là
những người có thời gian gần gũi, tiếp xúc với các học sinh có đạo đức chưa
tốt trong lớp nhiều nhất. Do vậy, giao nhiệm vụ cho các thành viên trong cán
bộ lớp quan sát và quan tâm, giúp đỡ các học sinh chưa ngoan, chưa tốt dưới
sự hướng dẫn, giám sát của giáo viên chủ nhiệm là việc làm rất hợp tình hợp
lý. Bằng hình thức “Đôi bạn cùng tiến”, học sinh giỏi sẽ nhận trách nhiệm
kèm học sinh yếu, cả trong rèn luyện đạo đức. Ở đây đòi hỏi người giáo viên
chủ nhiệm phải thật tinh ý, sáng suốt. Thông qua Cán bộ lớp, giáo viên chủ
nhiệm càng hiểu rõ hơn về từng đối tượng học sinh, về các học sinh có đạo
đức chưa tốt của lớp.
2.4. Thực hiện kế hoạch giáo dục học sinh có đạo đức chưa tốt:
Khi đã hiểu rõ từng đối tượng học sinh của mình quản lý và thường
xuyên thực hiện công tác phối hợp, việc giáo dục học sinh có đạo đức chưa
tốt ở lớp chủ nhiệm sẽ phần nào giảm bớt được khó khăn nan giải. Để kế



hoạch giáo dục học sinh có đạo đức chưa tốt đạt hiệu quả, người giáo viên
chủ nhiệm cần:
2.4.1 Biết lắng nghe: Giáo viên chủ nhiệm luôn giữ mối quan hệ gần
gũi, thân thiết với học sinh, đặc biệt là với học sinh có đạo đức chưa tốt, hãy
khuyến khích các em nói ra những điều mình nghĩ bằng nhiều cách khác
nhau. “Lắng nghe và thấu hiểu” là điều mà các học sinh chưa ngoan thật sự
rất cần ở giáo viên chủ nhiệm.
2.4.2 Biết quan tâm: Giáo viên chủ nhiệm quan tâm bằng cách trị
chuyện, hỏi thăm hồn cảnh gia đình học sinh, về bạn bè thân của các em,
biết được sở thích, cá tính cũng như thái độ, sự lễ phép của học sinh đối với
người lớn. Kêu gọi và yêu cầu các học sinh khác trong lớp quan tâm, chia sẻ,
giúp đỡ bạn mình, khơng nên xem thường hay cơ lập các bạn có đạo đức
chưa tốt, chưa ngoan đó. Dưới sự hỗ trợ của cán bộ lớp, giáo viên chủ nhiệm
luôn theo dõi được những biểu hiện hàng ngày của học sinh có đạo đức chưa
tốt, tránh được sự kết luận về vấn đề nào đó thiếu chính xác làm tổn thương
đến tâm lý và tình cảm của các em.
2.4.3 Có uy tín với học sinh và đồng nghiệp về chuyên môn và tư
cách đạo đức, tác phong sinh hoạt: Giáo viên có tầm hiểu biết rộng rãi ngồi
việc biết tốt bộ mơn của mình, bao giờ cũng giải đáp được vấn đề học sinh
đang qua tâm thì ảnh hưởng và uy tín của giáo viên sẽ tác động mạnh đến
việc giáo dục đạo đức học sinh. Mặt khác, uy tín về tư cách đạo đức của giáo
viên có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành ý thức và hành vi của học sinh.
Nếu được như vậy, chắc chắn rằng tầm ảnh hưởng của giáo viên chủ nhiệm
đối với các học sinh chưa ngoan, có đạo đức chưa tốt sẽ không nhỏ.
2.4.4 Động viên và định hướng: Thông thường các học sinh chưa
ngoan không định hướng được mình cần rèn luyện thế nào để giúp ích bản


thân và hoàn thành nhiệm vụ học tập. Mặt khác, một trong những nguyên

nhân chủ yếu làm học sinh chưa ngoan, đạo đức chưa tốt đều bắt đầu từ sự
học kém, dẫn đến bất mãn, chán học rồi bỏ mặt mọi việc. Chính vì vậy giáo
viên chủ nhiệm là người giúp học sinh biết định hướng và động viên, khích lệ
các em trên tinh thần “Kiến tha lâu cũng đầy tổ”, “Có cơng mài sắt có ngày
nên kim”. Hãy tìm và tuyên dương những mặt tốt ở các em dù nhỏ thay vì cứ
phê bình khi các em sai phạm.
2.4.5 Là “Người bạn lớn”: Giáo viên chủ nhiệm hãy là “Người bạn
lớn” của học sinh. Chính điều này làm cho học sinh chưa ngoan, đạo đức
chưa tốt thấy mình khơng hề bị “bỏ rơi”, tình cảm thầy trị được hình thành,
tạo điều kiện thuận lợi cho những tâm sự, chia sẻ. Khi đó những lời động
viên, những định hướng của giáo viên chủ nhiệm sẽ đạt hiệu quả cao.
2.4.6 Nghiêm khắc: Giáo viên chủ nhiệm tỏ ra nghiêm khắc với tất
cả học sinh trong lớp, tôn trọng học sinh, xử lý mọi việc công bằng cho dù là
cán bộ lớp hay học sinh chưa ngoan vi phạm. Như thế các học sinh chưa
ngoan sẽ cảm thấy giáo viên chủ nhiệm đều tôn trọng mọi học sinh, không
thiên vị, không hề “ghét bỏ” mình.
2.4.7 Vui tính: Ngồi những điều trên, giáo viên chủ nhiệm cần phải
có óc khơi hài, ln vui vẻ với mọi người, kể cả học sinh chưa ngoan. Điều
này giúp cho học sinh có cảm giác dễ gần với giáo viên, dễ sẻ chia tâm sự,
mối quan hệ giữa thầy trò tránh được sự căng thẳng.
2.4.8 Đặt chữ “Tâm” lên hàng đầu: Người giáo viên được xem là
“Kỹ sư tâm hồn”. Chính cái “Tâm” của người giáo viên chủ nhiệm sẽ giúp
cho họ có đủ kiên nhẫn để thực hiện hết trách nhiệm của mình. Đó là năng
lực để cảm hóa học sinh. Việc dùng nhân cách để giáo dục nhân cách chính



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×