Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

NÉT ĐẶC TRƯNG CỦA DÂN CA VÍ, GIẶM NGHỆ TĨNH NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGÔN NGỮ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (942.52 KB, 28 trang )






ĐỀ TÀI: NÉT ĐẶC TRƯNG CỦA DÂN CA VÍ, GIẶM NGHỆ TĨNH NHÌN
TỪ PHƯƠNG DIỆN NGƠN NGỮ


MỤC LỤC

TỔNG QUAN _______________________________________________________3
1. Lý do chọn đề tài. _______________________________________________3
2. Mục đích nghiên cứu đề tài. _______________________________________3
3. Đối tượng nghiên cứu.____________________________________________4
4. Phương pháp nghiên cứu. _________________________________________4
5. Dự kiến những kết quả sau khi nghiên cứu. ___________________________4
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ____________________________________________5
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN. ___________________5
1. Cơ sở lý luận. __________________________________________________5
2. Cơ sở thực tiễn. _________________________________________________6
CHƯƠNG II. DÂN CA VÍ, DẶM NGHỆ TĨNH NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN _____6
NGÔN NGỮ. _______________________________________________________6
I. Vài nét về mảnh đất và con người xứ Nghệ. ___________________________6
1. Mảnh đất xứ Nghệ ______________________________________________6
2. Con người xứ Nghệ______________________________________________7
II. Nét độc đáo của dân ca ví dặm Nghệ Tĩnh dưới góc nhìn từ ngơn ngữ địa
phương. __________________________________________________________8
1. Đơi nét về dân ca ví dặm Nghệ Tĩnh. _________________________________8
2.


Các yếu tố phương ngữ làm nên nét đặc sắc trong dân ca ví dặm Nghệ tĩnh. 10

2.1. Ngữ âm tiếng Nghệ Tĩnh tạo nên nét sắc thái riêng về "giọng Nghệ" trong ví,
dặm

____________________________________________________________10

2.2. Từ địa phương đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện nội dung và nghệ
thuật của dân ca xứ Nghệ, tạo nên sắc thái địa phương đậm đà. _______________13
2.2.1.

Từ ngữ địa phương được sử dụng với số lượng lớn._________________13


2.2.2. Đa dạng cách xưng hơ trong hát ví, hát dặm.________________________16
2.2.3. Sự phong phú trong ngôn ngữ Nghệ được thể hiện qua cách chơi chữ vừa
độc đáo vừa mang tính bác học. ________________________________________17
3. Bảo tồn và phát huy “ đặc sản” xứ Nghệ. ____________________________21
3.1 Bảo tồn. _______________________________________________________21
3.2. Phát huy. _____________________________________________________22
TỔNG KẾT ________________________________________________________24
TÀI LIỆU THAM KHẢO ____________________________________________26

2


TỔNG QUAN
1. Lý do chọn đề tài.
Dân ca ví, dặm là nghệ thuật ca nhạc độc đáo của Việt Nam nói chung, là một di
sản tinh thần vơ cùng q giá, kết tinh trí tuệ, tình u và tài hoa của bao thế hệ cộng

đồng dân cư, của các dân tộc anh em trên quê hương Nghệ An – Hà Tĩnh nói riêng. Có
thể xem đó là một thứ “rượu” đặc biệt, được chưng cất từ những nụ cười, những giọt
nước mắt, từ những nỗi vất vả trong lao động thường ngày, và cả từ trong tính cách bình
dị, chất phác của con người nơi đây…, nó đã hịa quyện lại làm một làm cho người ta
say đắm mỗi khi nghe những câu ví, điệu dặm được cất lên.
Nhắc đến văn hóa Xứ Nghệ khơng thể khơng nhắc đến dân ca Xứ Nghệ và ngược
lại, khi nói đến dân ca Xứ Nghệ là đang nói đến một biểu hiện đặc trưng của văn hóa
truyền thống Nghệ Tĩnh. Nói đến đặc trưng dân ca của một vùng thì một trong những
yếu tố quan trọng cần phải nhắc tới là ngôn ngữ. Cùng với nhạc, lời ca làm nên giá trị,
đặc trưng của dân ca Xứ Nghệ, trong đó, một trong những nhân tố tạo nên dấu ấn, sắc
thái riêng đó là tiếng Nghệ
Dân ca ví, dặm đã trở thành một nhu cầu, một bộ phận không thể thiếu đối với cư
dân vùng xứ Nghệ. Với những nét đặc sắc về nội dung trữ tình và làn điệu dân ca ví dặm
như dịng sữa ngọt ngào đã ni dưỡng tâm hồn cốt cách bao thế hệ người dân nơi
đây.Câu ví dặm quê mình vừa ân tình sâu lắng, vừa trang trải mênh mang, vừa đượm đà
dung dị nó là tấm gương phản chiếu rõ mọi mặt của cuộc sống, bộc lộ và diễn đạt mọi
cung bậc tình cảm, tâm hồn, khát vọng của nhân dân xứ Nghệ. Là một phần của mảnh
đất xứ Nghệ, tơi ln mang trong mình tình u tha thiết với quê hương, với những làm
diệu dân ca gần gũi, thân quen nơi quê nhà mà mõi khi nghe những âm điệu dân ca ấy
lịng tơi trào lên bao nỗi niềm thương nhớ, với những kí ức buồn vui, ngọt bùi, đắng cay.
Phải chăng dân ca là tinh hoa của đất mẹ là hồn nước tình quê “ Ai biết nước sơng Lam
răng là trong là đục/ Thì biết sống cuộc đời răng là nhục là vinh/ Thuyền em lên thác
xuống ghềnh/ Quê hương là nghĩa là tình ai ơi!”
Với tất cả những lý do trên, tôi chọn đề tài “Phương ngữ Nghệ Tĩnh – nét độc đáo
trong dân ca ví dặm” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài.
Đề tài nghiên cứu này sẽ chỉ ra được những nét đặc trưng ngôn ngữ trong các làn
điệu dân ca ví dặm Nghệ Tĩnh, từ đó giúp cho người đọc có cái nhìn khái qt hơn và
rõ nét hơn về dân ca xứ Nghệ. Cung cấp một số thơng tin về loại hình âm nhạc vừa dân
gian vừa bác học của người Việt nói chung và con người Nghệ Tĩnh nói riêng. Từ đó

3


giúp mọi người hiểu rõ hơn tính cách người dân xứ Nghệ qua những câu ví, câu dặm.
Đồng thời, đề tài nghiên cứu này góp một phần nhỏ đưa dân ca ví dặm Nghệ Tĩnh đến
gần hơn với mọi người.
3. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là lĩnh vực văn hóa nghệ thuật. Cụ thể là các
làn điệu dân ca ví dặm Nghệ Tĩnh.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
- Trong nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết này, tôi chủ yếu sử dụng phương
pháp so sánh, phân tích, tổng hợp tư liệu từ nhiều nguồn tìm được….
- Vận dụng lý thuyết cấu trúc luận trong ngôn ngữ của nhà ngôn ngữ học Thụy Sĩ
Ferdinad de Saussure ( 1587-1913) làm cơ sở lý thuyết nghiên cứu cho đề tài
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
-

Sử dụng phương pháp tham khảo ý kiến của các nghệ nhân, nghệ sĩ, từ đó xây
dựng luận điểm nghiên cứu cho mình.

