Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

LỄ CƯỚI CỦA NGƯỜI KHMER NAM BỘ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2 MB, 31 trang )

**

*

ĐỀ TÀI: LỄ CƯỚI CỦA NGƯỜI KHMER NAM BỘ


MỤC LỤC
TỔNG QUAN
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Dự kiến kết quả sau khi nghiên cứu
NỘI DUNG
Chương I: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
Chương II: Tổng quan về người Khmer Nam Bộ
1. Đặc điểm cư trú, sản xuất, tổ chức xã hội của người Khmer
Nam Bộ
2. Văn hóa vật chất của người Khmer Nam Bộ
2.1. Ẩm thực
2.2. Trang phục
2.3. Nhà ở
3. Văn hóa tinh thần của người Khmer Nam Bộ
3.1. Ngôn ngữ và chữ viết
3.3 Tín ngưỡng
3.4. Lễ hội
3.5. Nghệ thuật biểu diễn và nghệ thuật tạo hình
Chương III: Lễ cưới truyền thống của người Khmer Nam Bộ - Nghi lễ,
trang phục, nhạc cụ lễ cưới
1. Quan niệm về lễ cưới truyền thống trong tâm thức người


Khmer Nam Bộ. Giai đoạn chuẩn bị lễ cưới
1.1. Vai trò của lễ cưới
1.2. Dấu hiệu trưởng thành
1.3. Tuổi kết hôn
1.4. Tiêu chuẩn người vợ, người chồng
1.5. Quy tắc, hình thức hơn nhân truyền thống
1.6. Giai đoạn chuẩn bị lễ cưới. Nghi thức Vào lễ
2. Giai đoạn tiến hành lễ cưới
2.1. Làm lễ
2.2. Chung giường
3. Sau lễ cưới
3.1. Cư trú sau khi cưới
3.2. Vấn đề ly hôn
4. Một số kiêng kỵ ngày cưới
Chương IV: Lễ cưới của người Khmer Nam Bộ xưa và nay.
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1
1
2
2
2
3
4
5
6
6
6
7

7
7
7
8
9
10
10
10
11
11
12
12
12
15
12
22
22
22
23
23
23
26
28


TỔNG QUAN
1. Lý do chọn đề tài
Người Khmer là một trong năm mươi tư dân tộc anh em nước Việt, trải qua
bao đời từ quá trình di cư di dân, khai phá vùng đất lạ đến khi chọn vùng đất Nam
Bộ là nơi chơn nhau cắt rốn, hình thành địa điểm cư trú ổn định, phát triển. Trong

quá trình khai phá cùng đất mới cùng các dân tộc anh em khác như Kinh, Hoa,
Chăm… không tránh khỏi việc giao lưu tiếp biến văn hóa với nhau nhưng người
Khmer vẫn giữ được những đặc trưng văn hóa truyền thống của dân tộc mình, các
nét độc đáo đặc trưng của người Khmer đều mang tính nổi bật, từ ẩm thực, đi lại,
trang phục… góp phần tạo nên sự phong phú cho kho tàng văn hóa dân gian Việt
Nam
Lễ cưới là một trong những nghi lễ quan trọng của đời người, là một trong
những nét đáng chú ý trong văn hóa dân gian Việt khơng chỉ ở các dân tộc khác mà
cịn là của người Khmer. Người Khmer sống chan hịa, u thích sự đơn giản khơng
cầu kỳ, nhưng trong lễ cưới thì những nghi thức truyền thống lại được thực hiện
phức tạp, qua nhiều nghi thức khác nhau, điều này khẳng định sự quan trọng của lễ
cưới với tộc người Khmer. Lễ cưới ngồi các nghi lễ cịn có những vấn đề liên quan
khác như trang phục cưới, ca múa nhạc cũng được chuẩn bị và thực hiện chu đáo,
tạo nên sự trang trọng của buổi lễ nhưng không kém phần không khí vui tươi đặc
trưng của ngày hỷ sự. Khai khác đề tài Lễ cưới người Khmer Nam Bộ không chỉ tìm
hiểu về các nghi thức và các vấn đề liên quan đến ngày cưới, qua đó cho thấy suy
nghĩ, nhận thức tộc người Khmer với các vấn đề tín ngưỡng, văn hóa dân gian, từ
đó hiểu thêm về cộng đồng người Khmer Nam Bộ
Trong q trình hội nhập tồn cầu ngày nay, người Khmer khơng chỉ cịn dừng
lại ở việc giao lưu tiếp biến với các dân tộc khác mà cịn có những ảnh hưởng của
xu thế hội nhập, một số nghi lễ trong ngày cưới được giản lược bớt, trang phục cưới
được cách tân cho phù hợp thời đại, nhạc cụ ngày cưới cũng được giảm bớt, điều
này ảnh hướng không nhỏ đến lễ cưới truyền thống của người Khmer Nam Bộ, tuy
nhiên họ vẫn giữ cho mình những nét nổi bật, đặc trưng mà chỉ người Khmer được
có. Đứng trước việc giao lưu tiếp biến này, người Khmer phải giữ vững bản sắc dân
tộc chính mình, hịa nhập chứ khơng hịa tan, đề tài sẽ khai thác sâu những nét nổi
bật trong ngày cưới được tộc người Khmer gìn giữ.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Đề tài “Lễ cưới của người Khmer Nam Bộ” được nghiên cứu với mục đích
sau đây:

Nghiên cứu tồn diện các nghi lễ trong lễ cưới của người Khmer Nam Bộ
nhằm nêu bật lên nét độc đáo đặc trưng của tục cưới hỏi người Khmer từ quá trình
hai bên trai gái gặp nhau đến khi lấy nhau, kết tình phu thê và những vấn đề sau lễ
cưới. Đồng thời nghiên cứu “Lễ cưới của người Khmer Nam Bộ” với sự tồn tại, phát
triển, biến đổi trong xã hội ngày nay.
1


Tổng hợp các nghi lễ dân gian trong ngày cưới, cách tức, nguồn gốc hình
thành các nghi lễ kèm những trang phục, âm nhạc được dùng trong ngày cưới. Từ
đó nhận thấy ý nghĩa của lễ cưới người Khmer đã và đang đóng góp cho sự phong
phú về văn hóa người Việt Nam.
Hiểu sâu hơn về tộc người Khmer trong qua các nghi thức lễ cưới, cách ứng
xử, quan niệm của họ để từ đó có cái nhìn sâu sắc trên đà phát triển của cộng đồng
năm mươi bốn dân tộc Việt Nam.
3. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu toàn diện về tộc người Khmer Nam Bộ, về tục cưới hỏi, những
khía cạnh liên quan đến đề tài “Lễ cưới người Khmer Nam Bộ”.
Những vấn đề liên quan đến việc cưới của dân tộc Kinh tại vùng đồng bằng
sông Cửu Long nhằm so sánh, đối chiếu so với người Khmer trên cùng mãnh đất.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp sử dụng chủ yếu là phân tích tổng hợp, so sánh đối chiếu, phỏng
vấn, phương pháp nghiên cứu liên ngành (Xã hội học, Địa lý học)
Phương pháp phân tích tổng hợp: tổng hợp nguồn tư liệu từ sách, báo, các
kênh phát video… để có thể một phần trải nghiệm ảo lễ cưới người Khmer Nam Bộ
diễn ra đã được quay lại, tổng hợp lại các nguồn tư liệu và trình bày, phân tích.
Phương pháp phỏng vấn: phỏng vấn trực tiếp người dân Khmer tại một tỉnh
thuộc Nam Bộ (Sóc Trăng), hiểu sâu hơn ý nghĩa ngày cưới nói chung và những
nghi thức nói riêng.
Phương pháp so sánh, đối chiếu: nhằm khai thách những điểm khác nhau giữa

