Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay đối với DNV&N tại chi nhánh BIDV thanh xuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (388.76 KB, 80 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong các nguồn vốn tài trợ cho các doanh nghiệp và hoạt động kinh tế,
xã hội thì tín dụng ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng hàng
đầu góp phần phát triển kinh tế xã hội của toàn đất nước. Tín dụng ngân hàng
hoạt động có hiệu quả hay không sẽ gây ra tác động trực tiếp đến sự tăng
trưởng và phát triển của nền kinh tế cũng như các hoạt động xã hội.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế ngày càng sâu và rộng của Việt Nam,
trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt là sau khi trở thành thành viên chính
thức của tổ chức Thương mại Thế Giới WTO, hoạt động của hệ thống ngân
hàng nói chung và vai trò của tín dụng ngân hàng nói riêng sẽ có ảnh hưởng
mạnh mẽ, tao ra động lực thúc đẩy cho toàn bộ nền kinh tế đạt được sự tăng
trưởng và phát triển vượt bậc.
Trong thời gian qua, đặc biệt là từ khi chính phủ ban hành nghị định
90/2001/NĐ – CP, nghị định về việc phát triển của DNV&N thì các DNV&N
đã có một môi trường thuận lợi cho sự tăng trưởng cả về số lượng lẫn chất
lượng.Theo thống kê của Bộ kế hoạch và đầu tư năm 2010,cả nước hiện
nayDNV&Nchiếm khoảng 96% trong tổng số 250000doanh nghiệp.Với sự ra
đời của Luật doanh nghiệp năm 1999 và được sửa đổi bổ sung vào năm
2005,môi trường kinh doanh dần được cải thiện,môi trường đầu tư thông
thoáng đã tạo ra điều kiện thuận lợi cho việc ra đời và phát triển nhanh về số
lượng doanh nghiệp . DNV&Nđã ngày càng khẳng định được vị trí, vai trò,
tầm quan trọng của mình trong khối các thành phần kinh tế. Với những bước
phát triển đột biến, trở thành lực lượng quan trọng trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, góp phần giải phóng và phát triển sức sản
xuất, tăng kim ngạch xuất khẩu,tăng thu ngân sách và tham gia có hiệu quả
các vấn đề xã hội… Để đạt được những thành công đó không chỉ có sự phấn
Nguyễn Hồng Hạnh Lớp: NHC – CĐ 25
Chuyên đề tốt nghiệp
đấu nỗ lực của riêng DNV&N mà cần có sự quan tâm, tạo điều kiện của Đảng


và nhà nước. Điều này được thể hiện rất rõ thông qua chính sách của Đảng và
Nhà nước.
Tuy nhiên trong thực tế sự phát triển của loại hình doanh nghiệp này vẫn
còn gặp nhiều khó khăn, mà một trong những khó khăn lớn nhất là việc tìm
kiếm nguồn vốn tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong đó có khả
năng tiếp cận với nguồn vốn tín dụng ngân hàng, trong khi vốn huy động và
tiền nhàn rỗi tại ngân hàng đang tăng cao, đó là một thực tế tồn tại trong nhiều
năm qua gây trở ngại không nhỏ đối với sự phát triển của chính doanh nghiệp,
và sự phát triển của đất nước.
Cho vay đối với DNV&N ngân hàng có rất nhiều lợi thế: giúp ngân hàng
phân tán rủi ro, do giá trị khoản vay nhỏ lẻ trong khi doanh số của tất cả các
khoản vay lại lớn, trong khi việc tìm kiếm khách hàng lớn gặp khó khăn và
tốn chi phí. Mà lợi ích của DNV&N đối với ngân hàng không chỉ thu lãi từ
hoạt động tín dụng, mà còn thu các khoản phí dịch vụ, huy động nguồn tiền
gửi với chi phí thấp, tăng cường các mối quan hệ… Nhận thức rõ được vai trò
quan trọng của DNV&N trong nền kinh tế, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
chi nhánh Thanh Xuân đã xác định đây là khách hàng tiềm năng và là mục
tiêu hoạt động mở rộng tín dụng. Mục tiêu mà ngân hàng đưa ra không chỉ là
việc mở rộng tín dụng càng nhiều mà cần phải đảm bảo chất lượng của khoản
tín dụng đó.
Trong thời gian thực tập tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển chi nhánh
Thanh Xuânem đã lựa chọn đề tài: “ Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển chi nhánh Thanh Xuân” để nghiên cứu. Tuy thời gian thực tập không
dài nhưng đây là thời gian em có thể vận dụng lý thuyết đã được học tập và
nghiên cứu trong 3 năm trên giảng đường cao đẳng vào thực tế, đồng thời em
cũng nắm bắt được thực trạng về vấn đề tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và
Nguyễn Hồng Hạnh Lớp: NHC – CĐ 25
Chuyên đề tốt nghiệp
nhỏ tại ngân hàng.

2. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu những cơ sở lý luận cơ bản về DNV&N để từ đó thấy được
bất lợi và ưu thế của DNV&N của nước ta hiện nay.
Nghiên cứu những tiêu thức chung về mở rộngviệc cho vay đối với các
DNV&N để có những căn cứ đánh giá thực trạng hoạt động mở rộng việc cho
vay tại ngân hàng.
Nghiên cứu thực trạng hoạt động cho vay tại Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển chi nhánh Thanh Xuân trong thời gian qua để đề xuất những giải pháp
nhằm mở rộng và nâng cao chất lượng cho vay đối với DNV&N tại BIDVchi
nhánh Thanh Xuân.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: thực trạng hoạt động cho vay đối với DNV&N tại
BIDV chi nhánh Thanh Xuân.
Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động của việc cho vay đối với DNV&N tại
BIDV chi nhánh Thanh Xuân.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong chuyên đề bao gồm
phương pháp so sánh, phân tích tổng hợp, luận giải, thống kê.
5. Kết cấu chuyên đề:
Bài chuyên đề gồm có 3 phần : Phần mở đầu, phần nội dụng, phần kết
luận. Trong đó phần nội dung có 3 chương:
Chương I: Chất lượng cho vay đối với DNV&N tại ngân hàng thương
mại
Chương II: Thực trạng chất lượng cho vayđối với DNV&N tại Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển chi nhánh Thanh Xuân.
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay đối với DNV&N tại
ngân hàng Đầu tư và Phát triển chi nhánh Thanh Xuân.
Nguyễn Hồng Hạnh Lớp: NHC – CĐ 25
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG I:

CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
VỪA VÀ NHỎ TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.Hoạt động cho vay tại ngân hàng thương mại
1.1.1Khái quát về ngân hàng thương mại:
1.1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng thương mại:
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử hình
thành và phát triển của nền sản xuất hàng hóa.Quá trình phát triển kinh tế là
điều kiện và đòi hỏi sự phát triển của ngân hàng và đến lượt mình,sự phát
triển của hệ thống ngân hàng trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
Nghề ngân hàng bắt đầu với nghiệp vụ đổi tiền hoặc đúc tiền của các thợ
vàng. Trong điều kiện lưu thông tiền kim loại(bạc hoặc vàng),các chủ cửa
hàng vừa đổi tiền,thanh toán hộ,vừa đúc tiền.Những ngân hàng này gọi là
ngân hàng của những thợ vàng.Nghề ngân hàng cũng được bắt đầu từ những
người cho vay nặng lãi.Một số người cho vay nặng lãi đã thực hiện cả nghiệp
vụ đổi tiền, giữ hộ và thanh toán hộ.
Như vậy có thể nói rằng hình thức ngân hàng đầu tiên là ngân hàng của
các thợ vàng, hoặc ngân hàng của những kẻ cho vay nặng lãi đã thực hiện cho
vay với các cá nhân, chủ yếu là những người giàu :quan lại,địa chủ…với mục
đích phục vụ tiêu dùng.Thậm chí nhiều chủ ngân hàng lớn còn mở rộng cho
vay đối với vua chúa, nhằm tài trợ một phần chi tiêu cho chiến tranh.Hình
thức cho vay chủ yếu là thấu chi, tức là cho phép khách hàng chi nhiều hơn số
tiền gửi tại ngân hàng, một hình thức cho vay nhiều rủi ro. Do lợi nhuận từ
hình thức cho vay này rất cao , nhiều chủ ngân hàng đã lạm dụng ưu thế của
chứng chỉ tiền (lưu thông thay vàng hoặc bạc), phát hành chứng chỉ tiền gửi
để khống chế cho vay. Thực trạng này đã đẩy nhiều ngân hàng đến chỗ mất
khả năng thanh toán và phá sản.Sự sụp đổ của các ngân hàng gây ra khó khăn
Nguyễn Hồng Hạnh Lớp: NHC – CĐ 25
Chuyên đề tốt nghiệp
lớn cho hoạt động thanh toán,ảnh hưởng xấu tới hoạt động buôn bán. Hơn
nữa,lãi suất cao nên những nhà buôn không thể tiếp tục sử dụng nguồn vay

này.Trước tình hình đó nhiều nhà buôn đã đứng ra thành lập ngân hàng của
riêng mình,gọi nó là ngân hàng thương mại.Theo đó,ngân hàng thương mại
được hình thành xuất phát từ vận động của tư bản thương nghiệp,và gắn liền
với quá trình luân chuyển của tư bản thương nghiệp. Sự phá sản của nhiều
ngân hàng thương mại đã gây tổn thất lớn cho những người gửi tiền là nguyên
nhân dẫn đến hình thành ngân hàng tiền gửi.Ngân hàng này không cho vay
,chỉ thực hiện giữ hộ,thanh toán để lấy phí.
Hoạt động của ngân hàng đã có những bước tiến rất nhanh cùng với sự
phát triển kinh tế và công nghệ.Đầu tiên phải kể đến là sự đa dạng các loại
hình ngân hàng và hoạt động ngân hàng. Nhiều nghiệp vụ truyền thống vẫn
được giữ vững đồng thời rất nhiều nghiệp vụ mới đang ngày càng phát triển.
Ngân hàng thương mại xuất phát từ chỗ chỉ cho vay ngắn hạn đã mở rộng
sang cho vay trung và dài hạn, cho vay để đầu tư vào bất động sản.Thậm chí
hầu hết các NHTM hiện nay còn mở rộng cho vay tiêu dùng ,kinh doanh
chứng khóan,cho thuê…Bên cạnh đó các hình thức huy động tiền gửi cũng
được các ngân hàng chú trọng nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng.
Thanh toán điện tử đang ngày một chiếm ưu thế hơn so với hình thức thanh
tóan thủ công về tốc độ ,tính thuận tiện,an toàn trong thanh tóan.
1.1.1.2.Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền
kinh tế. Ngân hàng gồm nhiều loại khác nhau tuỳ thuộc vào sự phát triển của
nền kinh tế và hệ thống tài chính, trong đó ngân hàng thương mại thường
chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần cũng như số lượng các
ngân hàng.
Ngân hàng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá
nhân, hộ gia đình, và một phần đối với Nhà nước và các tỉnh, thành phố…
Nguyễn Hồng Hạnh Lớp: NHC – CĐ 25
Chuyên đề tốt nghiệp
Đối với các doanh nghiệp, ngân hàng là tổ chức cấp tín dụng cho việc mua
hàng hoá dự trữ hoặc xây dựng nhà máy, mua sắm thiết bị. Khi doanh nghiệp

và các khách hàng phải thanh toán các khoản mua hàng hoá dịch vụ, họ
thường sử dụng séc, uỷ nhiệm chi, thẻ tín dụng hay tài khoản điện tử… khi họ
cần các thông tin tài chính hoặc lập các kế hoặch tài chính, thì ngân hàng lại
là trung tâm tư vấn.
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất. Bên cạnh
chức năng quan trọng nhất là trung gian tài chính, chuyển tiền tiết kiệm đầu
tư, cân bằng giữa các cá nhân, tổ chức của nền kinh tế có thặng dư và thâm
hụt tổng chi tiêu, ngân hàng còn có chức năng trung gian thanh toán cũng như
tạo phương tiện thanh toán cho toàn bộ nền kinh tế. Tuỳ thuộc vào sự phát
triển của nền kinh tế và hệ thống tài chính mà các dịch vụ của ngân hàng có
sự phát triển và đa dạng hoá khác nhau. Theo luật các tổ chức tín dụng của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “ Hoạt động ngân hàng là hoạt
động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là
nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ
thanh toán”.
1.1.1.3.Các chức năng của NHTM
1.1.1.3.1.Chức năng trung gian tín dụng
Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất
của NHTM.Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng,NHTM đóng vai trò
là cầu nối giữa người thừa vốn và người có nhu cầu về vốn.Với chức năng
này,NHTM vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho
vay và hưởng lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa lãi suất nhận gửi và lãi suất
cho vay và góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia: người gửi tiền và
người đi vay.
1.1.1.3.2.Chức năng trung gian thanh toán
NHTM đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân,thực
Nguyễn Hồng Hạnh Lớp: NHC – CĐ 25
Chuyên đề tốt nghiệp
hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản
tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa,dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản

tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh
của họ.Các NHTM cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán
tiện lợi như séc,ủy nhiệm chi,ủy nhiệm thu,thẻ rút tiền,thẻ thanh toán,thẻ tín
dụng…Tùy theo nhu cầu,khách hàng có thể chọn cho mình phương thức
thanh toán phù hợp.Nhờ đó mà các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong
túi, mang theo tiền để gặp chủ nợ, gặp người phải thanh toán dù ở gần hay xa
mà họ có thể sử dụng một phương thức nào đó để thực hiện các khoản thanh
toán.Do vậy, các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí ,thời gian,
lại đảm bảo thanh toán an toàn. Chức năng này vô hình trung đã thúc đẩy lưu
thông hàng hóa,đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn,từ đó góp
phần phát triển kinh tế.
1.1.13.3.Chức năng tạo tiền
Tạo tiền là một chức năng quan trọng ,phản ánh rõ bản chất của
NHTM.Với mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận như là một yêu cầu chính cho sự
tồn tại và phát triển của mình, các NHTM với nghiệp vụ kinh doanh mang
tính đặc thù của mình đã vô hình chung thực hiện chức năng tạo tiền cho nền
kinh tế.Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của
NHTM là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán.Thông qua chức năng
trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số
tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán
dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn
được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng
hóa,thanh toán dịch vụ…Với chức năng này,hệ thống NHTM đã làm tăng
tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán,
chi trả của xã hội.
1.1.1.4.Các hoạt động cơ bản của NHTM
Nguyễn Hồng Hạnh Lớp: NHC – CĐ 25
Chuyên đề tốt nghiệp
1.1.1.4.1.Hoạt động huy động vốn
Nguồn vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu trong hoạt động kinh doanh