5. Dự kiến những kết quả sau khi nghiên cứu.
Về lý luận: Tôi mong muốn đề tài sẽ là nguồn động lực góp phần bảo tồn và phát
huy dân ca Nghệ Tĩnh. Ngoài ra những đúc kết, đánh giá, nhìn nhận đúng đắn hơn về
sức lan tỏa của các làn điệu dân ca ví dặm trong đời sống văn hóa vùng đất Nghệ Tĩnh
có thể sẽ trở thành cơ sở để từ đó đề xuất hướng phát huy các giá trị âm nhạc truyền
thống Việt Nam trong xu hướng hội nhập khu vực và quốc tế hiện nay.
Về thực tiễn: Đề tài này có thể đóng góp một phần nhỏ làm tư liệu tham khảo cho
những người muốn tìm hiểu, nghiên cứu về những vấn đề có liên quan đến dân ca ví
dặm Nghệ Tĩnh, đồng thời giúp cho người đọc có thể hiểu thêm về con người xứ Nghệ

qua những lời ca câu ví.

4


NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN.
1. Cơ sở lý luận.
Dân ca Việt Nam là một thể loại âm nhạc cổ truyền, qua việc truyền khẩu, truyền
ngón các bài dân ca, mỗi người diễn xướng có quyền ứng tác tự do, góp phần sáng tạo
của mình vào tác phẩm trong quá trình biểu diễn. Do vậy họ gần như là “đồng tác giả”
với những người sáng tác mà người sáng tác ban đầu không rõ là ai. Một bài dân ca
thường tồn tại với một bản coi như bản gốc, gọi là lòng bản và nhiều bản được ứng tấu
thêm hay sửa đổi gọi là dị bản. Những bài dân ca được nhiều người yêu thích sẽ được
truyền bá đi khắp nơi.
Quả thật khó để ta có thể nêu ra được một định nghĩa chính xác, thỏa đáng về dân
ca. Với người Đức dân ca được gọi là volkslied (tạm dịch: bài ca của nhân dân), người
Pháp thì dùng 2 nhóm từ: chanson populaire (tạm dịch: “bài ca phổ cập trong quần
chúng”) hay chanson folklorique (tạm dịch: bài ca mang tính nhân dân), trong khi đó
người Anh gọi dân là folk song theo nghĩa như chanson folkorique, còn người Ý cuối
thế kỷ XX lại dùng từ etnofonia (tạm dịch: bài ca mang tính dân tộc hay sắc tộc) để gọi
dân ca. Trong một số tài liệu ngoại quốc, và ngay cả trong các tài liệu Việt Nam về dân
ca hay cơng trình nghiên cứu trên 500 trang:“Tiếp cận kho tàng folklore Việt Nam” của
Gs. Vũ Ngọc Khánh cũng không hề thấy một khái niệm cụ thể hay một định nghĩa công
thức về dân ca như các định nghĩa về những phạm trù khác.
Theo GS.TS Trần Quang Hải làm việc tại Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu khoa học
về Sơ lược về dân ca Việt Nam: “Dân ca là những bài hát, khúc ca được sáng tác và lưu
truyền trong dân gian mà không thuộc về riêng một tác giả nào. Đầu tiên bài hát có thể
do một người nghĩ ra rồi truyền miệng qua nhiều người từ đời này qua đời khác và được
phổ biến ở từng vùng, từng dân tộc… Các bài dân ca được gọt giũa, sàng lọc qua nhiều

năm tháng bền vững với thời gian”.
Để tiện cho việc nghiên cứu, ta có thể hiểu khái niệm về dân ca tạm thời như sau: Dân
ca là những bài hát cổ truyền do nhân dân sáng tác được lưu truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác.
Theo wikipedia – bách khoa toàn thư mở phương ngữ (hay phương ngôn, tiếng
Anh: dialect) là hệ thống ngôn ngữ được dùng cho một tập hợp người nhất định trong xã
hội, thường là phân chia theo lãnh thổ.Phương ngữ được chia thành phương ngữ lãnh
thổ và phương ngữ xã hội.
5


Về thể loại hát ví, hát dặm thì theo cuốn Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên,
NXB Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học, 2011) thì hát dặm là “lối hát dân gian ở Nghệ
Tĩnh, nhịp điệu dồn dập, lời dựa vào thơ năm chữ, hai câu cuối bao giờ cũng lặp lại về
âm vận và cao độ”[7, tr. 409], cịn hát ví là "Một loại dân ca trữ tình ở vùng Nghệ Tĩnh
đặc biệt thịnh hành ở các làng xã thuộc vùng trung lưu và hạ lưu sơng Cả và các sơng
con ở phía Nam sơng Cả" [6, tr. 96].
2. Cơ sở thực tiễn.
Dân ca ví dặm Nghệ Tĩnh vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay, tuy nhiên do đặc trưng,
tính chất của dân ca Việt Nam nói chung và dân ca Nghệ Tĩnh nói riêng được lưu truyền
chủ yếu là bằng hình thức truyền miệng do đó dân ca ví dặm dần trở nên mai một, như
trong cơng trình nghiên cứu trước đây của PGS Ninh Viết Giao - người đã gắn bó nhiều
năm với cơng việc sưu tầm và nghiên cứu Dân ca ví, dặm, từng chỉ ra: “Kho tàng Dân
ca ví, dặm trước đây rất phong phú, từ lịch sử hàng trăm năm, đã có biết bao lời hát được
cất lên, nhưng cũng chính vì hình thức của Dân ca ví, dặm là ứng đáp trong đời sống lao
động nên có rất ít tài liệu ghi lại trọn vẹn tất cả những câu hát này. Cũng bởi hình thức
lưu truyền là truyền miệng nên hiện nay, những lời hát ví, dặm cịn lại chỉ là một phần
nhỏ trong kho tàng vốn rất phong phú của Dân ca ví, dặm xứ Nghệ”.
Những câu hát dân ca ví, dặm hiện đang lưu truyền có thể coi chỉ là số ít so với nguồn
dân ca ví, dặm trước đây. Điều đó, đặt ra cho chúng ta nhiều việc cần làm trong công

tác sưu tầm, lưu giữ và bảo tồn, phát huy các giá trị của loại hình nghệ thuật dân gian
này. Nhưng chúng ta tự tin hơn khi vào ngày 27/11/2014 dân ca ví, dặm đã được cả thế
giới cơng nhận là Di sản và có thể kỳ vọng nhiều hơn vào sự phát triển của Dân ca ví,
dặm Nghệ Tĩnh khi có nhiều nhạc sỹ đương đại đang lấy đó làm chất liệu để sáng tác
nhiều bài hát đi vào lòng người, như các ca khúc: Xa khơi, Chào em cô gái Lam Hồng,
Cô dân quân làng Đỏ, Trông cây lại nhớ đến Người, Đêm nghe hát đò đưa nhớ Bác, Lời
Bác dặn trước lúc đi xa, Giữa Mạc Tư Khoa nghe câu hò Nghệ Tĩnh, Hương cau vườn
Bác, Một khúc tâm tình của người Hà Tĩnh, Người đi xây hồ Kẻ Gỗ, Thương về xứ
Nghệ, Giận mà thương, Dịng sơng đa tình,… Điều đó khẳng định tầm ảnh hưởng của
Dân ca ví, dặm đối với nền âm nhạc đương đại và là nền tảng quan trọng để Dân ca ví,
dặm tiếp tục lan tỏa trong cuộc sống hôm nay và mãi mai sau.
CHƯƠNG II. DÂN CA VÍ, DẶM NGHỆ TĨNH NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN
NGƠN NGỮ.
I.
1.