Lễ cưới người Khmer xưa và nay, đặt lễ cưới người Khmer vào các dân tộc khác
(Kinh) để thấy rõ nét độc trưng, đa dạng của từng tộc người.
Phương pháp nghiên cứu liên ngành: vận dụng thành tựu nghiên cứu của các
ngành Xã hội học, Địa lý học… để nắm rõ hơn về con người, vị trí địa lý… của
người Khmer.
5. Dự kiến những kết quả sau khi nghiên cứu
Dự kiến kết quả thu nhận được sau quá trình nghiên cứu:
Hiểu rõ về người Khmer Nam Bộ: lịch sử quá trình hình thành, nhận thức
của người Khmer trong mối quan hệ ứng xử môi trường tự nhiên, môi trường xã
hội. Thấy được sự gắn kết của tộc người Khmer với các nhóm tộc người khác, đặc
biệt là người Kinh.
Các lễ nghi ngày lễ cưới, nguồn gốc hình thành những nghi lễ đó và thực
trạng các nghi lễ truyền thống này trong thời đại ngày nay.
Hiểu rõ tính cách của tộc người Khmer, từ đó có cái nhìn rõ nét về tộc người
Khmer Nam Bộ.
2


CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lý luận
1.1. Khái niệm về văn hóa dân gian
“Văn hóa dân gian là những sản phẩm phục vụ đời sống vật chất và tinh
thần, những quy ước xã hội do người dân sáng tạo, giữ gìn qua nhiều thế hệ”.
(Trần Long, 2020:2)
1.2. Khái niệm hôn nhân và hôn nhân truyền thống của người Khmer Nam Bộ
Hôn nhân là một hình thức truyền thống bắt buộc thời xưa đối với cặp nam
nữ được cộng đồng công nhận là vợ là chồng. Tác giả Viên Tài viết, hôn nhân là
“một định chế để kết hợp người nam người nữ tiến tới thành lập một gia đình”,
“cuộc hơn nhân là bắt đầu gầy dựng gia đình rất quan trọng liên quan mật thiết đến

sự gầy dựng giống nòi, bảo tồn nhân loại, có nhiều gia đình mới thành một xã hội,
có đạo vợ chồng mới có cha con vua tơi bạn bè” . (Viên Tài, 1972:8)
Hôn nhân là kết quả của một tình u đơi lứa nồng thắm, của sự mơi mối,
hoặc kết tình sui gia của bậc người lớn với con cái mình. Lễ cưới là hình thức ghi
nhận thực tiễn chính thức của cuộc hơn nhân.
Hơn nhân truyền thống của người Khmer khơng chỉ mang tính cá nhân chủ
thể liên quan đến hơn lễ mà cịn mang tính cộng đồng, cả phum sóc.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Người Khmer Nam Bộ
Người Khmer Nam Bộ đã có mặt lâu đời, tạo nên nét văn hóa cho cộng đồng
dân tộc Việt Nam. Tuy có sự khác biệt về phong tục, tập quán, kinh tế, xã hội, tôn
giáo và những luật lệ riêng biệt nhưng qua quá trình giao lưu, tiếp biến, dưới sự tác
động của quy luật của thời đại – sự giao lưu, người Khmer Nam Bộ trên tinh thần
giữ vững những nét văn hóa tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa thế giới, làm
phong phú hơn về mặt văn hóa, góp phần cộng đồng các dân tộc Việt Nam chung
sống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển.
2.2. Lễ cưới của người Khmer Nam Bộ
Lễ cưới truyền thống của người Khmer Nam Bộ diễn ra với nhiều lễ nghi
phức tạp, gắn với đó là những hệ giá trị cộng đồng quý giá, mang ý nghĩa đẹp. Tộc
người Khmer Nam Bộ với quan niệm “đời người chỉ có một lần”, họ quan tâm đặc
biệt đến ngày cưới, nếu cuộc sống đời thường giản dị bao nhiêu, thì ngày cưới (các
nghi lễ khác) họ sẽ chu toàn, chú trọng nhiều bấy nhiêu. Lễ cưới truyền thống gắn
liền với sinh hoạt văn hóa cộng đồng, gia phong lễ nghi và tập quán cộng đồng.
Theo thời gian, những lễ nghi cùng các vấn đề liên quan đến ngày cưới của
người Khmer Nam Bộ dần giản lược hóa để phù hợp với thời đại, tuy nhiên người
3


Khmer vẫn giữ lại những lễ nghi quan trọng theo quan niệm của tộc người như: Lễ
đưa rễ, lễ cột chỉ tay, lễ cắt hoa cau…, qua đây cho thấy ngày cưới luôn là vấn đề

được quan tâm sâu sắc khơng chỉ những người trong cuộc liên quan mà cịn cả
cộng đồng phum sóc sinh sống.

*
*

*

CHƯƠNG II
TỔNG QUAN VỀ NGƯỜI KHMER NAM BỘ
Nam Bộ là một vùng đồng bằng thấp với sự ưu đãi của thiên nhiên, hệ sinh
thái tự nhiên nơi đây trù phú, đa dạng, từ xưa đã thu hút nhiều luồng dân di cư
chuyển sang nhằm chinh phục thiên nhiên, mở mang bờ cõi và trong đó có người
Khmer.
Tộc danh “Khmer”, bắt nguồn từ tiếng Pali – Sanskrit hay cịn gọi
là Khemara có nghĩa là bình an, hạnh phúc. Ngồi ra cịn có những tên gọi khác
trong quá trình hình thành và phát triển của tộc người này tại mãnh đất Nam Bộ, có
thể kể đến như: người Kinh gốc Miên, người Miên, người thổ, người Khmer Krôm,
người Cao Man, người Kam Pa, người Cam Bốt.
Dân tộc Khmer sống lâu năm tại vùng đất Chín Rồng từ lâu đời với nghiệp
làm nông truyền thống, phù hợp với điều kiện tự nhiên nơi đồng bằng; vào
thế kỷ XII, người Khmer đã di cư từ Campuchia đến Sóc Trăng, Trà Cú (thuộc Trà
Vinh ngày nay); họ xuất hiện, hình thành và phát triển cùng với một số dân tộc khác
như: Kinh, Hoa, Chăm… và có mối quan hệ bền chặc với các tộc người này.
1. Đặc điểm cư trú, sản xuất, tổ chức xã hội của người Khmer

4


Về cư trú và sản xuất, người

Khmer sống tập trung với nhau thành
phum, thành sóc, phum là đơn vị nhỏ
của sóc; trong sóc có nhiều phum mà
hợp thành, quy mơ các phum sóc cịn
tùy vào số lượng dân cư trú tại đó.

Chùa Wat Pătum Wơngsa Som Rong,
Sóc Trăng
Nguồn: Tác giả

Cuộc sống của họ gắn liền với
các chùa chiền, với quan niệm cầu
bình an, hạnh phúc như chính tộc danh
Khmer của họ, người Khmer sống
thảnh thơi, không bon chen, nhà cửa
của họ thường không phô trương gia
thế, phần lớn họ quan tâm vào việc tu
bổ, sửa chữa chùa chiền, đối với quan
niệm của người Khmer, chùa chiền
phải được chu toàn, là bộ mặt của của
tộc người nên hầu hết các chùa của
người Khmer đều rất độc đáo, riêng
biệt và thu hút.