của NHTM . Các NHTM nhận vốn từ những người gửi tiền, các chủ thể cho
vay để phục vụ cho nhu cầu kinh doanh của mình nên nguồn vốn này được
xem như một khoản nợ của ngân hàng.
1.1.1.4.2.Hoạt động tín dụng
Hoạt động tín dụng là một trong những nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng, nó
là hoạt động sinh lợi chủ yếu và luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản có của
các NHTM.Do đó,nó có vị trí rất quan trọng trong hoạt động của ngân hàng
1.1.1.4.3.Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ
1.1.1.4.4.Các hoạt động khác
Là những hoạt động không mang lại lợi ích trực tiếp cho ngân hàng
1.1.2 Cho vay tại NHTM
1.1.2.1.Khái niệm cho vay
“Cho vay là một hình thức cấp tín dụng theo đó tổ chức tín dụng giao
cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời hạn nhất
định theo thỏa thuận với nguyên tắc hoàn trả gốc và lãi”.
1.1.2.2.Các hình thức cho vay tại NHTM
 Theo thời hạn tín dụng
Căn cứ vào tiêu thức này, người ta chia tín dụng thành 3 loại:
-Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới 1 năm( một số
nước quy định dưới 2 năm). Tín dụng ngắn hạn được dùng để bổ sung sự
thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của các doanh nghiệp và phục vụ các nhu
cầu sinh hoạt của cá nhân.
-Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Loại tín
dụng này được cấp để mua sắm tài sản cố định, cải tiến đổi mới kĩ thuật, mở
rộng sản xuất và xây dựng các công trình nhỏ, có thời hạn thu hồi vốn nhanh.
-Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm, được sử dụng
Nguyễn Hồng Hạnh Lớp: NHC – CĐ 25
Chuyên đề tốt nghiệp
để cấp vốn cho xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng xí nghiệp mới, các công
trình thuộc cơ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng sản xuất với quy mô lớn.

 Theo đối tượng tín dụng:
Theo tiêu thức này người ta chia làm hai loại:
-Tín dụng vốn lưu động: là loại tín dụng được sử dụng để hình thành vốn
lưu động của các tổ chức kinh tế, có nghĩa là cho vay bù đắp vốn lưu động
thiếu hụt tạm thời.
-Tín dụng vốn cố định: là loại tín dụng được sử dụng để hình thành tài
sản cố định, có nghĩa là đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến đổi mới kỹ
thuật, mở rộng sản xuất, xây dựng xí nghiệp và công trình mới.
 Theo mục đích sử dụng:
-Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: là tín dụng cấp cho các doanh
nghiệp, các chủ thể kinh doanh để tiến hành sản xuất và lưu thông hàng hoá.
- Tín dụng tiêu dùng: là loại tín dụng cấp cho các cá nhân để đáp ứngnhu
cầu tiêu dùng như: mua sắm nhà cửa, xe cộ, các loại hàng hoá như tủ lạnh,
máy giặt…
 Theo mức độ đảm bảo:
- Tín dụng có đảm bảo: là hình thức cấp tín dụng có tài sản hoặc người
bão lãnh đứng ra làm bão lãnh cho khoản nợ vay.
- Tín dụng không có đảm bảo: là hình thức tín dụng không có tài sản
hoặc người bảo lãnh đứng ra bảo lãnh cho khoản nợ vay.
 Theo xuất xứ của tín dụng:
- Tín dụng gián tiếp: là hình thức cấp tín dụng thông qua một trung gian
tài chính như một ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng khác.
- Tín dụng trực tiếp: là hình thức cấp tín dụng giữa người có tiền( hoặc
hàng hoá) với người sử dụng tiền( hoặc hàng hoá) đó, không cần phải thông
qua một trung gian tài chính nào cả.
1.2.Hoạt động cho vay đối với DNV&N tại NHTM
Nguyễn Hồng Hạnh Lớp: NHC – CĐ 25
Chuyên đề tốt nghiệp
1.2.1.Doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.2.1.1.Khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ

Doanh nghiệp vừa và nhỏ là một bộ phận đóng vai trò quan trọng trong
nền kinh tế ở tất cả các nước trên thế giới không phân biệt quốc gia và vùng
lãnh thổ. Tuy nhiên khái niệm, đặc điểm, tiêu chí xác định DNV&N tại các
nước khác nhau. Ngay trong một nền kinh tế, tiêu chí xác định DNV&N đối
với những ngành khác nhau cũng không giống nhau.
Tuy vậy những tiêu thức được sử dụng chủ yếu và tiêu biểu nhất là số
lao động, doanh thu, vốn đầu tư
Khi tiếp cận khái niệm về DNV&N thừờng dựa trên các nhóm chỉ tiêu
định tính và định lượng song các chỉ tiêu định lượng vẫn đóng vai trò quyết
định để phân biệt nhóm doanh nghiệp này với nhóm doanh nghiệp lớn.
Có ba chỉ tiêu định lượng sau đây thường được dùng độc lập hoặc kết
hợp với nhau để xác định tính chất nhỏ và vừa của doanh nghiệp:
Thứ nhất,lượng vốn đầu tư vào máy móc ,dây chuyền sản xuất.
Thứ hai,số lượng lao động.
Thứ ba,qui mô sản xuất hoặc doanh thu từ hoạt động kinh doanh.
Xét về mặt định tính, các chỉ tiêu được xem xét là cơ cấu công ty
,số lượng người quản lý, người ra quyết định chính, ngành nghề kinh
doanh,…Đối với hầu hết các quốc gia trên thế giới việc phân loại DNV&N
không hề liên quan đến hình thức sở hữu cũng như tư cách pháp nhân của
doanh nghiệp,điều đó có nghĩa là khái niệm sẽ được áp dụng cho tất cả các
loại hình doanh nghiệp như doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân,
công ty hợp danh,công ty liên doanh,hộ kinh doanh,…
Dưới đây là khái niệm về DNV&N của một số quốc gia trên thế giới:
Tại Nhật Bản:Tiêu chí để xác định DNV&N được quy định trong “Luật
cơ bản về DNV&N” như sau:
-Đối với các ngành sản xuất ,các doanh nghiệp có số nhân viên thường
Nguyễn Hồng Hạnh Lớp: NHC – CĐ 25
Chuyên đề tốt nghiệp
xuyên dưới 300 người hoặc số vốn kinh doanh dưới 100 triệu Yên thì được
xem là DNV&N.