Vài nét về mảnh đất và con người xứ Nghệ.
Mảnh đất xứ Nghệ
6


Xứ Nghệ là tên chung của vùng Hoan Châu cũ từ thời nhà Hậu Lê tức là hai tỉnh
Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay, hai tỉnh này còn được biết đến về mặt văn hóa với tên
gọi văn hóa Lam Hồng, bởi có chung núi Hồng, sơng Lam.
Danh xưng Nghệ An có từ năm 1030 thời nhà Lý, niên hiệu Thiên Thành thứ 2 đời
Lý Thái Tơng. Lúc đó gọi là Nghệ An châu trại, sau đó thì đổi thành trại Nghệ An rồi
Nghệ An phủ, Nghệ An thừa tuyên. Năm 1490, vua Lê Thánh Tông (niên hiệu Hồng
Đức thứ 21) đổi tên từ Nghệ An thừa tuyên thành xứ Nghệ An (gọi tắt là xứ Nghệ) đồng
thời với các đơn vị hành chính khác lúc bấy giờ như: xứ Kinh Bắc, xứ Sơn Nam, xứ
Đơng, xứ Đồi, xứ Thanh Hóa, xứ Lạng Sơn... Sau cuộc cải cách hành chính của chính

quyền vua Minh Mạng năm 1831, phạm vi hành chính của xứ Nghệ bị thu hẹp lại, tách
thành hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Tuy nhiên đến năm 1976, chính phủ nước Cộng hịa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam sáp nhập hai tỉnh Nghệ An Hà Tĩnh thành tỉnh Nghệ Tĩnh.
Đến năm 1991, tỉnh Nghệ Tĩnh tách thành hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh và duy trì cho
đến nay.
Nghệ Tĩnh ( Nghệ An và Hà Tĩnh nay) nằm ở vùng Bắc Trung Bộ Việt Nam với phía
bắc giáp Thanh Hóa , phía nam giáp Quảng Bình, phía tây giáp nước Lào và phía đơng
giáp vịnh Bắc Bộ.
Xứ Nghệ là mảnh đất có nguồn tài ngun, khống
sản phong phú. Khơng ngoa khi có thể nói rằng nới đây
như là một nước Việt Nam thu nhỏ. Xư Nghệ là vùng
đất có địa hình núi rừng trùng điệp với đồi núi chiếm
phần lớn diện tích, núi trải dài ở phía Tây, bốn mùa mây
phủ. Dân gian thường gọi là núi Giăng Màn. Tuy nhiên,
do địa hình chủ yếu là đồi núi cũng như điều kiện tự
nhiên khắc nghiệt được cùng với thiên tai, dịch bệnh
liên miên nên đời sống của người dân nơi đây có phần
khó khăn hơn những địa phương khác.


ệ ĩ

ả đồ



ă


2.


Con người xứ Nghệ

Nói đến con người của mảnh đất Nghệ Tĩnh đầy nắng đầy gió này chắc hẳn người ta
sẽ nhớ đến ngay những con người bình dị, chất phác, thẳng thắn thủy chung, giàu tình
cảm. Con người nơi đây ln thể hiện một ý chí vượt khó, khắc phục hồn cảnh với tinh
thần kiên cường, quyết tâm cao. Không những thế, nơi đây từ xưa đến nay luôn được
7


mệnh danh là mảnh đất hiếu học. Con dân xứ Nghệ bao đời nay ln chăn chỉ chịu khó
học tập đạt được những thành công trên con đường khoa cử trong các triều đại phong
kiến còn lưu danh sử sách. Nhiều học giả, tên tuổi văn hóa lừng danh trong thời hiện
đại, đó là niềm tự hào khơng phải vùng đất nào cũng có được như Nguyễn Du, Nguyễn
Cơng Trứ, Phan Bội Châu…và đặc biệt trong đó có Chủ tịch Hồ Chí Minh – người sáng
lập Đảng Cộng sản Việt Nam, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Truyền thống đó
vẫn được tiếp nối trong từng gia đình xứ Nghệ khơng phải chỉ trong những gia đình có
hồn cảnh nghèo khó mà ở những gia đình thành đạt, giàu có thì họ vẫn ý thức rất rõ giá
trị của học vấn, của sự thành đạt bằng con đường học vấn. Có thể cho rằng ham học,
hiếu học đã đi vào từng nếp nhà, nếp nghĩ của người dân xứ Nghệ. Như GS. Phong Lê,
nguyên Viện trưởng Viện Văn học, người lớn lên từ mảnh đất Hương Sơn (Hà tĩnh), cho
rằng: "Anh đồ Nghệ với hình ảnh con cá gỗ cũng là biểu hiện cho tinh thần hiếu học,
cũng là biểu hiện của tính gàn. Tính gàn khơng phải là một cái gì đó xấu xa, nó là một
cá tính đặc trưng của người Nghệ, đó là cái ngơng của kẻ sĩ, của người có học. Người
Nghệ ngơng, gàn nhưng lại được nhiều người quý mến vì họ cũng là người sống thẳng
thắn, khẳng khái và nhiều khi cũng hào phóng, khơng hay tính tốn lợi ích cho bản thân".
Nét độc đáo của dân ca ví dặm Nghệ Tĩnh dưới góc nhìn từ ngơn ngữ địa
phương.
1. Đơi nét về dân ca ví dặm Nghệ Tĩnh.
II.


Ví, dặm là linh hồn, là một trong những nét đẹp văn hóa tiêu biểu trong kho tàng văn
hóa dân gian đáng tự hào của con người xứ Nghệ. Khơng có ở thể loại nào, cuộc sống
vật chất và tinh thần, sinh hoạt văn hóa dân gian của người Nghệ Tĩnh lại được phản ánh
với nhiều sắc độ, đặc trưng, đậm chất dân gian Nghệ Tĩnh như những tác phẩm này. Dân
ca Nghệ Tĩnh được hình thành trong mơi trường diễn xướng hết sức đặc biệt gắn liền
với cuộc sống, lúc ru con, khi làm ruộng, chèo thuyền, lúc dệt vải, xay lúa (những năm
gần đây ví dặm được đưa vào sân khẩu để biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp, để biểu
diễn trong các chương trình biểu diễn lớn của tỉnh cũng như của đất nước). Các lối hát,
vì vậy, được gọi tên theo các hình thức lao động và sinh hoạt như: Ví phường vải, Ví
phường đan, Ví phường nón, Ví phường củi, Ví trèo non, Ví đị đưa, Giặm ru, Giặm kể,
Giặm khun,… Nhà soạn giả dân ca HồngVinh đã nói trong một bài phóng sự: “ví
dặm như là tâm hồn, khí phách, bản lĩnh của người dân xứ Nghệ, được khuôn đúc trong
lao động sản xuất, trong chiến đấu xây dựng và trong ứng xử cuộc sống”

8


ườ



ườ

ư

đờ






ả ủ

ườ



Hát ví thường là hát tự do, phóng khống khơng có tiết tấu từng khn nhịp, người hát
có thể co dãn một cách ngẫu hứng, ví dụ như ta có thể hát ví từ đầu đến cuối của truyện
Kiều. Âm điệu cao thấp ngắn dài có khi cịn tuỳ thuộc vào lời thơ (ca từ) bằng hay trắc,
ít từ hay nhiều từ. Âm vực của ví thường khơng q một quãng 8 Ví thuộc thể ngâm
vĩnh, bằng phương pháp phổ thơ dân tộc (lục bát, song thất lục bát, lục bát biến thể, song
thất lục bát…). Ví có nhiều cách hiểu đó là ví là với, là lời đối đáp của bên nam đáp với
bên nữ được thể hiện qua câu hát; ví là vói, bên này hát vói qua bên kia, hát vói từ bên
này sang bên này đồng, bên kia núi; ví là ví von chẳng hạn như “Da em như đọt chuối
non/ Eo lưng thắt đáy như con tò vò”. Tùy vào từng bài hát mà một bài ví có thể mang
tính dạt dào, mênh mang, sâu lắng, ân tình, bâng khng xao xuyến đơi khi lại hài hước,
dí dỏm, tươi trẻ. Nội dung của hát ví là để giao dun, thổ lộ tình cảm sâu kín của trai
gái với những cung bậc, mức độ khác nhau theo các chặng hát, ví dụ như lời đối đáp
giữa nam và nữ trong câu ví đị đưa như sau:
Nữ: Ơ… Chiếc thuyền trôi là chiếc thuyền đạo ngại
Chiếc thuyền lại là chiếc thuyền buôn
Anh ra đi em ở lại cũng buồn
Bốn phương trời chuyển động cái ngọn nguồn âm u
Nam: Ơ… Người đồng tâm chèo con thuyền đạo ngại
Thuyền đạo ngại có tay lái đồng tâm
Em ươm dâu xanh chăm bón nong tằm
Em về ươm tơ dệt lụa, ta kết bạn tri âm với thuyền.
9