Người Khmer sống chủ yếu tập trung tại hai vùng chính: vùng ven biển và
vùng gần biên giới Campuchia.
Tại các tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liệu, Cà Mau ven biển, họ cộng sinh cùng các
tộc người khác như Hoa, Chăm và đặc biệt là Kinh. Các tộc người này sinh sống
cùng nhau, giúp đỡ nhau trong q trình ứng phó với mơi trường tự nhiên và ứng
phó với mơi trường xã hội, họ gắn bó mật thiết với nhau từ bao đời nay. Tại các tỉnh

An Giang, Kiên Giang, Thất Sơn Bảy Núi và tứ giác Long Xuyên gần biên giới
Campuchia, vì đây là vùng thường xuyên ngập lụt, người Khmer thường sống trên
các sườn đồi, quanh kênh rạch; họ giữ nghiệp làm nơng, họ cịn sản xuất dưới hình
thức tự cung tự cấp các mặt hàng thủ cơng, vải vóc, khai thác biển và mở tiệm buôn
bán.
Về tổ chức xã hội, gia đình người Khmer sống chung thủy một vợ một chồng,
cả hai đều có quyền hành như nhau, ngày thường thì “đàn ơng xây nhà, đàn bà xây
tổ ấm” nhưng khi có việc quan trọng, cả hai vợ chồng sẽ ngồi bàn bạc cùng nhau,
quyền hành mỗi người đều như nhau. Ngơi nhà người Khmer có thể tồn tại độc lập
chỉ có vợ và chồng hoặc cũng có thể tồn tại từ hai đến ba thế hệ ông, cha, cháu tại
đó và theo chế độ mẫu hệ, tuy ngày nay đã chuyển sang phụ hệ nhưng tính mẫu hệ
vẫn cịn dư âm ảnh hưởng. Với con cái, người Khmer không quan trọng là con trai
5


hay con gái, là con đầu lòng hay con thứ, là con ruột hay con nuôi đều được đối xử
như nhau. Qua đây thấy được tinh thần, tư tưởng đáng trân trọng của tộc người
Khmer, lối sống không hơn thua đã được thể hiện trong các mối quan hệ trong gia
đình này.
2. Văn hóa vật chất
Văn hóa vật chất của người Khmer thể hiện trong ăn, mặc, ở qua đó cho thấy
thêm nhiều bản sắc, nét độc đáo, riêng biệt của tộc người này.
2.1. Ẩm thực
Vì cuộc sống chủ yếu là làm nông, người Khmer Nam Bộ sử dụng nông sản
của mình để phục vụ đời sống, họ chủ yếu dùng gạo nếp nấu xôi, dùng gạo tẻ nấu
cháo, xay bột làm bánh, nổi bật có những món như bánh ống, cốm dẹp, mắn bị hóc
(prohóc), bún nước lèo…

Bánh ống lá dứa
Nguồn: Tác giả


Bún nước lèo
Nguồn: Tác giả

2.2. Trang phục
Trang phục người Khmer mang vẻ đẹp riêng khác lạ với màu sắc, hoa văn sặc
sỡ mang nhiều nét văn hóa độc đáo, vừa phù hợp thẩm mỹ, vừa linh hoạt phù hợp
cuộc sống lao động ngày thường, được chính bàn tay của người dân dệt từng tấm
vải, khâu từng sợi chỉ mà thành. Có thể kể đến những trang phục truyền thống được
người Khmer mặc vào các ngày lễ như: váy Xampot, khăn rằn Kama…

6


Những trang phục truyền thống của người Khmer
Nguồn: />2.3. Nhà ở
Nhà ở người Khmer thường có thể có một gian với vách ngăn bằng vách lá,
ngày nay khi đời sống được cải thiện hơn, nhà người Khmer có thể có hai đến ba
gian. Với quan niệm “Sống gửi thác về”, lối sống cầu bình an, hạnh phúc, giản dị,
với niềm tin vào giá trị con người là xuất phát từ làm việc thiện nên nhà ở người
Khmer không kiểu cách, khơng phơ trương nhưng ngược lại, vì đức tin nên trong
các nghi lễ làm nhà của họ lại cầu kỳ, phức tạp.
3. Văn hóa tinh thần
3.1. Ngơn ngữ và chữ viết
Tiếng Khmer thuộc nhóm Mơn – Khmer hệ Nam Á theo mẫu tự Brahim từ
thế kỉ III và tương đối hoàn chỉnh ở thế kỉ VII, ngày nay theo mẫu tự Phạn. Ban đầu
họ khắt chữ vào bia đá, về sau họ dùng lá thốt nốt viết vào, đem hấp chính và cất
giữ, bảo quản tránh được mối mọi và sau này là viết vào giấy.
3.2 Văn học dân gian
Kho tàng văn họa dân gian người Khmer rất phong phú và đa dạng, có thể kể

đến nhiều thể loại, đề tài, câu chuyện, ca dao tục ngữ mang tính luật tục, giáo huấn
hay những lời ho ru mềm dịu như: Chuyện Nàng Mê Kalag (giải thích về hiện tượng
sấm trong tự nhiên); các câu ru hò “Con ơi…”, “Út ơi…” êm đềm, ngọt ngào; trong
văn học viết họ viết tay trên lá bương (sa tra) gồm satra truyện, satra giải trí, satra
giáo huấn, luật tục và các kinh kệ.
3.3 Tín ngưỡng
7


3.3.1. Arak, Neakta
Với quan niệm và đức tin của người Khmer, hai vị Arak và Neakta có vai trị
như thần hộ mệnh của họ. Arak sẽ giúp họ bảo hộ các cánh đồng, nhà cửa, đất đai
còn Neakta sẽ giúp họ cầu bình an, vị thần này giống với Thần Tài hoặc nếu là
Neakta phum sóc cũng gần tương đương với Thành Hoàng của người Kinh , qua đây
cho thấy mối quan hệ thân thiết, cùng chung hệ tư tưởng thẩm mỹ của hai dân tộc
anh em cùng nhau hình thành, cùng nhau lớn lên tại mảnh đất Nam Bộ.
3.3.2. Phật giáo Tiểu Thừa của người Khmer
Phần lớn người Khmer đều theo phật giáo Tiểu Thừa. Cuộc sống của họ gắn
liền với chùa chiền, chùa là nơi lưu giữ kinh sách, dạy chữ viết, dạy kinh nghiệm sản
xuất, đời sống; nơi diễn ra các hoạt động văn hóa thể thao; nơi các sư sãi ưu tú sinh
sống và làm việc; nơi tu dưỡng đạo đức cho các thanh niên. Phật giáo Tiểu Thừa của
người Khmer đã và đang đóng vai trò quan trọng trong giáo hội Phật giáo Việt Nam
ngày nay nhờ vào hệ thống giáo quyền, giáo luật.
3.4. Lễ hội
3.4.1. Mừng năm mới
Thường diễn ra vào tháng chín theo lịch người Khmer, nhằm tháng 4 dương
lịch và thường diễn ra trong ba ngày. Ngày đầu tiên, người Khmer làm lễ rước Maha
Sangkran mới; ngày thứ hai: họ dâng cơm cho sư sãi; ngày thứ ba: ngày tắm Phật,
báo hiếu. Mừng năm mới là dịp để người Khmer cầu an, cầu thiên thời địa lợi nhân
hòa, mùa màng bộ thu, cũng là dịp để họ vui chơi, đua nghe ngo, hát Dù Kê…

3.4.2. Lễ Đôn-ta – cúng ông bà
Diễn ra vào ngày 28/08 đến ngày 01/09 (dương lịch) tại các phum sóc; trong
ngày lễ Đơn-ta, các sư sãi và tồn tộc người Khmer cùng nhau sinh hoạt, đây là ngày
không chỉ dừng lại ở việc thờ cúng, nhớ ơn ông bà tổ tiên mà cịn là dịp để cơ kết
cộng đồng tộc người Khmer lại với nhau.
3.4.3. Lễ cúng trăng (Ok Om Bok)
Diễn ra vào tháng 10 (âm lịch) tại các khum sóc, đây là dịp để người Khmer
thể hiện sự biết ơn của mình với các vị thần đã ban cho mùa màng bội thu. Trong
ngày lễ này có việc đúc cốm dẹp vào miệng trẻ em nhằm gửi gấm những hy vọng
cho con em khỏe mạnh; ngoài ra họ cịn có tổ chức lễ hội đua nghe ngo, thả đèn
nước, đèn gió…