-Đối với các ngành bán buôn,các doanh nghiệp có số nhân viên thường
xuyên dưới 100 người hoặc số vốn kinh doanh dưới 30 triệu Yên thì được coi
là DNV&N.
-Đối với ngành bán lẻ hoặc dịch vụ,các doanh nghiệp có số nhân viên
dưới 50 người hoặc số vốn kinh doanh dưới 10 triệu Yên thì được coi là
DNV&N.
Ở Việt Nam tiêu chí xác định DNV&N được quy định cụ thể tại Nghị
định số 90/2001/NĐ – CP ngày 23/11/2001 do chính phủ ban hành. Theo đó:
“ DNV&N là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập đã đăng ký theo pháp luật
hiện hành, có số vốn không vượt quá 10 tỷ đồng hoặc có số lao động trung
bình hằng năm không vượt quá 300 người”. Đây là văn bản pháp luật đầu tiên
chính thức quy định về DNV&N, là cơ sở để các chính sách và biện pháp hỗ
trợ của cơ quan nhà nước thực hiện các biện pháp hỗ trợ cho các DNV&N. Từ
đó đến nay , khái niệm DNV&N được hiểu và thống nhất trên cả nước.
Ở Việt Nam, tính từ năm 2000 đến năm 2006,cả nước có 207034 doanh
nghiệp dân doanh( chủ yếu là các DNV&N đăng kí kinh doanh thành lập mới
với tổng số vốn đăng kí đạt hơn 466 nghìn tỷ đồng.
Mặc dù khái niệm về DNV&N khác nhau tại mỗi quốc gia nhưng chúng ta
vẫn có thể kết luận rằng thuật ngữ DNV&N là hàm ý nói tới một tập hợp các
thực thể kinh tế có quy mô vừa và nhỏ xét trên phương diện vốn và lao động so
với mặt bằng phát triển chung của nền kinh tế tại mỗi quốc gia nhất định.
Một vấn đề đặt ra là nhóm doanh nghiệp này có những đặc điểm gì khác
biệt mà nhờ nó chúng trở thành một động lực quan trọng thúc đẩy sự phát
triển của nền kinh tế,đồng thời thu hút rất nhiều sự quan tâm đặc biệt của mọi
quốc gia trong quá trình phát triển kinh tế.
1.2.1.2. Đặc điểm doanh nghiệp vừa và nhỏ
Nguyễn Hồng Hạnh Lớp: NHC – CĐ 25
Chuyên đề tốt nghiệp
Tại Việt Nam,DNV&N chiếm trên 95% tổng số doanh nghiệp hiện có
trên cả nước,các DNV&N đang hoạt động trong môi trường kinh tế chưa hoàn

toàn thuận lợi cả về mặt vi mô và vĩ mô.Trong đó gặp nhiều khó khăn về công
nghệ sản xuất kinh doanh ,mô hình quản lý, trình độ,kỹ năng của đội ngũ lãnh
đạo và tay nghề của người lao động,phương thức tiếp thị sản phẩm,đặc biệt là
sự hạn chế về tiếp cận thị trường và dịch vụ tài chính, vốn đầu tư…
Khu vực DNV&N hiện nay đang gặp phải rất nhiều khó khăn về vốn.Đa
phần các DNV&N có quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ lại luôn trong tình
trạng thiếu vốn ,”khát vốn” cho mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh ,đầu tư
cải tiến máy móc,trang thiết bị mới,nâng cao chất lượng nguồn nhân lực…
Tuy nhiên, theo khảo sát của 48 ngân hang từ 14 nền kinh tế có 38%
ngân hang coi DNV&N quan trọng hơn các doanh nghiệp lớn,47% coi
DNV&N và các doanh nghiệp lớn có tầm quan trọng như nhau và chỉ có 15%
coi doanh nghiệp lớn có vai trò quan trọng hơn DNV&N.Với nhiều khó khăn
đòi hỏi DNV&N phải vượt qua và vươn lên để có thể tồn tại và đứng vững
trên thị trường đã tạo ra cho nhóm doanh nghiệp này những đặc điểm nổi bật
của riêng mình:
1.2.1.2.1.Hoạt động kinh doanh của các DNV&N rất năng động,linh hoạt:
Các chủ doanh nghiệp không ngừng tìm kiếm lĩnh vực mà ở đó sự cạnh
tranh chưa cao,song lại đem lại lợi nhuận nhanh chóng.Bên cạnh đó nhóm
doanh nghiệp này có thể dễ dàng thay đổi ngành nghề kinh doanh với chi phí
thấp do lượng vốn bỏ ra không nhiều.
Về ngành nghề kinh doanh
Với nhiều hạn chế về nguồn vốn và chất lượng nguồn nhân lực nên có
rất nhiều lĩnh vực mà các DNV&N không thể tham gia như các ngành luyện
kim,khai thác mỏ,ngân hang tài chính,…Vì vậy lĩnh vực kinh doanh của
nhóm doanh nghiệp này thường là các ngành công nghiệp nhẹ như may
mặc,giày dép, hải sản đông lạnh,đồ gỗ,hàng thủ công mỹ nghệ,sản xuất bao
Nguyễn Hồng Hạnh Lớp: NHC – CĐ 25
Chuyên đề tốt nghiệp
bì,đóng gói …Lĩnh vực dịch vụ được các DNV&N chú trọng là vận tải nội
hành,vui chơi giải trí,dịch vụa ăn uống,chăm sóc khách hang…Ngoài ra

thương mại cũng là một trong những thế mạnh của DNV&N như :xuất khẩu
gạo,thu mua nguyên vật liệu trong và ngoài nước,đại diện bán hàng, tham gia
vào các kênh phân phối sản phẩm
Về chu kỳ kinh doanh
Chu kỳ kinh doanh của các doanh nghiệp thường diễn biến theo
mùa.Việc lập chiến lược phát triển dài hạn của các doanh nghiệp này thường
không được chú trọng và không rõ rang.
Về thị trường và mức độ cạnh tranh
Thị trường của các DNV&N chủ yếu là phục vụ các doanh nghiệp
lớn,cung cấp nguyên vật liệu,làm đại lý bán hàng,kênh phân phối,hoặc những
đoạn thị trường còn bỏ ngỏ với quy mô nhỏ và độ sâu hạn chế.Những thị
trường này chứa đựng nhiều rủi ro và không ổn định khiến hoạt động của
DNV&N bấp bênh,không ổn định.Do đó, sự cạnh tranh ngày càng trở nên gay
gắt hơn, mà đối thủ cạnh tranh lớn nhất ở đây không phải là các doanh nghiệp
lớn mà lại là các doanh nghiệp có cùng qui mô.Nguyên nhân là do các doanh
nghiệp lớn thường có thị trường ổn định,với nhóm khách hàng mục tiêu được
xác định trước.Khi có ý định mở rộng thị trường các doanh nghiệp lớn thường
tìm kiếm những thị trường có quy mô lớn,có chiều sâu. Trong khi đó các
DNV&N số lượng đông đảo, có mục đích tương tự nhau là tìm kiếm những
thị trường còn bỏ ngỏ.Còn hình thức cạnh tranh mà các DNV&N thường
dùng là cạnh tranh về giá cả.
1.2.1.2.2.DNV&N tạo điều kiện duy trì tự do cạnh tranh:
Khác với những doanh nghiệp lớn đòi hỏi một thị trường lớn,thậm chí là
cần tới sự bảo hộ của Chính phủ và có sự độc quyền,các DNV&N hoạt động
với số lượng đông đảo dễ dàng và sẵn sàng chấp nhận tự do cạnh tranh,
thường không có tình trạng độc quyền.Mặt khác,DNV&N cũng có tính tự chủ
Nguyễn Hồng Hạnh Lớp: NHC – CĐ 25
Chuyên đề tốt nghiệp
cao hơn so với các doanh nghiệp lớn,sẵn sang khai thác triệt để các cơ hội
phát triển mà không ngại rủi ro.Chính điều đó là động lực thúc đẩy nền kinh