Lời ca tình tứ cùng với nhạc điệu tha thiết êm ái, hát ví đã đi vào lịng người một
cách sâu lắng, dàn trải.
Hát dặm hay còn gọi là hát giặm ở đây ta có thể hiểu “giặm là quãng đường, giặm
đường; giặm là giắm, là chêm vào điền vào, đệm vào; giặm là giậm, là giậm chân gõ
nhịp (động từ); giặm là đánh giặm (dụng cụ đánh bắt cá tôm).” (Đặng Thanh Lưu, 2017:
53). Theo ý kiến của PGS Ninh Viết Giao: “Giặm là tiếng vang vọng lại của tiếng nói
con người nơi núi rừng, nhất là khi chúng ta đi vào những khu rừng có nhiều vách đá
thẳng tắp cheo leo, khi nói một câu chúng ta thường nghe lại tiếng nói của chính mình”.
Dặm là thể loại hát nói được thể hiện bằng thơ ngụ ngơn (thơ / vè 5 chữ). Khác với hát
ví khơng có tiết tấu, nhịp điệu thì dặm là thể hát có tiết tấu rõ ràng, nhịp phách mạnh
nhẹ khác nhau tùy từng đoạn từng phần hay từng bài. Thông thường một bài hát dặm
thường có 5 khổ, mỗi khổ có 5 câu thơ mỗi câu thơ có 5 chữ. Câu thơ thứ 5 bao giờ cũng
nhắc lại câu thơ thứ 4. Nhưng xuất phát từ cách biến hóa của giai điệu nên lời thơ ở âm
thứ 3 cũng phải thay đổi từ âm khơng dấu trở thành âm có dấu huyền. Ví dụ như câu Hát
dặm cổ truyền sau đây: “Mự nó biết tui mơ/ Tui nỏ biết mự mơ/ Sóng ngồi bể đồn vô/
Mây rừng xanh kéo lại/ Mây đại ngàn kéo lại”, hay trong lời bài dặm ru 2 (Mẹ dòng than
thở cùng con): “ Thấy người ta sàm sợ (sỡ)/ Mẹ chực tiết lịng son/ Mẹ ngồi lại ni con/
Thật trăm đường tủi khổ/ Thật ngàn đường tủi khổ”. Có thể coi hát dặm là con người xứ
Nghệ bởi ngay trong lời bài hát giàu tính tự sự, phản ánh rõ cuộc sống lao động, sinh
hoạt thường ngày với những câu chuyện, những biến cố, bày tỏ thái độ tình cảm, tư
tưởng riêng của người xứ Nghệ. Ngồi ra, cịn có dặm khơi hài, dí dỏm, châm biếm và
cũng có cả dặm trao duyên.
Nếu như nghe Hát giặm ta có thể nhận cảm được sự vất vả đến khắc khổ nhưng cứng
rắn, khỏe khoắn, trầm hùng của tâm hồn người lao động Nghệ Tĩnh thì ngược lại, nghe
hát ví ta lại rung cảm bởi tâm hồn thi vị yêu thương, tính cách hiền hịa, sự dịu dàng,
dun dáng của con người xứ Nghệ. Đó là tâm hồn, tính cách, là cuộc sống lao động
gian lao và tình cảm nồng hậu, tình yêu tha thiết đối với quê hương đất nước, chan chứa
trong điệu dân ca ví, giặm xứ Nghệ miền Trung. Cùng với nhạc, lời ca là tiếng Nghệ với

đặc trưng riêng về ngữ âm và từ ngữ địa phương đã tạo nên các làn điệu dân ca mang
hương sắc riêng như vậy.
2. Các yếu tố phương ngữ làm nên nét đặc sắc trong dân ca ví dặm Nghệ tĩnh.
2.1. Ngữ âm tiếng Nghệ Tĩnh tạo nên nét sắc thái riêng về "giọng Nghệ" trong
ví, dặm.
Theo như thuyết cấu trúc luận về ngơn ngữ của Fedinand de Saussure thì ông cho
rằng “ngôn ngữ là một hệ thống kí hiệu biểu hiện sinh động các mối quan hệ giao tiếp
trong đời sống xã hội. kí hiệu đó khơng phải khơng phải là sự hợp thành các yếu tố tách
10


biệt mà là một chỉnh thể của nhiều yếu tố được kết cấu chặt chẽ, có quy kuật nội tại
riêng. Đặc biệt, khái niệm cái biểu đạt (signfiant) và cái được biểu đạt (signifed) đã khơi
gợi nhiều vấn đề đối với ngành nghiên cứu ngơn ngữ như kí hiệu học, ngữ pháp học, âm
vị học…” Mặt khác ông cũng cho rằng “Phong tục của một dân tộc có tác động đến ngôn
ngữ, và mặt khác, trong một chừng mực khá quan trọng, chính ngơn ngữ làm nên dân
tộc” thì ta cũng có thể suy ra, ngơn ngữ địa phương mang trong nó bản sắc văn hóa địa
phương, của từng khu vực dân cư. Do ví giặm được sáng tác và diễn xướng bằng ngôn
ngữ địa phương (tức phương ngữ Nghệ Tĩnh) nên nó mang trên mình được tồn bộ đặc
trưng về ngơn ngữ của địa phương đó.
Như ta đã biết, tiếng Việt là loại ngôn ngữ đặc trưng, thống nhất của người Việt
tuy nhiên nó lại có sự đa dạng đa dạng ở mỗi vùng miền. Mỗi vùng miền khác nhau
tiếng nói của họ ít nhiều sẽ có sự khác nhau. Ở Việt Nam từ trước đến nay,các nhà ngôn
ngữ học nhìn chung đều thống nhất trong việc chia ra 3 vùng phương ngữ chính: phương
ngữ Bắc, phương ngữ Trung và phương ngữ Nam. Tiếng Nghệ thuộc về vùng phương
ngữ Trung, bao gồm 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Như vậy, phương ngữ Trung sẽ còn 2
khu vực nữa là phương ngữ Thanh Hóa và phương ngữ Bình Trị Thiên, đều có những
khác biệt nhất định về mặt ngữ âm cũng như từ vựng so với phương ngữ Nghệ Tĩnh.
Trong giao tiếp người ta có thể dễ dàng nhận ra được người này nói tiếng Hà Nội
(phương ngữ Bắc), người kia nói “giọng” Nghệ (phương ngữ Trung) hay người này nói