8


Cuộc tranh giải huy chương Vàng giữa đội ghe ngo của huyện Càng Long và
huyện Cầu Kè
Nguồn: />3.5. Nghệ thuật biểu diễn và nghệ thuật tạo hình
3.5.1. Nghệ thuật biểu diễn
Nghệ thuật biểu diễn bao gồm âm nhạc, múa và sân khấu.
Với âm nhạc dân gian, đây là những sáng tác của người dân lao động đã chọn
lọc và phát triển phục vụ tinh thần trong sinh hoạt đời sống. Sân khấu Dù Kê, Rơ
Băm; những điệu hị ru ngọt dịu; hát đối đáp tỏ tình Ayai và đặc biệt là trò ném
Shung (tung shung qua lại và giao lưu tỏ tình nhau giữa các chàng và nàng người
Khmer).
Người Khmer ghi dấu ấn riêng biệt trong các điệu múa với những động tác
nhẹ nhàng, uyển chuyển. Những điệu múa tập thể kết thêm tình thân ái, những điệu
múa trống Chayyăm kết hợp cùng nhạc cụ ngũ âm hoặc nhạc dây.
3.5.2. Nghệ thuật tạo hình
Các cơng trình kiến trúc chùa của người Khmer để lại ấn tượng sâu đậm trong

mắt xem và thưởng thức không chỉ bởi ý nghĩa ngôi chùa mà cịn là kiến trúc bao
quanh, ngồi ra sự trang trí sân khấu Dù Kê và Rơ Băm cũng được đánh giá cao về
mặt thẩm mỹ.

9


Chùa Wat Pătum Wơngsa Som Rong, Sóc Trăng
Nguồn: Tác giả
*
*

*

CHƯƠNG III
LỄ CƯỚI TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI KHMER NAM BỘ - NGHI LỄ,
TRANG PHỤC, NHẠC CỤ LỄ CƯỚI
1. Quan niệm về lễ cưới truyền thống trong tâm thức người Khmer Nam Bộ.
Giai đoạn chuẩn bị lễ cưới
1.1. Vai trò của lễ cưới
Theo quan niệm của người Khmer, nếu trai, gái khi đến tuổi dựng vợ gã chồng
mà vẫn chưa lập gia đình thì sẽ bị xã hội xem thường. Tục ngữ Khmer có câu: “Bổ
củi xem thớ/ Lấy vợ xem tơng”, gia đình với người Khmer có vai trị quan trọng
khơng chỉ đối với cá nhân người vợ, người chồng mà cịn có ảnh hưởng đến cả dịng
tộc, vì mang tính kế thừa nên cha mẹ sẽ chọn đối tượng cho con cái của mình, chủ
yếu là những cuộc hơn nhân nhằm bảo tồn gia sản trong dịng tộc khơng bị thốt ra
bên ngồi.
Tuy vậy khơng hẳn lúc nào cũng là “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”, bậc làm
cha mẹ cũng rất quan tâm đến ý muốn của con cái mình, trong xã hội vẫn phổ biến
10



trường hợp con cái được tự do yêu đương, tìm đối tượng để đi đến kết hơn, điển hình
là những cuộc hơn nhân ngồi dịng tộc và cả những hơn nhân khác tộc người.
1.2. Dấu hiệu trưởng thành
Tuổi trưởng thành đối với người nam và người nữ có sự khác nhau được trình
bày trong bảng dưới đây:
Tuổi
trưởng
thành
Ý nghĩa

Nam
Nữ
Sau khi kết thúc khóa tu học ở chùa Sau khi qua lễ “vào bóng mát”

Hồn thành khóa tu tại chùa là việc Khơng cịn phổ biến, chỉ tồn
bắt buộc, sau khi kết thúc khóa tu, tại dưới hình thức những điều
người con trai, con gái Khmer được chú ý (không đi xa, nếu đi
cơng nhận là trưởng thành vì đó là phải có người bảo vệ…) hoặc
người có đức, có tài, biết hành xử lời răn dạy của cha mẹ về bổn
đúng mực với vợ/ chồng, trở thành phận người con làm dâu.
người con dâu/ chàng rễ có hiếu.
Trong khi tu học tại chùa, người con trai sẽ được giáo dục bằng “Luật dạy con
trai” với nội dung giáo dục kiến thức sách vở và cách làm người. Kết thúc khóa tu,
chàng trai Khmer có thể quay về báo hiểu cha mẹ, lấy vợ hoặc tu lên bậc Tỳ Khơn
để trở thành Achar, Maha, được tôn trọng cao khi gọi thêm từ “luk”.
Lễ “vào bóng mát” được thực hiện khi người con gái có dấu hiệu kinh nguyệt,
người mẹ sẽ cách ly con gái mình trong vịng từ ba đến sáu tháng, trong giai đoạn
cách ly này, người con gái “Cô không ăn được các loại cá trống, gà trống, heo đực…

nói chung cử tuyệt đối ăn thịt giống đực.” (Nguyễn Anh Động, 2014:35), không
được tiếp xúc với người đàn ông nào kể cả anh em trai, cha ruột… Gia đình sẽ chồng
một cây chuối, khi chuối ra trái cũng là kết thúc lễ “vào bóng mát” vì ảnh hưởng của
tín ngưỡng phồn thực, chuối là cây ngắn ngày, có 12 nải đại diện cho 12 tháng trong
năm, mỗi nải có 30 quả tương trưng các ngày trong một tháng. Trong khi “cách lý”
này, người con gái được dạy về “nữ công gia tránh”, “Luật người con gái” dạy người
con gái biết nhường nhịn, yêu thương và biết hy sinh cho chồng và tình yêu cả hai;
cách hành xử với chồng và cha mẹ chồng nhằm giữ vững hơn nhân hịa thuận.
Lễ “ra bóng mát”: khi kết thúc lễ “vào bóng mát”, được gọi là neang, mê và
công nhận thiếu nữ trưởng thành.
1.3. Tuổi kết hôn
Theo truyền thống, đối với người con trai, về lý thuyết khi đến tuổi 16 có thể
kết hơn với điều kiện hồn thành việc tu học, trên thực tế để kết thúc tu học này sẽ
khoảng trên 20 tuổi còn người con gái nếu để quá 21 tuổi sẽ bị xem là “gái lỡ thì”,
“gái ế”, khó lấy được chồng.
11


Trước khi tiến hành hôn lễ, người Khmer sẽ tiến hành xem tuổi, hôn nhân chỉ
được chấp nhận nếu hợp tuổi nhau. Cụ thể, người Khmer chia 12 con giáp thành 3
nhóm giống: giống người, giống tiên và giống chằn, mỗi giống chia thêm 6 chất bao
gồm: nước, đất, gỗ, vàng, lửa, sắt. Đầu tiên, nếu cả đôi trai gái đều có tuổi cùng một
giống hoặc nếu khác giống thì buộc phải là giống người với giống tiên mới có thể
hợp tuổi, kết hơn với nhau mới có thể mang lại hạnh phúc. Thứ hai, nếu muốn cả hai
sống với nhau chung thủy, làm ăn phát triển thì ngồi hợp giống cịn phải hợp về
chất (hai chất khơng kỵ nhau).
1.4. Tiêu chuẩn người vợ, người chồng
Người Khmer chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo Tiểu thừa với quan niệm
sống là để đức cho đời sau, vì thế cái đức được tộc người Khmer đề cao. Tuy nhiên
cịn phải có tài thông qua việc thạo việc làm nông, xếp cuối cùng của tiêu chuẩn