tế phát triển năng động hơn,khai thác tối đa mọi tiềm năng của đất nước.Đây
là một ưu thế rất quan trọng của DNV&N.
1.2.1.2.3.DNV&N có thể phát huy được tiềm lực trong nước:
Thành công của DNV&N là nắm được những điều kiện cụ thể của đất
nước về tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao động.Đối với doanh nghiệp
lớn,việc sử dụng nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương gặp rất nhiều khó
khăn do lượng dự trữ thấp.Ngược lại,các DNV&N có lợi thế trong việc sử
dụng lao động dồi dào tại địa phương và vận dụng các tài nguyên,tư liệu sản
xuất sẵn có,phát huy được tiềm lực trong nước cho sản xuất kinh doanh.
1.2.1.2.4.DNV&N góp phần tạo lập sự phát triển cân bằng giữa các vùng
trong một quốc gia:
Do được tạo lập một cách dễ dàng,DNV&N có thể phát triển rộng rãi ở
vùng lãnh thổ và tạo ra những sản phẩm phong phú,đồng thời tạo ra sự phát
triển cân bằng giữa các vùng lãnh thổ trong mỗi nước.Đặc biệt là các
DNV&N có thể có mặt ở khắp mọi miền đất nước,kể cả nông thôn hay miền
núi,những nơi thưa dân,kinh tế chưa phát triển. Theo đó các DNV&N cung
cấp hàng hóa và dịch vụ cho cư dân địa phương và những vùng phụ cận.Trên
thực tế các DNV&N cung ứng sảnphẩm tại chỗ với khoảng 95% sản phẩm
tiêu thụ nội địa,mà chủ yếu là tiêu trong vùng ,khoảng 5% sản phẩm dành cho
xuất khẩu.Do đó,nhóm doanh nghiệp này đã góp phần đắc lực cho sự tăng
trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước.
Không chỉ dừng lại ở đó DNV&N còn góp phần vào việc giải quyết các
vấn đề xã hội như giải quyết nạn thất nghiệp,góp phần tăng thu nhập cho
người lao động,cải thiện đời sống và xóa dần những khoảng cách về thu
nhập,mức sống giữa khu vực thành thị và nông thôn.
Mặc dù có nhiều lợi thế song các DNV&N của Việt Nam vẫn tồn tại
Nguyễn Hồng Hạnh Lớp: NHC – CĐ 25
Chuyên đề tốt nghiệp
không ít những khó khăn,hạn chế:
Thứ nhất,theo nhiều chuyên gia kinh tế nhận xét,với quy mô

nhỏ,phần lớn mới được thành lập trong vòng gần chục năm trở lại
đây,nhất là sau khi có Luật Doanh nghiệp ra đời nên DNV&N còn ít kinh
nghiệm kinh doanh,chi phí kinh doanh cao.Thêm vào đó là năng suất lao
động thấp,năng lực ứng dụng công nghệ trong sản xuất ,kinh doanh và quản
lý ở các DNV&N còn yếu.Để có thể thành công trong một nền kinh tế cạnh
tranh cao độ như hiện nay,các doanh nghiệp phải thường xuyên thay đổi công
nghệ,máy móc,thiết bị,các phương pháp,bí quyết sản xuất.Thế nhưng công
nghệ được sử dụng trong các DNV&N Việt Nam được đánh giá là lạc hậu.Do
ảnh hưởng của tư duy sản xuất nhỏ và một phần là do thiếu vốn nên rất nhiều
DNV&N đầu tư từng giọt,làm từng phần,mỗi năm mua them một số máy
móc,thiết bị,vừa làm vừa cải tiến.Điều đó làm cho công nghệ được sử dụng
trong các donah nghiệp này thành mớ hỗn độn,chắp vá dẫn đến hạn chế khả
năng sản xuất,đa dạng hóa sản phẩm,hạn chế năng suất,chất lượng sản phẩm,
làm tăng chi phí sản xuất.
Thứ hai,khó khăn lớn nhất,bức xúc nhất của các DNV&N hiện nay
vẫn là thiếu vốn bởi năng lựa vốn nội tại của các doanh nghiệp này còn
hạn chế( số vốn của các DNV&N còn rất thấp) . Theo ông Cao Sỹ
Khiêm,chủ tịch hiệp hội DNV&N thì “ ở nhiều nước khác,doanh nghiệp ra
đời bao giờ vốn tự có cũng là chính,vay ngân hàng chỉ là bổ sung nên phát
triển rất vững chắc.Còn ở Việt Nam doanh nghiệp ra đời với vốn điều lệ ít
hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu dựa vào vốn vay”. Qua khảo sát điều
tra hơn 63 nghìn doanh nghiệp tại 30 tỉnh thành phía bắc thì có khoảng 50%
doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng,gần 75% doanh nghiệp có vốn dưới 2 tỷ
đồng và có tới 90% doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỷ đồng.Đa phần các
DNV&N có quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ lại luôn trong tình trạng thiếu
vốn, “khát vốn” cho mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh,đầu tư cải tiến máy
Nguyễn Hồng Hạnh Lớp: NHC – CĐ 25
Chuyên đề tốt nghiệp
móc,trang thiết bị mới.Điều đó cho thấy nhu cầu vốn để mở rộng sản xuất
kinh doanh của các DNV&N là rất lớn.Về lý thuyết,với số lượng DNV&N

đông đảo như vậy với đặc thù vốn ít chính là đối tượng khách hàng đầy tiềm
năng của các ngân hàng.Bằng chứng là ước tính có đến 80% lượng vốn cung
ứng cho DNV&N là từ kênh ngân hàng.
1.2.1.3 Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏđối với phát triển đất nước.
Hiện nay ở nước ta các DNV&N có bước phát triển mạnh, số lượng tăng
lên rất nhanh, đóng góp ngày cang lớn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Vì vậy vai trò của các DNV&N ngày càng quan trọng đối với nền kinh tế xã
hội của nước ta và được thể hiện trên các mặt sau:
 Tạo công ăn việc làm và thu nhập cho người lao động:
Số lượng DNV&N ở nước ta hiện nay rất lớn, do đó tạo ra một khối
lượng lớn việc làm và thu nhập cho người lao động, giảm thiểu thất nghiệp và
tệ nạn xã hội.
 Thu hút vốn nhàn rỗi trong dân cư:
Tiềm lực tài chính trong dân cư là vô cùng lớn, tuy nhiên lại dàn trải,
phân tán không tập trung thành nguồn vốn lớn phục vụ cho nhu cầu vốn lớn.
Với đặc điểm quy mô nhỏ, phạm vi phân tán, hoạt động trong mọi ngành
nghề nên DNV&N có vai trò rất quan trọng trong việc thu hút các nguồn vốn
nhàn rỗi vào sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của toàn xã hội.
 Đóng góp vào GDP, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước:
Số lượng DNV&N trong thời gian qua đã tăng lên nhanh chóng. Các DN
này đã đóng góp 30% GDP của cả nước. Hoạt động ở nhiều ngành nghề, vùng
miền do đó góp phần thúc đẩy sức cạnh tranh giữa các DN, bao gồm cả những
DN lớn. Các DN này góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
tạo việc làm, cải thiện cán cân thanh toán, làm cho nền kinh tế năng động và hiệu
quả hơn, từng bước nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống của nhân dân.
 Góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Nguyễn Hồng Hạnh Lớp: NHC – CĐ 25
Chuyên đề tốt nghiệp
Chúng ta có thể nhận thấy sự đóng góp to lớn của DNV&N vào quá trình
dịch chuyển cơ cấu nền kinh tế thông qua việc tạo ra 50% việc làm phi nông