tiếng Sài Gịn (phương ngữ Nam)… Điều đó khơng riêng gì ở Việt Nam mới có sự khác
biết trong tiếng nói như thế mà ngay ở các nước này khác cũng có điều tương tự xảy
ra,ví dụ như người hàng xóm Trung Quốc cũng có sự khác nhau trong giọng nói giọng
ở Bắc Kinh thì khác giọng người ở Quảng Đơng hay giọng của người Thượng Hải. Sở
dĩ có sự khác biệt ấy là do sự thể hiện ở từ địa phương, ở cách nói, ở ngữ điệu phát ngôn
và ở ngay trong cách phát âm.
Sự khác biệt về tiếng hay giọng của vùng này hay vùng khác là sự khác biệt về
chất lượng âm thanh. Sự khác biệt hay nét riêng đó được thể hiện qua hàng loạt yếu tố,
như thanh điệu, âm đầu, vần, mà cụ thể hơn là ở các biểu hiện về âm vực (độ cao thấp
của thanh điệu), âm điệu (sự biến thiên của cao độ - đường nét của thanh điệu theo thời
gian tạo nên sự biến điệu hay không biến điệu của âm thanh), về cấu âm, về cường độ,
trường độ, trong, đục; về âm sắc (bổng/ trầm), về âm lượng (lớn/ nhỏ, độ vang),... của
các đơn vị âm thanh, sự chuyển sắc, thiếu vắng hay biến điệu của các âm,... so với phát
âm của vùng khác. Tập hợp những nét khác biệt về phát âm của một vùng nào đó so với
vùng khác tạo nên đặc trưng ngữ âm của vùng đó mà ta thường gọi là giọng, tiếng, như
tiếng Huế, tiếng Nghệ Tĩnh…

11


Như ta biết, ngơn ngữ Việt Nam có 6 thanh gồm thanh huyền, thanh sắc, thanh
nặng, thanh ngã, thanh nặng và thanh ngang tuy nhiên với tiếng Nghệ Tĩnh thì chỉ có 5
thanh (khơng phát âm được thanh ngã (~), thanh ngã (~) nhập với thanh nặng (.). Âm
vực của hệ thanh điệu tiếng Nghệ cũng khác thanh điệu Bắc Bộ; người Nghệ phát âm
có độ cao thấp vì thế mà nghe trầm thấp hơn phương ngữ Bắc và phương Ngữ Nam.
Cũng do hệ thanh điệu được phát âm thấp nên sự đối lập về âm vực giữa hai nhóm thanh
(cao/ thấp) không rõ ràng như hệ thanh điệu Bắc Bộ hay Nam Bộ; các thanh điệu có
tuyến điệu gần giống nhau giữa hai nhóm càng xích lại gần nhau. Vì thế mà sự phát âm
các thanh này có sự khu biệt không rõ ràng, tạo nên sự "trọ trẹ", "lơ lớ" trong phát âm.
Cho nên, trong toàn vùng, thanh ngã (~) phát âm thành thanh nặng (.), nhiều nơi ở Nghệ

Tĩnh, thanh huyền (\) và thanh ngang phát âm nghe như chập vào nhau như ở vùng Nghi
Lộc (Nghệ An), thanh sắc ( /) và thanh hỏi (?) cũng biến điệu tạo nên một thanh "lơ lớ",
không rõ là sắc ( /) cũng không hẳn là hỏi (?) như tiếng Bắc Bộ. Những điều nói trên đã
tạo nên sắc thái riêng biệt trong phát âm của người Nghệ, tạo nên đặc trưng "giọng
Nghệ", "tiếng Nghệ" và đó cũng là một yếu tố tạo nên nét đặc trưng xứ Nghệ trong dân
ca ví, giặm, làm cho dân ca vùng này không trộn lẫn với các vùng khác. Như NSND
Hồng Lựu - giám đốc Trung tâm bảo tồn và phát huy dân ca Xứ Nghệ từng nói trong
một bài phóng sự “ Ai mà nói được tiếng Nghệ thì hát được dân ca ví dặm Nghệ Tĩnh”.
Bởi vậy mà đối với người Nghệ Tĩnh thì âm thanh, giọng nói ấy như là hiện thân của
chính con người họ, nó đã thấm sâu vào máu thịt, cho nên nghe dân ca ví, giặm là nghe
thấy sự gần gũi, sự tha thiết thân thương như nghe tự lịng mình.




ế
ế


ườ

ế
ứ ạ


ườ








ườ


ư





ứ ủ



Khi quan sát về mặt ca từ trong các bài dân ca hoặc ca khúc mang âm hưởng dân
ca, ta sẽ thấy rất rõ đặc trưng ngữ âm vùng miền được thể hiện trong đó. Khi người ca
sĩ thể hiện một bài dân ca Nghệ Tĩnh hoặc một ca khúc mang âm hưởng dân ca Nghệ
12


Tĩnh, cũng phải làm rõ được điều này thì mới ra chất Nghệ, thì mới được coi là hát thành
cơng. Có thể lấy một vài ví dụ về các ca khúc dân ca Nghệ Tĩnh, ta sẽ thấy được đặc
trưng ngữ âm tiếng Nghệ được thể hiện ra sao. Ví dụ như trong bài Giận mà thương, khi
hát các nghệ sĩ sẽ hát những từ có thanh ngã (~) thành thanh nặng (.)
“Ơ.. ớ ơ.. Muối ba năm muối đương cịn ơ ơ mặn
Gừng chín tháng thì gừng hạy (hãy) cịn ơ ơ cay
Đơi ta tình nặng ngại (ngãi (nghĩa)) dày
Dù có xa nhau đi chăng ơ ơ nựa (nữa)

Ơ.. ớ ơ.. Thời ba vạn sáu ngàn ngày mà nọ (không) phai”
Trong ca khúc Hồn quê xứ Nghệ soạn lời An Ninh có câu:
“Quanh quanh đường vơ xứ ơ Nghệ
Ơi sơn thủy hữu ơ tình
Miền nước biếc non ơ xanh
Mênh mang câu ví ơ dặm
Sâu nặng nghịa (nghĩa) tình câu ví ơ dặm.”
Hay trong một số ca khúc nổi tiếng mang chất liệu dân ca xứ Nghệ cũng đã thể hiện
được đặc trưng này của dân ca ví dặm Nghệ Tĩnh. Chẳng hạn như bài Giữa Mạc Tư
Khoa nghe câu hị Nghệ Tĩnh của Trần Hồn, ngay từ câu đầu, chữ “giữa” hát lên giống
như “giựa”, chính là thể hiện đặc trưng thanh ngã và thanh nặng nhập làm một. Hay
bài Đêm nghe hát đò đưa nhớ Bác của nhạc sĩ An Thuyên, trong câu “bát ngát nhớ
thương mà thoảng hương giữa đời”, chữ “giữa” cũng được hát lên như chữ “giựa”.
Từ địa phương đóng vai trị quan trọng trong việc thể hiện nội dung và nghệ
thuật của dân ca xứ Nghệ, tạo nên sắc thái địa phương đậm đà.
2.2.1. Từ ngữ địa phương được sử dụng với số lượng lớn.
2.2.