chọn vợ, chồng là nhan sắc.
Với người con trai, phải có sức khỏe tốt, giỏi việc đồng áng, trụ cột gia đình;
người con gái ngồi tính nết đoan trang, thùy mị, giỏi việc nhà còn phải giữ cho
mình sự trong trắng với quan niệm “đời người chỉ có một lần”, một lần để sống, một
lần để mặc áo cưới truyền thống. Ngược lại, nếu khơng cịn trong trắng, người con
gái không thể được tổ chức hôn lễ, thực hiện nghi thức truyền thống.
1.5. Quy tắc, hình thức hơn nhân truyền thống
Người Khmer tơn trọng hình thức hơn nhân một vợ một chồng, không phân
biệt kết hôn cùng dân tộc hay khác dân tộc, cấm loạn luân.
Đối hôn nhân trong dịng tộc, người Khmer có câu: “Riệp kà kuông pụch/
Kum ôil pêk trop” (Lấy người trong họ/ Của cải khơng rơi ra ngồi), đây là cuộc hơn
nhân với hai mục đích: bảo vệ gia sản dịng tộc, cơ kết cộng động dòng tộc với nhau.
Tại đây, chỉ chấp nhận hơn nhân trong dịng tộc khi đó là anh em họ chéo hoặc anh
em họ song, ngồi ra cịn có anh em chồng và chị em vợ (khơng phổ biến).
Đối với hôn nhân khác dân tộc, người Khmer thường kết hơn với người Kinh,
Hoa, Chăm… vì q trình gặp gỡ, giao lưu tiếp xúc từ lâu. Nếu là vợ người Khmer,
chồng tộc người khác thì phải làm dâu, con theo họ bố; ngược lại chồng là người
Khmer, vợ tộc người khác thì phải làm rể.
1.6. Giai đoạn chuẩn bị lễ cưới. Nghi thức Vào lễ
1.6.1. Giai đoạn chuẩn bị lễ cưới
Các lễ cưới người Khmer Nam Bộ thường tổ chức vào trước năm mới (trước
Tết Chôl Chnăm Thmây), tránh những ngày nhập hạ của các sư sãi (từ ngày 15/6 –
15/9) vì phần đơng dân tộc người Khmer Phật giáo Tiểu thừa.

12


Xưa, người Khmer theo chế độ mẫu hệ người con gái sẽ chủ động đi tìm dạm
hỏi người con trai nói chuyện cưới xin, nhà gái cũng sẽ là bên tổ chức hôn lễ. Tuy
nhiên do thấy sự bất công này, chuyện kể rằng có Bà Om đã yêu cầu hai bên trai, gái

thi thố về tác ao nước, bên nào thua sẽ phải tổ chức lễ cưới, kết quả cuối cùng bên
trai thua do Bà Om đã có sự sắp xếp, dàn dựng. Từ đó về sau, việc cưới hỏi do đàn
trai tổ chức nhưng địa điểm tổ chức vẫn tiến hành bên nhà gái. Câu chuyện xưa về
ao Bà Om (Sras Ku) đã được bộ Văn hóa Thể dục và Thể Thao cơng nhận là di tích
lịch sử Văn hóa, từ đây ta cũng thấy rằng, các nghi thức, tập tục liên quan đến lễ
cưới đều xuất phát từ nhu cầu, hoạt động từ đời sống dân gian.

Ao Bà Om tại phường 8, thành phố Trà Vinh
Nguồn: />1.6.1. Nghi thức Vào lễ
Nghi thức Vào lễ sẽ gồm có: Lễ mai mối, lễ dạm hỏi, lễ ăn hỏi, lễ xin cưới và
ấn định ngày cưới. Để ngỏ ý bàn chuyện cưới xin với người con gái, người con trai
Khmer phải thông qua người làm mai mối (gọi là nét plâu chău maha), thường là
người có họ hàng, quen biết với nhà gái, gia đình hạnh phúc. Người làm mai sau khi
nhận lời ngõ làm mai từ nhà trai, sẽ suy xét kỹ lưỡng xem hai bên có hợp nhau
khơng, sau đó mới nhận lời làm mai, lựa ngày lành tháng tốt đến nhà gái thực hiện
việc mai mối của mình.
1.6.1.1. Lễ mai mối (pi-thi che-mâu)
Lễ mai mối diễn ra ba lần, với mỗi lần nhà trai cùng với người làm mai đến
nhà gái đều phải mang trầu cau, thuốc lá đựng vào khay trang trọng, ngược lại nhà
13


gái dù có muốn hay khơng đều phải tiếp đãi khách. Đến lần thứ ba, người con gái sẽ
đưa ra quyết định của mình với người làm mai và báo với cha mẹ mình. Trường hợp
người con gái cùng gia đình đồng ý, người làm mai mối sẽ về và báo lại cho đàn trai
để họ chuẩn bị những bước tiếp theo tiến hành lễ cưới; ngược lại người làm mai phải
ăn nói khéo léo để đàn trai hiểu ý là khơng được chấp nhận.
Trong suốt q trình lễ mai mối diễn ra, người làm mai phải thật sự khôn khéo
trong lời ăn tiếng nói để bàn chuyện lứa đơi này, họ phải nói “bóng gió” để vào
chuyện, đặt vấn đề, thường khi ngỏ lời với nhà gái, họ nói những chuyện liên quan

đến nghề nông, việc làm đồng như: “Nhà nọ (nhà trai) thấy bên nhà anh chị (nhà gái)
có cơng ruộng tốt, ngõ ý muốn gieo giống…” để ngụ ý nhà trai đang muốn hỏi nhà
gái về việc tác thành hai đơi trai gái.
Nhìn chung, trong lễ mai mối của người Khmer Nam Bộ vừa mang tính tinh
tế qua lời ăn tiếng nói, vừa mang tính giản dị trong văn hóa giao tiếp, ứng xử.
1.6.1.2. Lễ dạm ngõ (si s’la dok)
Khi nghe được tin được nhà gái chấp nhận từ người mai mối truyền đạt lại,
nhà trai sẽ nhờ người làm mai thông báo ngày mà bên đàn trai sẽ qua dạm hỏi để
nhà gái chuẩn bị. Thường ngày dạm hỏi là vào ngày thứ sáu (ngày lành), kiêng kỵ
ngày thứ ba vì cho rằng ngày này là ngày lửa, gặp nhau sẽ xảy ra mâu thuẫn, gây
ảnh hưởng xấu đến lễ cưới về sau.
Trong ngày lễ này, người làm mai bên nhà trai sẽ nhờ hai người có dun,
tình cảm cá nhân hạnh phúc phụ mang lễ vật đến nhà gái với ước mong sẽ mang cái
duyên cho đôi lứa cần dạm ngõ. Nhà gái khi được biết ngày nhà trai đến dạm ngõ sẽ
chu toàn nhà cửa, mời họ hàng thân thiết đến dự cùng. Ông bà mai mối nhà gái sẽ
thay mặt nhà gái nhận lễ vật, điều này khơng đại biểu có ý nhà gái sẽ chấp nhận nhà
trai tiến hành bước tiếp theo. Sau lễ, nhà gái mới phản hồi tới ông mai bà mối bên
mình về quyết định có tiếp tục cho đàn trai tiến hành tiếp các lễ còn lại hay khơng,
trường hợp vẫn cịn phân vân, người mai mối sẽ giải quyết phân vân này cho đôi lứa
cho đến khi có quyết định cuối cùng. Như vậy, mục đích chính của lễ dạm ngõ là
thăm dò ý kiến nhà gái có cho nhà trai thực hiện Lễ ăn hỏi tiếp theo hay không.
1.6.1.3. Lễ ăn hỏi (Si s’la kanh-sênh)
Đây là buổi lễ quan trọng đầu tiên trong cả quá trình của lễ cưới người Khmer
Nam Bộ. Đàn trai bao gồm cha, mẹ và người con trai thêm với ông bà mai mối và
ông Maha với các lễ vật: “Một khay (thon-rơn) đựng trầu cau, bình rượu nhỏ và hai
chén nhỏ, bánh ngọt, trái cây và hai chai rượu, tất cả đều đủ đơi” (Nguyễn Hùng
Khu, 2012:97). Song song đó, nhà gái cũng thực hiện các việc như ở lễ dạm hỏi như
dọn dẹp nhà cửa, mời họ hàng đến nhưng ở lễ ăn hỏi, số lượng sẽ đông hơn.
14