nghiệp or nông thôn và 25-26% lực lượng lao động cả nước. Việc nhiều DN,
chủ yếu là DNV&N được thành lập tại các vùng nông thôn, vùng miền núi,
vùng sâu, vùng xa , sẽ làm giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, công nghiệp và
dịch vụ. điều này sẽ giúp cho việc chuyển dịch cơ cấu toàn bộ nền kinh tế
theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp.
1.2.2.Hoạt động cho vay đối với DNV&N tại ngân hàng thương mại
1.2.2.1.Khái niệm cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân
hàng thương mại
Cho vay khách hàng doanh nghiệp là laoij cho vay chiếm tỷ trọng lớn
nhất trong hoạt động cho vay tại các NHTM,chiếm khoảng 70% hoạt động
cho vay của ngân hàng.Điều đó không chỉ đúng với các nước đang phát triển
mà còn đúng với những nước có thị trường tài chính rất phát triển.
Cho vay đối với DNV&N tại NHTM là một hình thức cấp tín dụng theo
đó NHTM giao cho DNV&N một khoản tiền để sử dụng vào một mục đích
nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc lẫn lãi.
1.2.2.2.Các phương thức cho vay đối với DNV&N tại NHTM
Trong quá trình hoạt động,doanh nghiệp cần đầu tư vốn vào tài sản lưu
động và tài sản cố định.Doanh nghiệp hoàn toàn có thể sử dụng cả nguồn vốn
ngắn hạn và dài hạn để tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản lưu động.Tuy nhiên
do vốn đầu tư vào tài sản cố định là rất lớn nên thong thường doanh nghiệp
khó có thể sử dụng nguồn vốn dài hạn để đầu tư vào tài sản lưu động .Về
nguyên tắc,doanh nghiệp nên tận dụng và huy động tất cả các nguồn vốn ngắn
hạn mà doanh nghiệp có thể tận dụng được.khi nào thiếu hụt,doanh nghiệp có
thể sử dụng nguồn tài trợ ngắn hạn của ngân hàng.Căn cứ vào nhu cầu tài trợ
ngắn hạn của doanh nghiệp có thể chia thành:nhu cầu tài trợ ngắn hạn thường
xuyên và nhu cầu tài trợ ngắn hạn thời vụ.Nhu cầu tài trợ thường xuyên do
Nguyễn Hồng Hạnh Lớp: NHC – CĐ 25
Chuyên đề tốt nghiệp
đặc điểm luân chuyển vốn của doanh nghiệp quyết định trong khi nhu cầu tài
trợ thời vụ do đặc điểm thời vụ của ngành sản xuất kinh doanh quyết định.

Trong quá trình hoạt động doanh nghiệp có nhu cầu tài trợ ngắn hạn,thường
xuyên hoặc thời vụ từ phía ngân hàng.Chính nhu cầu tài trợ này là cơ sở để ngân
hàng thực hiện cấp tín dụng cho doanh nghiệp.Điều này có lợi cho cả hai
phía,DNV&N và ngân hàng.Vềphía các DNV&N,việc cấp tín dụng của ngân
hàng giúp doanh nghiệp bổ sung vốn thiếu hụt đảm bảo cho DNV&N có thể duy
trì và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.Về phía ngân hàng,việc
cấp tín dụng cho DNV&N giúp ngân hàng có thể “tiêu thụ được sản phẩm” của
mình góp phần mang lại lợi nhuận cho ngân hàng.
 Phương thức cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
Có nhiều phương thức cho vay, nhưng cho vay ngắn hạn đối với các
doanh nghiệp các ngân hàng thương mại thường thỏa thuận với khách hàng áp
dụng một trong hai phương thức cho vay phổ biến hiện nay là:
Cho vay từng lần:là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngan
hàng đối với các khách hàng có nhu cầu vay thường xuyên,không có điều
kiện để được cấp hạn mức thấu chi.Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở
hữu là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ,hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới
vay ngân hàng,tức là vốn từ ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất
định của chu kì sản xuất kinh doanh.
Đặc điểm của phương thức cho vay từng lần là mỗi lần khách hàng vay
mónnào thì phải làm hồ sơ vay món đó.Vì vậy,đôi khi phương thức cho vay
này còn được gọi là cho vay theo món.Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và
kí hợp đồng cho vay ,xác định qui mô cho vay ,thời hạn giải ngân,thời hạn trả
nợ,lãi suất và yêu cầu đảm bảo nếu cần.Nghiệp vụ cho vay từng lần có ưu
điểm là :thủ tục tương đối đơn giản;khách hàng chủ động được nguồn vốn
vay;lãi vay trả cho ngân hàng thấp và ngân hàng có thể kiểm soát từng món
Nguyễn Hồng Hạnh Lớp: NHC – CĐ 25
Chuyên đề tốt nghiệp
vay tách biệt.Tuy nhiên,nhược điểm của loại cho vay này là ngân hàng dễ bị
động vốn kinh doanh,thu nhập từ lãi cho vay thấp.
Cho vay theo hạn mức tín dụng là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân

hàng thỏa thuận cấp tín dụng cho khách hàng hạn mức tín dụng( là mức dư nợ
cho vay tối đa được duy trì trong một thời hạn nhất định mà ngân hàng và
khách hàng đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng)
Hạn mức tín dụng có thể được tính cho cả kì hoặc cuối kì.Hạn mức tín
dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu
vay vốn của khách hàng .Trong kì khách hàng có thể vay trả nhiều lần ,song mức
dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng.Một số trường hợp ngân hàng quy
định hạn mức cuối kì,do đó dư nợ trong kì có thể lớn hơn hạn mức.
Đặc điểm cơ bản của phương thức cho vay the hạn mức tín dụng là
khách hàng chỉ cần lập một bộ hồ sơ vay vào đầu kì kế hoạch có thể sử dụng
cho nhiều món vay.
Khác với loại cho vay từng lần là ngân hàng không xác định kì hạn nợ
cho từng món vay mà chỉ khống chế theo mức tín dụng nghĩa là tại một thời
điểm nào đó nếu dư nợ vay của khách hàng lên đến mức tối đa cho phép,thì
khi đó ngân hàng sẽ không phát tiền vay cho khách hàng.
 Các phương thức cho vay trung và dài hạn đối với doanh nghiệp
vừa và nhỏ
Mục đích của cho vay trung và dài hạn có thể xem xét trên hai góc
độ:doanh nghiệp và ngân hàng .Doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn trung và
dài hạn nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố định và đầu tư vào một
phần tài sản lưu động thường xuyên.
Để vay vốn trung và dài hạn của ngân hàng,doanh nghiệp phải lập và
nộp bộ hồ sơ vay vốn . Hồ sơ vay vốn cũng tương tự như hồ sơ vay vốn ngắn
hạn chỉ khác ở chỗ là doanh nghiệp phải lập và nộp cho ngân hàng dự án đầu
tư vốn dài hạn,thay cho gửi tới ngân hàng phương án sản xuất kinh doanh
Nguyễn Hồng Hạnh Lớp: NHC – CĐ 25
Chuyên đề tốt nghiệp
hoặc vay vốn như khi vay ngắn hạn.Dựa vào mục đích cho vay ngân hàng có
thể cho doanh nghiệp vay vốn dài hạn để đầu tư mua sắm tài sản cố định như
máy móc thiết bị hoặc cho doanh nghiệp vay vốn dài hạn đầu tư vào một dự