Từ ngữ địa phương là phương diện dễ dàng và đơn giản nhất để ta biết được người
đó thuộc vùng miền nào. Cùng vì thế mà nó được đưa vào những câu hát ví dặm rất
nhiều. Bởi đối với người xứ Nghệ thì Nghệ ngữ là thứ ngơn ngữ tự nhiên, hồn nhiên dễ
dàng, rất gần với khẩu ngữ, không hề mang vẻ đẹp của một cơng trình chế tác cơng phu.
Nhưng chính cái hồn nhiên, chân chất, mộc mạc, thô ráp ấy lại là cái đẹp riêng đối với
người dân Xứ Nghệ, bởi đó là tiếng nói “thật lịng” của họ; họ nói cho họ nghe và chính
người trong môi trường sáng tác, lĩnh xướng ấy mới cảm hết được.
13


Trong cơng trình nghiên cứu “Hát giặm Nghệ Tĩnh” của tác giả Nguyễn Đổng Chi,
Ninh Viết Giao thì có 12.714 dịng thơ, trong đó số từ địa phương được hai tác giả sử

dụng là 592 từ với 2.894 lần xuất hiện, trung bình 4,4 dịng thơ có 1 lần từ địa phương
được dùng.Hay trong cơng cơng trình Hát phường vải của tác giả Ninh Viết Giao có
4.163 dịng, trong đó có 229 từ địa phương với 1.013 lần xuất hiện, trung bình 4,1 dịng
thơ có 1 lần từ địa phương được dùng. Điều đó cho thấy, mật độ của từ địa phương trong
lời thơ dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh quả là khổng lồ. Ví dụ trong một đoạn giặm phá cách
(4 chữ) 8 câu thì đã có đến 3 từ địa phương và được lặp lại 5 lần:
Ví:

Anh say lời em hát rồi
Ngày đêm không chộ (thấy) dạ bồi hồi lắm thay

Vào hát: cầm lấy trốc (đầu) cày
Tưởng là trốc (đầu) cuốc
Tay bưng đọi (bát) nước
Tưởng là đọi (bát) canh
Vắt một múi chanh
Tưởng là múi bưởi…
Hay trong một ví dụ khác:
Đơi đụa (đũa) sơn son
Gắp hịn tro đỏ bỏ vô cơi vàng
Đến đây xa xạ (xã) ngái (xa) làng
Ước răng (sao) cho được con phượng bắc ngang con rồng…
“Trong HPV và HGNT, từ địa phương Nghệ Tĩnh chủ yếu là lớp từ đơn tiết (ở HPV có
181 từ đơn tiết, chiếm 79,2%, ở HGNT có 443 từ đơn tiết, chiếm 74,8 %). Trong HPV
và HGNT, lớp từ đơn không những được sử dụng với số lượng nhiều còn với tần số cao.
Trong số 100 từ có tần số cao (chủ yếu là 10 lần trở lên) mà chúng tôi đã thống kê, chỉ
có ba từ là hai âm tiết, cịn lại đều là từ đơn tiết. Ví dụ một số từ trong số 100 từ có tần
số cao nói trên: bể (biển, 31), chi (gì, 417), chạc (dây, 15), cội (gốc, 15), cơn (cây,
44), chộ (thấy, 76), coi (xem, nhìn, 47), đọi (bát, 30), đàng (đường, 46), mau (nhanh,
31), mần (làm, 33), mắc (bận, 20), mô (đâu, 131), ngài (người, 63), ni (nay,

58), nom (nhìn, 30), nhởi (chơi, 30), ngái (xa, 21), nậy (to, 16), nỏ (không, 215), o (cô,
27), rày (nay) (57), rứa (thế ấy, 68), rú (núi 29), răng (sao, 33), trốc (đầu, 17), trèo (leo,
26), trự (đồng tiền, 33),...” ( PGS.TS, Hoàng Trọng Canh, Phương ngữ nghệ tĩnh với
14


đặc trung dân ca xứ Nghệ, />chẳng hạn một ví dụ cho từ “chi, cơn” được thể hiện như trong câu:
“Chỉ nắng cưởi với mù nam
Trăm cơn (cây) chi (gì) cũng khơ
Ngàn cơn chi cũng héo (Hát giặm).
Ngồi những từ mà hai tác giả Nguyễn Đổng Chi và Ninh Viết Giao đã liệt kê trên thì
hàng loạt từ ngữ rất cổ của tiếng Việt được sử dụng trong ví giặm như chiềng
(thưa/trình), mần (làm), dức lác (rầy la), dóng (đặt), dứt lắc (bứt quách), chợm (sướng),
sương (gánh), tráo (đi trở lại), đòn noi (tấm ván), trấp (mắc/bận), trặc (lấy), nhéo (trêu
ghẹo), tróng (thịng lọng), van (kêu), ngăm (doạ), ràn (chuồng), trọt (chỗ trũng ở cánh
đồng), chỉn (chỉ), răng giừ (bao giờ), răng nấy (bao nhiêu), nỏ (không), rứa hè (thế nhé),
vô kể (nhiều), bựa ni/bựa rày (hôm nay),…
Chẳng hạn: “Trời mần (làm) một trộ (trận) mưa dông
Củ nu (nâu) nặng gánh, đị khơng sang đị” (Hát ví).
Hay: “Tau (tơi) trơi nhà trơi cựa (cửa)
Mi (mày) nỏ (khơng) dịm ngó thì thơi
Rọng (ruộng) tau có kẻ xin rồi
Tru (trâu) mi bựa ni (hơm nay) tau lấy
Bị mi bựa rày (hơm nay) tau lấy” (Hát giặm), v.v..
Tính chất cổ của ngơn từ ví giặm cịn được thể hiện ở hàng loạt từ láy phương ngữ Nghệ
Tĩnh như lọng khọng (rất cao), lộ mộ (thưa thớt), xóng nóng (nấn ná), trăn triu (keo cú),
khăn khắn (lo lắng), hởn hởn (tươi tốt), hoang đàng (lười biếng), thúc thích (từ từ), chờm
chợ (lui tới), thiu thiu (nhỏ bé, rất nhỏ), lúc ngúc (dáng điệu chậm chạp), ngạ nghề (no
say), ngao ngán/ngơ ngẩn (rất nhiều), lật lưởng lật lờ (không chắc chắn),…
Chẳng hạn: Mới đến chơi một bựa (bữa)

Cơm rượu thịt ngạ nghề (no say)
Cho cái bánh cắp về
Tưởng rứa (thế) là đã chợm (sướng), (Hát giặm)
Hay: Trúc xinh trúc mọc trên đời
15


Măng non hởn hởn (tươi tốt, non tơ) đợi người tài hoa (Hát ví), v.v..
Có thể nói, các từ láy địa phương là những điểm nhấn ngữ nghĩa cho các câu ví giặm.
2.2.2. Đa dạng cách xưng hơ trong hát ví, hát dặm.
Trong giao tiếp hàng ngày, người Nghệ dùng giọng Nghệ, nghĩa là dùng một loại vỏ
ngữ âm kèm theo giá trị ngữ nghĩa hoàn toàn khác biệt so với các vùng địa phương khác.
Do đó, phương ngữ Nghệ Tĩnh có một vốn từ ngữ “rặt” địa phương. Những “đặc sản”
địa phương này xuất hiện dày đặc trong ví giặm, trở thành những phương tiện biểu đạt
đặc hữu, tạo được ấn tượng sâu sắc ở người tiếp nhận. Khảo sát văn bản ví giặm, dễ
dàng nhận ra lớp từ đắc dụng nhất là từ xưng hô. Người Nghệ dùng từ xưng hô và cách
xưng hô hết sức đa dạng, độc đáo. Cách xưng hồ bằng từ ngữ địa phương như các từ tui
(tôi), tau (tao) , mi (mày), choa (chúng tơi/ bọn tao), mềnh/mèng (mình), hấn (hắn), bay/
bây (bọn mày)… được sử dụng rất linh hoạt, đa dạng với số lần sử dụng rất nhiều. Chẳng
hạn như trong một câu hát giặm:
“ Hết răng (sao) thì choa chịu
Hết gia tài choa chịu
Choa mà bắt bay chịu
Choa không phải con ngài (người)”
Với bài hát giặm này, choa dùng ở ngôi thứ nhất, số nhiều. Trong giao tiếp, choa thường
tương ứng với bay/ bây. Còn nữa, người Nghệ dùng từ đơn tiết này để cấu tạo các từ khác
dựa trên một cơ cấu ngữ nghĩa nhất định như bầy choa, bọn choa, nhà choa, v.v.. Những
từ này lại được dùng để ứng đáp nhằm bày tỏ một thái độ quyết liệt:
Bầy choa ăn đọi (bát) cơm
Như đơm một đọi máu