Nghi thức đầu tiên trong lễ ăn hỏi là xem tuổi. Cụ thể, Maha sẽ hỏi đôi trai
gái về tuổi tác của mình, nhiệm vụ hai người cung cấp đầy đủ và chính xác về ngày
sinh của mình, sau đó Maha tiến hành xem tuổi, nếu hợp tuổi mới có thể tiến đến
hơn nhân. Cùng với đó, Maha mời cha mẹ hai bên ăn trầu cau, việc ăn trầu cau có ý
nghĩa người lớn cả hai bên gia đình đã chấp thuận, tác thành cho đơi trai gái, chính
thức kết thành thông gia.
1.6.1.4. Lễ xin cưới (Si s’la banh-cheak peak)
Lễ xin cưới khá cầu kỳ, khuôn khổ nhưng cũng mang tính linh hoạt cao. Ngày
làm lễ xin cưới phải chọn kỹ lưỡng, tránh những ngày hạ tu, tháng có 29 ngày (âm
lịch) vì được xem là khơng tốt, sau đó ghi vào bản ấn định c’ro-đa-cịm-nót). Trong
lễ này, nhà trai và nhà gái đều sẽ mời khách khứa đông hơn những lễ trước đó, chuẩn
bị chu đáo và dâng măm cơm cúng tổ tiên. Lễ vật nhà trai cần mang theo bao gồm
những lễ vật cơ bản như trái cây, bánh kẹo… và kỹ vật riêng cho vợ tương lai như
quần áo, trang sức. Khi dòng họ hai bên đã đến nhà gái đông đủ, cha mẹ hai bên sẽ
cho con mình tiếp đã dịng họ của nhau với mục đích nhằm xem xét cách ứng xử của
dâu, rễ tương lai với phía nhà bên mình như thế nào.
Tiến hành vào lễ chính, “ơng Maha cho mang mâm cơm, rượu, thịt, bánh trái,
khay trầu (thon rôn), nhang đèn ra bày biện trên chiếc chiếu bông (hoa)” (Nguyễn
Hùng Khu, 2012:98). Maha tiến hành khấn vái tổ tiên, sau đó nhà trai bắt đầu tặng
kỷ vật và tiền cho người mẹ cô gái (ý nghĩa đền đáp cơng ơn dưỡng dục). Ơng Maha
đưa ông Meba bản ấn định và đọc lên trước họ hàng ngày tổ chức lễ cưới. Đến đây
có thể xem như hoàn thành một phần hai của cả quá trình lễ cưới, cặp đơi trai gái
được xem như là vợ là chồng của nhau, họ gọi cha mẹ nhau bằng cha mẹ vợ, chồng.
Việc quan trọng thêm vào là hỏi ý nhà gái về hình thức cư trú sau hôn nhân của hai
vợ chồng, ở chung hay xây nhà ở riêng và đi đến thống nhất.
Kết thúc lễ xin cưới, người con trai phải ở lại làm rể một khoảng thời gian,
giai đoạn này chàng rễ phải tỏa thái độ đúng mực, làm việc cho nhà gái và sẽ phải
ngủ riêng với cô dâu. Sau khi qua giai đoạn ở rễ, nếu cô dâu và nhà gái chấp nhận,
ưng thuận thì lễ cưới chính thức sẽ được tiến hành như ngày đã định, ngược lại, nhà

gái sẽ cúng mâm cơm tổ tiên để hủy bỏ ước định thành hôn.
2. Giai đoạn tiến hành lễ cưới
2.1. Ngày đầu - Làm lễ
2.1.1. Ngày nhập gia (Th’ngay Chôl-rôn)
Đây là ngày mà cả cơ dâu, chú rể, gia đình hai bên chuẩn bị chu đáo, tỉ mỉ,
cẩn thận cho ngày trọng đại sắp đến.
Chú rể cùng các chàng bên nhà trai đến nhà gái dựng rạp cưới gọi là son rôn,
dựng bàn trời gọi là tê-vê-đa và chú rể trang trí cho phịng cưới của mình. Về rạp
15


cưới, trước cổng cưới có dịng chữ Pi-thi-a-pi-pia (Lễ cưới), cửa nhà chính phía sau
rạp cưới có chữ A-via moung cul (Lễ hạnh phúc). Về bàn thờ, gồm có các lễ vật như
nhang đèn, các loại bánh, đặc biệt là có bánh gừng (biểu tượng cho sự hạnh phúc),
tất cả đều được chọn theo cặp đôi.

Rạp cưới trong lễ cưới người Khmer Nam Bộ
Nguồn: />Nhà trai lúc này cũng chuẩn bị chu tất các lễ vật như: “khây trầu, thanh đao
nhỏ, hai vật làm bằng cây chuối cắt theo hình Linga và Yomi, một ngọn đèn dầu,
một đôi chiếu bông, một cặp gối mới, hai miếng vải khác màu, cặp lục lạc, bánh Tai
Yến” (Nguyễn Hùng Khu, 2012:101), hoa cau và các loại bánh, trái khác. Hai miếng
vải khác nhau tượng trưng cô dâu chú rể thuộc hai họ hàng khác nhau nay đã thành
đơi, gắn bó với nhau bằng cái kim cuộn chỉ suốt đời; thanh đao nhỏ với ý nghĩa cắt
đi những đoạn tình cảm cịn vương vấn trước kia với “tình cũ” để tập trung cho người
vợ/chồng tương lai; tín ngưỡng phồn thực với Linga và Yoni; bánh Tai Yến mềm
ngọt với ý nghĩa vợ chồng có thể sống với nhau chan hòa, ngọt ngào; mỗi thứ được
dân lên bàn thờ đều phải có đơi có cặp. Hoa cau là lễ vật không thể thiế, thể hiện sự
trong trắng vô giá của người con gái và mang tính tâm linh (phải là hoa cau ngun
vẹn, khơng đỗ gẫy) nếu khơng sẽ bị cho là điềm xấu, vì thế hoa cau phải được chọn
lựa hết sức kỹ càng.

Về phần nhà gái, họ sẽ cúng hai mâm cơm để xin phép tổ tiên cho con gái đi
lấy chồng, ngoài ra người Khmer còn làm thêm một nắm cơm được gối bằng lá
chuối, có dán giấy đỏ, trên cắm hoa vạn thọ kèm với ba quả chuối chín và sợi chỉ
hồng.
16


2.1.2. Ngày thứ hai - Ngày cưới (Th’ngay si com-not)
Ngày cưới là ngày quan trọng nên được người Khmer xem trọng, thể hiện qua
nhiều nghi lễ như: Lễ đưa chú rể, lễ mở cổng, lễ trình báo, các lễ: lễ cắt tóc, lễ nhuộm
răng cơ dâu, lễ trình diện Neak Tà ngày nay ít phổ biến hơn so với các lễ khác, lễ
chuẩn bị, lễ tụng kinh cầu phước, lễ mở hoa cau, lễ mời trầu.
2.1.2.1. Lễ đưa chú rể
Đây là ngày lễ đưa chú rể sang nhà dâu tổ chức lễ cưới. Lễ vật nhà trai cần
chuẩn bị gồm có: hai mâm cơm, một đĩa bay prơ-lưng cúng tổ tiên nhằm ghi nhớ
cơng ơn sinh thành. Sau đó, ơng Maha dùng chỉ quét lên tay chú rể và phù rể (thường
là chị hoặc chị dâu chú rể, gia đình hạnh phúc, con cái ngoan ngoãn), quét bảy lần
cho mặt tay úp để tránh điều xi rủi, qt chín lần cho mặt tay ngửa để mang đến
nhiều điều may mắn, hạnh phúc cho đôi trai gái trẻ.
Đến giờ khởi hành sang nhà gái, Maha sẽ gõ cồng báo hiệu giờ bắt đầu, ông
Pàlẹ đọc nhẩm chú chỉ cho chú rể câu chú đó, chú rể có nhiệm vụ đọc câu chú trong
suốt qng đường đi đến nhà cơ dâu, có như vậy mới có thể mang đến hạnh phúc
cho hơn nhân theo quan niệm người Khmer. Theo nghi thức, ông Pàlẹ, chú rể cùng
phù rể đi trước, những người còn lại theo sau. Phù rễ mang theo các lễ vật đã chuẩn
bị từ trước trong “ngày nhập gia”, vừa đi vừa hát, múa với tiếng nhạc cụ lễ cưới như:
đàn cị, kìm, khơm, trống, sáo tạo nên khơng khi hoang vui, náo nức của mùa cưới.