án đầu tư.
Các phương thức cho vay dài hạn có thể là:
• Cho vay mua sắm máy móc thiết bị
• Cho vay đầu tư dự án
1.3.Chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân
hàng thương mại
1.3.1.Khái niệm chất lượng cho vay đối với DNV&N
Chất lượng cho vay được hiểu là sự đáp ứng kịp thời, đầy đủ nhu cầu về
vốn cho DNV&N và được doanh nghiệp đưa vào quá trình sản xuất kinh
doanh một cách có hiệu quả nhất, có thể tạo ra được lượng tiền lớn hơn để
chi trả đủ chi phí, có lợi nhuận và hoàn trả nợ đầy đủ cho ngân hàng cả gốc
và lãi đúng hạn.
1.3.2.Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng cho vay đối với DNV&N
tại NHTM
Đối với NHTM
Xuất phát từ đặc điểm của DNV&N là vốn tự có ít,trang thiết bị lạc
hậu,trình độ lao động thấp…do vậy cần một khối lượng vốn ban đầu đủ lớn
để tiến hành các hoạt động đầu tư .DNV&N chính là một thị trường tiềm năng
đối với hoạt động cho vay của các NHTM.Các NHTM với tư cách là một
trung gian tài chính trong nền kinh tế ,hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận,và để
đạt được điều đó thì ngân hàng phải chủ động tìm kiếm khoản cho vay có khả
năng sinh lời cao, rủi ro thấp.Trong hoạt động tài trợ vốn cho DN thì chênh
lệch giữu thu nhập và chi phí ngày càng thấp kèm theo là sự cạnh tranh gay
gắt giữa các ngân hàng nên chỉ cần một số ít khoản cho vay không thu lại
được cũng sẽ làm mất lợi nhuận của ngân hàng và có thể ngân hàng phải đối
Nguyễn Hồng Hạnh Lớp: NHC – CĐ 25
Chuyên đề tốt nghiệp
mặt với phá sản. Phải nâng cao chất lượng cho vay để ngân hàng đảm bảo
được nguồn vốn,khả năng sinh lời,nâng cao uy tín ngân hàng,bảo vệ quyền lợi
của khách hàng.Từ đó có thể huy động vốn nhàn rỗi một cách thuận lợi hơn

tạo tiền đề cho việc nâng cao chất lượng cho vay.
Đối với các DNV&N
DNV&N ngày càng đóng góp to lớn vào sự phát triển của kinh tế- xã
hội.DNV&N luôn muốn huy động được vốn một cách nhanh nhất,chi phí rẻ
nhất để thực hiện tốt kế hoạch sản xuất kinh doanh của mình.Việc nâng cao
chất lượng cho vay sẽ thúc đẩy doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn,nâng
cao khả năng hạch toán kinh doanh,khả năng tổ chức sản xuất….Ngân hàng
cũng vì thế mà thu nợ dễ dàng,đúng hạn.
Đối với nền kinh tế
Hoạt động tín dụng nói chung mà phần lớn là cho vay phục vụ sản xuất
lưu thông hàng hóa , góp phần giải quyết việc làm,khai thác được khả năng
tiềm tàng của nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, giải
quyết tốt mối quan hệ tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế.
Nâng cao chất lượng cho vay đối với DNV&N đem lại lợi ích cho cả
NHTM,DNV&N tác động tích cực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.Tuy
nhiên,để đánh giá xem chất lượng cho vay đối với DNV&N như thế nào cần
phải căn cứ vào một số chỉ tiêu trình bày ở phần dưới đây.
1.3.3.Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng cho vay đối với DNV&N tại NHTM
1.3.3.1.Chỉ tiêu định tính
Sự thỏa mãn nhu cầu của khách hàng:chất lượng tín dụng được thể
hiện ở khả năng đáp ứng nhu cầu vốn cho các DNV&N,điều này biểu hiện
bằng việc các DNV&N có được đáp ứng một cách kịp thời, nhanh chóng hay
không?Mỗi doanh nghiệp khác nhau lại có nhu cầu về vốn, thời hạn
vay,phương thức vay khác nhau.Do vậy ngân hàng cần đưa ra được các
phương thức vay đa dạng và phù hợp với từng loại nhu cầu của DNV&N với
Nguyễn Hồng Hạnh Lớp: NHC – CĐ 25
Chuyên đề tốt nghiệp
một quy trình cho vay khoa học,chi tiết nhưng nhanh chóng, tiết kiệm được
thời gian, chi phí.
Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của ngành và đất nước:hoạt

động cho vay của ngân hàng đối với DNV&N phải góp phần thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế của ngành và đất nước.Khi ngân hàng cho các DNV&N với
mục đích sử dụng vốn vay để phát triển, mở rộng hoạt động sản xuất kinh
doanh, nâng cao cơ sở vật chất kỹ thuật, tạo thêm nhiều việc làm và tăng thu
nhập cho người lao động, giải quyết tình trạng thất nghiệp.
1.3.3.2.Nhóm chỉ tiêu định lượng
Nợ quá hạn: Là chỉ tiêu phản ánh mức độ rủi ro trong các khoản tín dụng
của ngân hàng
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Nợ quá hạn
*100%
Tổng dư nợ
Đât là chỉ tiêu đánh giá độ an toàn tín dụng nói riêng và chất lượng nói
chung. Phầnlớn các khoản nợ quá hạn đều là những khoản nợ có vấn đề. Tỷ lệ
nợ quá hạn cao phản ánh mức độ rủi ro trong hoạt động tín dụng và cho thấy
chất lượng tín dụng của ngân hàng là chưa cao.
Nợ xấu: là một chỉ tiêu cần phải đánh giá bên cạnh tỷ lệ nợ quá hạn. Khi
đánh giá rủi ro của hoạt động tín dụng cần pahỉ xem xét cả hai chỉ tiêu nợ quá
hạn và nợ xấu để có những phân tích tổng quát về tình hình tín dụng ngân hàng.
Tỷ lệ nợ xấu =
Nợ xấu
*100%
Tổng dư nợ
Hoặc:
Tỷ lệ nợ xấu =
Nợ xấu
*100%
Nợ quá hạn
Theo quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN sửa đổi bổ sung quyết định
493/2005/QĐ-NHNN thì nợ ngân hàng được chia làm 5 nhóm từ nhóm 1 đến