Máu chi tanh tưởi máu ơi
Mồ cha quân cướp nước, sướng đời khơng bay (Hát giặm)
Cách dùng từ xưng hơ trong ví giặm như kiểu này là dẫn cứ chứng tỏ người Nghệ quen
chịu đựng gian khổ nhưng không chịu nhục, và trong cái gan góc có cái bướng bỉnh,
trong cái trung thực có cái thơ bạo, trong cái mưu trí có cái liều lĩnh (Đinh Gia Khánh,
1995), hay chính là tính gàn Nghệ Tĩnh như nhiều người nhận xét.
Trong ví giặm, lớp từ chỉ cách xưng gọi trong quan hệ họ tộc, gia đình như ơng, bà, cha,
mẹ, chú, bác, cụ (cậu), mự (mợ), dì, o (cơ), anh, ả (chị), em, v.v. cũng xuất hiện có tần
số cao. Trong các từ này, từ mự là độc đáo hơn cả. Trong ví giặm, từ mự dùng để xưng
16


hô với các vai sau đây: 1/ vợ chú, tương đương với thím (Bắc bộ); 2/ vợ cụ (cậu), tương
đương với mợ (Bắc bộ); 3/ người phụ nữ đã có tuổi (khoảng 40 đến 50); 4/ chỉ người
con gái.
Chẳng hạn: Trốc cúi bằng ống giang
Lạ lung chi hỡi mự (Hát giặm), từ “mự” ở đây chỉ người phụ nữ đã có tuổi.
Hay: Trước mự nói mự thương
Cau tui (tơi) dành để trong buồng
Trù tui dành để ngoài nương
Lợn ụt ịt trong chuồng
Tiền buộc chạc (dây) trong rương
Chõng đục sẵn trong buồng
Giừ mự nói khơng thương
… Chứ bạc tình chi rứa (thế) mự
Chi bạc tình rứa mự (Hát giặm)
Từ “mự” ở đây lại để chỉ người con gái phản bội lời giao ước. Vì trong một số gia đình
Nghệ, con cái hiếm muộn gọi bố mẹ là cụ mự (cậu mợ) nên cách xưng hô mự (chỉ người
con gái) trong bài hát giặm trên là biểu thị tình cảm thực sự gần gũi, thân thiết tưởng
như chắc chắn nhưng kết cục lại không như mong muốn.

2.2.3. Sự phong phú trong ngôn ngữ Nghệ được thể hiện qua cách chơi chữ vừa
độc đáo vừa mang tính bác học.
Chơi chữ là cách sử dụng từ ngữ độc đáo với ý nghĩa có thể ẩn dụ, nhân hóa, đã kích
hay châm biếm sự việc, sự vật. Đây là biện pháp thường xuất hiện trong ca dao, tục ngữ,
thành ngữ hoặc thơ ca và trong dân ca ví dặm Nghệ Tĩnh lối chơi chữ này được thể hiện
một cách khác biệt ngoài cách sử dụng từ tồn dân để chơi chứ thì người Nghệ cịn biết
lồng ghép thêm từ địa phương vào lỗ chơi chữ trong dân ca ví dặm. Đó cũng chính là
một nét đặc sắc trong thể loại dân ca Nghệ Tĩnh khó có thể lẫm với thể loại dân ca của
vùng miền khác.
Một kiểu của hình thức chơi chữ là đố chữ - một kiểu chơi chữ được dùng rất phổ
biến trong hát đối đáp nam - nữ trong Hát phường vải. Tác giả dân gian có thể dựa vào
một kết cấu đã có sẵn khai thác hình thức của nó để nói tới một điều bất ngờ khác. Ví
dụ, tác giả đã sử dụng từ già để nói đến độ tuổi của trăng mà thơng thường đó là từ để
17


chỉ độ tuổi con người hay để chỉ một sự chín muồi, việc tác giả đã dựa vào nghĩa tách
rời của từng yếu tố cấu tạo nên từ ghép, việc chia tách các yếu tố thành một trường liên
tưởng gồm các từ chỉ giai đoạn phát triển của sự vật, tạo nên sự bất ngờ thú vị:
Hỏi:

Trăng bao nhiêu tuổi trăng già
Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non.

Đáp:

Trăng ba mươi tuổi trăng già,
Thanh sơn bất lão gọi là núi non

Hay ở một ví dụ khác, tác giả sử dựa vào từ mặt trời, và xem "mặt" như là bộ phận "cơ

thể" của trời để hỏi - đố về một từ khác theo kiểu kết hợp tương tự:
Em muốn hỏi bạn một lời
Mặt trời ở đó trốc (đầu) trời ở mơ?

đố đ



ữ đượ







Ngồi cách sử dụng lối chơi chữ trong hát đối đáp thì một lối chơi chữ khác
thường gặp đó là chơi chữ đồng âm bằng cách sử dụng yếu tố địa phương đối lập với
nhau hoặc với yếu tố tồn dân khác trong dịng để nói tới yếu tố thứ hai nào đó ngược
nghĩa với yếu tố ấy. Chẳng hạn: Chào chàng một tiếng chào chung/ Những ai đó hạ mà
đơng rứa hè. Câu hát phường vải này có hai từ địa phương: hạ, biến âm của “hả”, rứa
hè, tương ứng với “thế à” trong tiếng Việt toàn dân. Vì có yếu tố hè (được hiểu là mùa
hè) nên hạ vừa như “hả” (trong tiếng Việt), vừa là hạ trong mùa hạ.
Hay một ví dụ khác trong hát phường vải lối chơi chữ được thể hiện như sau:
Cây đứng giữa đất trời gọi cây độ (đỗ)
Cây đứng một chộ (chỗ) nói cây trơi
Chàng mà đối được chàng lơi em về.
18



Trong phương ngữ Nghệ Tĩnh, “độ” (cây đỗ) là danh từ chỉ cây “đậu”, nhưng “độ” còn
là động từ tương ứng nghĩa với “đậu”, chỉ trạng thái đứng yên một chỗ. “Cây trơi” vừa
có thể hiểu là "cây bị trơi", lại vừa được dùng để chỉ một loại cây mà ở Nghệ Tĩnh có
vùng gọi là "cây trơi", nhưng có nơi lại gọi là “cây xoài” hoặc "cây quéo".
Tương tự trong câu: Con ngựa chạy giữa đàng gọi là con ngựa cất
Con cá bán trửa chợ gọi là con cá thu
Chàng mà đối được thiếp mần du mẹ thầy.
Trong tiếng Nghệ từ “ thu” có nghĩa là “cất/ giấu” điều này tạo ra tình liên kết, tính bất
ngờ đối với câu trên.
Gần với kiểu chơi chữ đồng âm, khai thác các yếu tố ngược nghĩa như trên, tác
giả dân gian Nghệ Tĩnh cịn dùng hình thức phối hợp giữa từ đồng âm với đồng nghĩa.
Mục đích của cách chơi chữ này, ngoài việc thể hiện nội dung ngữ nghĩa theo mạch cảm
xúc, các từ ngữ được lựa chọn còn phải tập hợp tạo thành những trường nghĩa chỉ sự vật
nhất định. Ở những câu như thế này lời ca vẫn hồn nhiên, tình tứ song người nghe phải
tinh ý mới hiểu hết ý nghĩa của câu từ mà tác giả thể hiện. Ví dụ như câu:
Đồng tâm son sắt với nhau,
Thiếp chưa phụ bạc, chàng sao vội vàng.
Ở trong câu này có tên các kim loại hoặc á kim (nửa kim loại) như: đồng, son, sắt, bạc,
vàng.
Hay ở một câu khác trong đoạn đối đáp giữa nam và nữ trong hát ví phường vải:
Nữ:

O Xuân đi chợ Hạ
Mua cá Thu về, chợ hãy cịn Đơng
Trai nam nhi đối được, gái má hồng xin theo.