Điệu múa Saravan trong lễ cưới người Khmer
Nguồn: />2.1.2.2. Lễ mở cổng
Khi đoàn đưa rễ đến trước nhà cô dâu, họ bắt đầu bày cúng trước cổng nhà.

Ông Maha thực hiện nghi thức cúng bái, múa ba lần điệu múa mở rào uyển chuyển
(bơk lơ bom). Sau đó cơ dâu cùng hai phù dâu của mình (thường là chị em gái) ra
đón đàn trai vào nhà, đến đây chú rể chủ độn trao hoa cau dâng lên trình trước mặt
họ hàng hai bên, người em cơ dâu sẽ mời trà cho chú rể tỏa lịng thương mến.
17


Điệu Múa mở rào trong lễ cưới người Khmer
Nguồn: />2.1.2.3. Lễ trình báo
Ơng Pàlẹ sẽ bẻ một cây nhang thành mười chín khúc, con số mười chính đại
diện cho lễ vật nhà trai mang đến và con số này cũng là con số may mắn, đủ đầy
theo quan niệm người Khmer Nam Bộ. Chính yếu trong nghi lễ này là để nhà trai
xin phép nhà gái vào nhà dâng lễ.
2.1.2.4. Lễ cắt tóc. Lễ nhuộm răng cơ dâu. Lễ trình diện Neak Tà
Cả ba lễ này ngày nay đã không cịn phổ biến vì theo ý thức người Khmer
Nam Bộ cho rằng đây là những nghi lễ không rõ nguồn gốc từ đâu và cũng vì đã
khơng cịn phù hợp với thời đại.
Lễ cắt tóc diễn ra bằng cách cắt tóc của cơ dâu và chú rể một cách tượng trưng,
sau đó bỏ vào lá chuối xanh rồi vứt đi với ý nghĩa cắt đứt đoạn tình cảm thừa trước
đây của cả hai với người yêu cũ và cũng có ý nghĩa vứt đi những điều không may.
Trong lúc này người thực hiện nghi lễ sẽ vừa cắt tóc, vừa múa hát bài Saricakeo và
Phat-cheay.
Với lễ nhuộm răng cô dâu, đây là lễ thực hiện với ý nghĩa làm đẹp cho cơ dâu,
nghi thức khơng cầu kì như những nghi thức khác. Lễ trình diện Neak Tà ảnh hưởng
từ tín ngưỡng tôn giáo người Khmer, lễ vật cần dân lên Neak Tà gồm có rượu, gà
luộc, nhang đèn được Maha trình cúng với ý niệm mong rằng Neak Tà sẽ phù hộ,
bảo vệ cặp đôi trẻ.

18



2.1.2.5. Lễ chuẩn bị (Breang Plechơ)
Nghi lễ chuẩn bị để đàn trai chuẩn bị đầy đủ lễ vật cho những nghi lễ tiếp
theo, thường diễn ra lúc mười sáu giờ chiều cùng ngày lễ đưa rễ. Những chuẩn bị
cho các vật lễ như việc cắt bông cau (phải chọn và cắt cho khéo, nâng niu vì hoa cau
là biểu tượng thiêng liêng của người con gái), cột chỉ tay và mở mâm trầu; tại việc
mở mâm trầu, đàn trai sẽ nhờ hai người phụ nữ có gia đình hạnh phúc, con cháu sum
vầy bỏ bánh Tai Yến vào nắp trầu để chuẩn bị cho ngày hôm sau, trong mâm trầu
gồm có mười chín cơm vắt, mười chính miếng trầu cau, mười chín khúc mía, mười
chín quả chuối chín, mười chính hoa vạn thọ và một cặp đèn cầy, từ đây cho thấy
con số mười chín với ý nghĩa đủ đầy, cặp đơi trong quan niệm của người Khmer.
Ngồi ra cịn có cúng tế, ơng Maha sẽ dâng cúng hai măm cho tổ tiên, ông
Pàlẹ dâng hai mâm cúng vong.
2.1.2.6. Lễ tụng kinh cầu phước
Trong trang phục truyền thống ngày cưới, cô dâu chú rể ngồi xếp bằng cúi
đầu nghe sư sãi tụng kinh, vấy nước thơm vào cặp đôi nhằm mang lời chúc phúc cả
hai sống hạnh phúc, tình cảm bền chặt, chung thủy. Nội dung kinh tụng là ngoài
chúc phúc cịn có răn dạy đạo làm chồng, làm vợ, đạo làm con với đấng sinh thành.

Lễ tụng kinh cầu phước người Khmer
Nguồn: />
19


2.1.2.7. Lễ mở hoa cau
Đây là nghi lễ quan trọng trong q trình cưới xin, hoa cau khơng chỉ thể hiện
sự trong trắng của người con gái, còn thể hiện sự gắn kết bền chặc giữa người với
người và sự biết ơn đấng nuôi dưỡng, anh chị em và thầy cơ có cơng dạy dỗ.
Nghi lễ sẽ do mẹ cơ dâu đảm nhận mở bông cau. Người mẹ nhẹ nhàng lễ vật
thiêng liêng này, cầm ba cây nhang khấn vái nhằm xin ơn trên bàn điều phước lành,

lấy nước thơm vuốt vào bơng cau ba lần, sau đó dùng tay vạch tách ba đường bẹ cau
ra, cắt bẹ cau thành ba phần với những ý nghĩa: phần thứ nhất gọi là bình hoa trưởng,
người mẹ cắm hoa cau vào phần bình này với hai mươi mốt miếng trầu nhầm nhớ
ơn cha mình; phần thứ hai gọi là bình hoa kế, hoa cau được cấm cùng mười hai
miếng trầu để nhớ ơn mẹ đã sinh thành; phần cuối cùng là bó hoa út, được cắm cùng
sáu miếng trầu để nhớ ơn người anh.

Ba phần hoa cau được bó vào ba bình với ý nghĩa riêng
Nguồn: />2.1.2.8. Lễ mời trầu
Chú rể sẽ mời trầu cau cho cha mẹ vợ cùng với dưng bốn mâm cơm cúng để
tỏa lòng biết ơn, kèm theo đó là một lửa nhỏ trong bát với 1y nghĩa ghi nhớ ơn mẹ
như đã nằm than khi vừa mới hạ sinh con mình.
Chú rể thực hiện nghi thức này ba lần, lần đầu dâng mẹ ăn lấy phúc, sau đó
mẹ sẽ đưa truyền cho họ hàng thân thiết; lần hai dâng cha; lần ba dâng lại cho mẹ,
20


người mẹ sẽ truyền trầu cau cho những người họ hàng tham dự còn lại, tất cả người
dự sẽ nhận trầu cau, ăn và đọc kinh với nội dung chủ yếu là nhớ ơn công sinh thành.
Kết thúc lễ mời trầu, quan viên hai họ sẽ bắt đầu ăn uống, múa hát và chơi các
trò chơi dân gian đến sáng, nổi bật có trị chơi săn voi hay trị vào rừng tìm thuốc
nhuộm răng cơ dâu.
2.1.3. Ngày cuối cùng – Ngày lễ lạy (Pithi Sampas)
2.1.3.1. Lễ đón lấy giờ tốt (Pithi Dok Pehea)
Giờ tốt trong lễ cưới theo quan niệm người Khmer Nam Bộ là khi có thể nhìn
thấy chim bay, khi có thể thấy được chỉ tay và giờ tốt nhất là khi mặt trời vừa mọc.
Khi đến giờ tốt, ông Maha sẽ đánh cồng báo hiệu, bàn cúng được chuẩn bị
ngồi sân và hướng về phía Đơng. Ơng Pàlẹ bắt đầu đọc kinh khấn vái Tevoda để
nhờ ngài ban phúc phước, trong lúc ông Pàlẹ đọc kinh, cô dâu chú rể ngồi cúi đầu
nhận phước đến khi tiếng cồng dứt, chú rể lấy chiếc khăn trên gối đặt vào túi áo ngực