nhóm 5 trong đó nợ xấu là khoản nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5. Việc đánh giá và
xếp loại nợ của ngâ hàng góp phần vào việc theo dõi và thu hồi các khoản nợ,
qua đó nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng.
Nguyễn Hồng Hạnh Lớp: NHC – CĐ 25
Chuyên đề tốt nghiệp
- Nợ đủ tiêu chuẩn:
+Các khoản nợ trong hạn và tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu
hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn
+Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và tổ chức tín dụng đánh giá là có
khả năng thu hồi đây đủ góc và lãi bị quá hạn và thu hồi đầy đủ góc và lãi
đúng thời hạn còn lại
- Nợ cần chú ý:
Hệ số sử dụng vốn vay =
Tổng dư nợ đói với DNVVN
Tổng vốn huy động
Vòng quay vốn tín dụng =
Doanh số thu nợ
Tổng dư nợ tín dụng
• Lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng: Ngân hàng hoạt động với
mục đích lớn nhất là kinh doanh thu lợi nhuận. Lợi nhuận thu từ hoạt động tín
dụng là một trong những căn cứ để xác định chất lượng của các khoản vay.
Tỷ lệ lãi từ hoạt động tín dụng =
Thực thu lãi từ hoạt động tín dụng
Dư nợ tín dụng bình quân
Hiệu quả quản lý chi phí:chỉ tiêu này phản ánh khả năng quản lý chi phí
của ngân hàng trong việc cho vay đối với DNV&N.Nếu tỷ lệ này cao thì khả
năng quản lý chi phí của ngân hàng tốt, chất lượng cho vay đạt hiệu quả cao
và ngược lại.
Hiệu quả quản lý chi phí =
Lợi nhuận từ cho vay

Thu lãi từ cho vay
1.3.4.Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cho vay đối với DNV&N
tại NHTM
Các nhân tố thuộc về ngân hàng:
 Chính sách tín dụng của ngân hàng:
Với chiến lược kinh doanh đã xây dựng, mỗi ngân hàng sẽ có những
chính sách tín dụng nhất định nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Chính sách tín
dụng quyết định trực tiếp đến quy mô, tính chất và chất lượng của các khoản
tín dụng, cách thức hoạt động của ngân hàng. Chính sách tín dụng phải đảm
Nguyễn Hồng Hạnh Lớp: NHC – CĐ 25
Chuyên đề tốt nghiệp
bảo được khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng, kết hợp hài hoà quyền lợi
người gửi tiền, người đi vay và bản thân ngân hàng. Một chính sách tín dụng
hợp lý sẽ giúp ngân hàng hoạt động hiệu quả và nâng cao chất lượng tín dụng
của ngân hàng.
 Quy trình tín dụng của ngân hàng:
Quy trình tín dụng là tổng hợp các nguyên tắc, quy định của ngân hàng
trong việc cấp tín dụng. Nó bao gồm các giai đoạn khác nhau, bắt đầu từ giai
đoạn lập hồ sơ, phân tích tín dụng, quyết định tín dụng, giải ngân, giám sát
thu nợ và thanh lý tín dụng. Mỗi giai đoạn đều có tầm quan trọng đến việc cấp
tín dụng do đó nó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của khoản vay. Việc
thiết lập một quy trình tín dụng có ý nghĩa quan trọng, nó làm cơ sở cho việc
xây dựng một mô hình tổ chức tín dụng thích hợp tại ngân hàng, dựa vào quy
trình này ngân hàng sẽ thiết lập các thủ tục hành chính phù hợp với các quy
định của pháp luật, là cơ sở để kiểm soát tiến trình cấp tín dụng và điều hành
chính sách tín dụng cho phù hợp với thực tiễn. Do đó nếu ngân hàng thiết lập
một quy trình tín dụng thuận tiện cho khách hàng thì sẽ khuyến khích khách
hàng vay vốn tại ngân hàng từ đó ngân hàng sẽ mở rộng tín dụng.
 Trình độ năng lực của cán bộ tín dụng:
Trong bất kỳ một lĩnh vực kinh doanh nào yếu tố con người luôn có một ý

nghĩa vô cùng quan trong, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng. Trong
hoạt động kinh doanh ngân hàng, đặc biệt là hoạt động tín dụng với những nghiệp
vụ ngày càng được mở rộng và phức tạp thì đội ngũ cán bộ tín dụng cần phải có
chuyên môn nghiệp vụ, tư cách đạo đức tốt, năng động, sáng tạo.
 Công tác thu thập, xử lý thông tin tín dụng của khách hàng:
Thu thập và xử lý thông tin tín dụng của khách hang đóng vai trò hàng
đầu trong việc đánh giá khách hàng đưa ra những quyết định đúng đắn về đầu
tư tín dụng.
 Công nghệ ngân hàng:
Nguyễn Hồng Hạnh Lớp: NHC – CĐ 25
Chuyên đề tốt nghiệp
Trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin thì công nghệ là một bộ
phận không thể thiếu và có tầm anh hưởng to lớn đến kết quả hoạt động kinh
doanh của ngân hang nói chung cũng như chất lượng tín dụng nói riêng. Sự
ảnh hưởng của công nghệ ngân hàng đến chất lượng tín dụng thể hiện ở
những mặt sau:
- Hệ thống quản lý rủi ro tín dụng: Mỗi loại tín dụng có những tính
chất và mức độ rủi ro khác nhau, vì vậy yêu cầu phải có những biện pháp
quản lý rủi ro hợp lý để có thể phù hợp với tính phức tạp của từng loại.
- Mở rộng hoạt động ngân hàng: Việc nâng cao chất lượng tín dụng
chịu ảnh hưởng của công nghệ ngân hàng.
Các nhân tố thuộc về doanh nghiệp:
 Chất lượng dự án kinh doanh của doanh nghiệp:
Dự án kinh doanh của doanh nghiệp sẽ quyết định đường lối, định hướng
hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai. Một dự án khả thi có khả năng
sinh lời cao thì mới có khả năng thu hồi vốn cao, đảm bảo hiệu quả cho hoạt
động kinh doanh của ngân hàng. Một doanh nghiệp có quy mô lớn , có uy tín
nhưng không xây dựng dự án có chất lượng thì sẽ không đem lại lợi nhuận.
Khi xem xét để đưa ra quyết định cấp tín dụng thì việc đánh giá chất lượng dự
án kinh doanh là nội dung phải đặt lên hàng đầu.

 Năng lực và tình hình tài chính của doanh nghiệp:
Năng lực tài chính của DNV&N thể hiện trong khối lượng vốn tự có và
tỷ lệ vốn tự có trong tổng nguồn vốn mà doanh nghiệp đang sử dụng. Vốn tự
có là nhân tố quan trọng, vốn tự có của doanh nghiệp nhỏ sẽ khiến cho doanh
nghiệp gặp nhiều khó khăn, bất lợi trong việc chống lại những biến động của
thị trường.
 Năng lực và trình độ của đội ngũ lãnh đạo:
Một bộ máy lãnh đạo có năng lực quản lý, thích nghi được với biến động
của cơ chế thị trường là điều cần thiết khi ngân hàng quyết định cấp tín dụng.
Nguyễn Hồng Hạnh Lớp: NHC – CĐ 25

×