của mình để cơng nhận rằng mình đã là chồng, phải có trách nhiệm và làm trịn nghĩa
vụ, bổn phận người chồng, người rễ, người con.
Sau đó chú rể được rước vào nhà trong, “ba người ba bình hoa cau, đến ơng
Maha và chú rể, dàn nhạc tấu khúc Neary và Sđanh đơ” (Nguyễn Hùng Khu,
2012:97). Sau cùng, chú rể dâng hoa cau kính cha mẹ và anh trai.
2.1.3.2. Lễ xoay đèn cầy (Bon – rel Pô – nil)
Lễ xoay đèn cầy thể hiện tín ngưỡng phồn thực cao, chiếc đèn cầy đại trưng
cho linga, giấy hồng hình cá cây đa để đính đèn cầy vào đại trưng cho yoni.
Tại đây, ông Maha sẽ đốt đèn cầy lê, sau đó chuyển đèn cho ơng bà mai mối
rồi tới các thanh niên, cứ thể truyền đi ba vòng với mong muốn vợ chồng trẻ có thể
mau sinh con, con cháu đầy đàn.
2.1.3.3. Lễ múa mở mâm trầu (Răm bot bay sây)
Maha sẽ dùng chiếc thanh gương để lấy chiếc khăn được đậy trên mâm trầu,
sau đó múa hát làng điệu truyền thống rồi trao thanh gươm cho cô dâu với ý nghĩa
trao lại quyền lực, sức mạnh, bảo vệ gia đình hạnh phúc. Như vậy, lễ múa mở mâm
trầu là nghi lễ cơng nhận chính thức cặp đơi là vợ là chồng của nhau.
2.1.3.4. Lễ cột chỉ tay (Phithi chon đay)
Sẽ có hai người phụ nữ đại diện nhà gái bưng lễ vật bông cau vào trong và
rước cơ dâu ra trình quan viên hai họ. Lúc này Maha sẽ vừa đọc kinh, vừa dùng chỉ
quét nước thơm với số lần quy định: quét ra bảy lần để đuổi tà ma, điềm xi; qt
vào chín lần để cầu mong, chúc phúc đơi vợ chồng trẻ. Sau đó Maha cột chỉ màu
trắng vào tay cô dâu và chú rể với ý nghĩa gắn kết cả hai, về sau sống chung thủy,
yêu thương nhau. Sau Maha, họ hàng sẽ cột vào tay hai vợ chồng sợi chỉ màu hồng
nhầm chúc phúc.
21


Lễ cột chỉ tay trong đám cưới người Khmer
Nguồn: />2.1.3.5. Lễ rắc hoa cau (Pithi bach ph’ca sla) và lễ cuốn chiếu
Ơng Maha sẽ rắc nước bình hoa theo lối vào cửa phịng tân hơn của cặp vợ

chồng chúc phúc, theo nghi lễ này, cô dâu sẽ đi trước, chồng nàng theo sau và nắm
lấy vạt áo vợ mình. Khi hai người đi vào phịng tân hơn, Maha sẽ cuốn chiếu vào
với ý nghĩa khơng cịn xui xẻo nào làm phiền hai vợ chồng trong ngày cưới này.
2.2. Chung giường
Vào khoảng từ tám đến chín giờ tối, hai cụ bà lớn tuổi nhất trong nhà sẽ dùng
các lễ vật bao gồm bánh, trái, mâm trầu; hai cụ thấp đèn, lột vỏ chuối chia đôi và
đưa cô dâu chú rể ăn (như lễ hợp cẩn), hành động này thể hiện người con gái đã thật
sự gửi gấm, tin tưởng tấm thân mình cho chồng, mong muốn cả hai sống hạnh phúc.
Ngồi ra hai cụ còn chỉ bảo, răn dạy vợ chồng về đạo làm chồng, vợ, làm con phải
hiếu thảo.
Ba ngày sau khi hôn lễ kết thúc, cha mẹ vợ mang theo lễ vật gồm bình cau
trưởng và các vật lễ khác cùng hai vợ chồng trẻ đến cúng Phật cầu bình an, hạnh
phúc. Chiều cùng ngày, nhà gái mang trầu cau đến nhà trai để cơ kết tình thơng gia,
nhắc nhở vợ chồng đặt chữ hiếu với cha mẹ chồng/ vợ.
3. Sau lễ cưới
3.1. Cư trú sau khi cưới
Vấn đề cư trú sau khi cưới là quy định bắt buộc phải tuân theo vào thời xưa,
khi người Khmer vẫn còn theo chế độ mẫu hệ thì cặp vợ chồng sau khi cưới phải cư
22


trú bên nhà vợ (người chồng sẽ ở rễ). Tuy nhiên ngày nay đã khơng cịn bắt buộc,
cặp đơi có thể tự do lựa chọn cư trú bên vợ, cư trú bên chồng hoặc xây nhà ra ở
riêng, nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho đôi trẻ. Sự linh hoạt này đại trưng cho
quan hệ thân tộc không phân biệt tử hệ của người Khmer Nam Bộ ngày nay.
3.2. Vấn đề ly hôn
Ly hôn là một sự kiện khi mà cặp đơi vợ chồng rơi vào tình huống bắt buộc
phải thực hiện vì đây là vấn đề nhạy cảm, đặc biệt là với người con gái, vì thế nếu
người chồng muốn ly hôn với vợ, phải được sự đồng ý của người vợ. Nếu người vợ
bỏ chồng sẽ bị xã hội, cộng đồng người Khmer lên án về nhân phẩm, đạo đức, đàm

tiếu chuyện riêng tư khiến cho người phụ nữ có thể khơng thể trở về sống trong
khum sóc nữa, ngay cả việc khơng giám nhìn mặt lại cha mẹ mình.
4. Một số kiêng kỵ ngày cưới
Ngồi những kiêng kỵ đã được nhắc đến trong các nghi lễ diễn ra trong lễ
cưới, người Khmer có điểm khác biệt nổi bật với các dân tộc khác ở việc để tang.
Theo quan niệm dân gian, việc tang lễ là điều khơng may mắn, các lễ cưới hỏi
mang tính hỷ sự thường được tránh tổ chức. Nhưng với người Khmer, họ xem việc
chết đi của một người là sự siêu thoát khỏi trần tục, chết là hết nên việc tang lễ không
ảnh hưởng đến tổ chức lễ cưới của người Khmer, riêng trường hợp nếu chồng hoặc
vợ mất mà muốn đi thêm bước nữa thì phải để tang chồng hoặc vợ mình trong vịng
một năm.
*
*

*

CHƯƠNG IV
LỄ CƯỚI CỦA NGƯỜI KHMER NAM BỘ XƯA VÀ NAY
1. Lễ cưới của người Khmer Nam Bộ xưa và nay
Thời đại ngày nay với những biến đổi về kinh tế, xã hội đã ảnh hưởng đến lễ
cưới của người Khmer Nam Bộ cả về nghi thức, trang phuc… Để phù hợp với sự
thay đổi của thời đại, các vấn đề liên quan đến lễ cưới đã thích ứng, điều chỉnh
theo hướng đơn giản hóa, tránh rườm rà, phức tạp.
Lễ cưới người Khmer đã được giản lược hóa về thời gian tổ chức ngày cưới,
từ 3 ngày ở lễ cưới truyền thống, người Khmer rút ngắn lại cịn một ngày hai đêm
vì một phần số nghi thức trong ngày lễ cũng đá giản đơn đi, một số nghi lễ được
23



×