Nam: Anh ở bên Nam sang bán hàng thuốc Bắc
Chữa bệnh Đơng phịng cho cơ gái miền Tây
Ông tơ bà nguyệt nhủ anh sang đây gặp nàng.
Trong lời đối đáp này phía người nữ đưa ra một loạt từ thuộc trường từ ngữ chỉ về mùa

xuân, hạ, thu, đơng thì ở phía dưới người nam đáp lại với những từ chỉ về phương hướng
đông, tây, nam, bắc. Cách chơi chữ này cho ta thấy được sự linh hoạt, thông minh của
con người xứ Nghệ.
19


Xin đưa thêm một một ví dụ khác:
Lương duyên chỉ Tấn, tơ Tần,
Liệu đường định sở Châu Trần tùy cơ.
Cả hai câu có 18 chữ mà có đến bảy từ ngữ chỉ tên các nước trong thời Xuân Thu và các
vương triều bên Trung Quốc Lương, Tấn, Tần, Đường, Sở, Châu, Trần. Còn "cơ" là chỉ
cố Mền Cơ, người Thịnh Lạc (Nam Đàn) đỗ 3 khoa tú tài. Người nổi tiếng trong làng
hát phường vải.
Cũng có những hình thức chơi chữ rất cơng phu như nói lái - đồng âm - đồng
nghĩa. Chẳng hạn, ở chặng đối đáp, bên nữ hát:
Anh bứt cỏ ngựa ngồi đầu cựa ngọ (ngõ)
Kẻ bắn con nây ngồi cội (gốc) cây non.
Chàng mà đối được thiếp trao chàng một quan.
Trong phát âm, người Nghệ thường sử dụng các biến thể địa phương ở các bộ phận của
âm tiết (thanh điệu, phần vần và âm đầu), do đó, ở câu ví trên, cựa ngọ là tương ứng với
“cửa ngõ”, con nây tương ứng với “con nai”. Và phải dùng cách phát âm địa phương thì
cây non mới là nói lái của con nây; đặc biệt, cựa ngọ là nói lái của cỏ ngựa, dẫn đến:
ngọ vừa tương ứng với “ngõ”, vừa đồng âm với ngọ là “ngựa” (năm ngọ), để có ngựa/
ngọ là một cặp đồng nghĩa. Câu trên, nếu phát âm như tiếng Việt toàn dân: Anh bứt cỏ
ngựa ngồi đầu cửa ngõ/ Kẻ bắn con nai ngồi gốc cai non thì mất hết những bất ngờ, thú
vị. Từ các dẫn cứ về chơi chữ trong ví giặm cho phép ta khẳng định người Nghệ không
thiếu chữ nghĩa. Cách chơi chữ của người Nghệ là chủ ý dùng các chất liệu bình dân, có
sẵn trong ngơn ngữ địa phương để qua đó bộc lộ trí thơng minh, tính un bác của mình.
Hay thêm một ví dụ khác:
Con cá đối nằm trên cối đá

Con mèo cụt nằm tận mút kèo
Trai thanh tân đà đối đặng, tiền cheo mơ mà?
Cách chơi chữ nói lái này được thực hiện bằng cách hoán vị vần giữa các âm tiết với
nhau âm đầu, thanh điệu thường giữ nguyên vị trí. Kiểu nói lái này thường được dùng
chủ yếu trong ví phường vải (nơi đây thường được các bậc nho sĩ tham gia như đại thi
hào Nguyễn Du, chí sĩ Phan Bội Châu… tham gia để vui chơi kết nối bạn bè cũng như
là dịp để thử thách tài năng đối đáp giữa nam và nữ) tuy nhiên từ địa phương được dùng
trong hình thức chơi chữ này khơng nhiều bằng từ toàn dân.
20


Một lối chơi chữ nữa ta thường bắt gặp trong thơ ca dân gian Nghệ Tĩnh đó là dựa theo
cấu trúc chữ hán hoặc lồng ghép yếu tố Hán Việt vào lời ca.
Chẳng hạn: Chờ em nửa tháng ni rồi
Ôm đàn bán nguyệt dựa ngồi cung trăng.
Bán nguyệt là nửa tháng, bán nguyệt là đàn bán nguyệt mà nguyệt có nghĩa là trăng.
Tương tự: Hai ngang ba phết chữ chi,
Chàng mà giải được thiếp thì theo ngay?
Chàng trai đáp:
Hai ngang ba phết chữ "thất",
Thất là mất, mất nước mất nhà,
Dân sầu dân thảm từ ngày Tây qua đến giừ.
3. Bảo tồn và phát huy “ đặc sản” xứ Nghệ.
3.1 Bảo tồn.
Dân ca ví dặm là một đặc sản văn hóa là món ăn tinh thần khơng thể thiếu của
người dân vùng Nghệ Tĩnh. Vào tháng 11/ 2014 dân ca ví, dặm Nghệ Tĩnh tự hào được
UNESCO vinh danh là văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Chính vì thế mà chính
quyền hai tỉnh Nghệ An – Hà Tĩnh đã triển khai nhiều biện pháp để bảo tồn và phát huy
các giá trị di sản này.
Trước tiên, ta cần phải bảo tồn các làn điệu gốc. Bởi đặc tính của dân ca ví, dặm

xưa kia là được lưu truyền bằng hình thức truyền miệng, chính vì thế mà các làn điệu
dân ca cổ khơng ít thì nhiều cũng bị biến thể đi phần nào đó. Để làm được điều đó cần
phải đi tìm hiểu, thu thập các làn điệu dân ca ấy ở các huyện, xã, xóm của hai tỉnh Nghệ
An và Hà Tĩnh. Trên thực tế, điều này đã được Sở Văn hóa Thể thao và Du lich – Trung
tâm Bảo tồn và Phát huy dân ca xứ Nghệ thực hiện và được in trong cuốn “Tuyển tập
dân ca xứ Nghệ”.
Bên cạnh đó, cần phối hợp với sở Giáo dục thực hiện chương trình đưa dân ca ví
dặm Nghệ Tĩnh vào trường học với giáo trình cụ thể dạy hát dân ca, trong đó tập trung
vào dân ca Ví, Giặm. Ngày nay, xã hội ngày càng phát triển mạnh mẽ về mọi mặt, trong
đó có cơng nghệ thông tin và các phương tiện truyền thông đại chúng, không những ảnh
hưởng dân ca các vùng, miền khác nhau mà còn ảnh hưởng các trào lưu âm nhạc mới
trong nước và quốc tế. Những ca khúc nhạc trẻ với vũ điệu sơi động, nóng bỏng sẽ dễ
21


dàng lơi cuốn thế hệ trẻ hơn. Vì thế, việc trao truyền, “thắp lửa” tình yêu dân ca cho thế
hệ trẻ, nhất là các em học sinh còn ngồi trên ghế nhà trường càng trở nên quan trọng và
có ý nghĩa hơn bao giờ hết. Từ khi Nghệ An có chủ trương đưa dân ca vào trường học
(1996), học sinh càng có cơ hội được tiếp cận với dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh. Hàng năm,
ngành Giáo dục đều tổ chức các chương trình “Hát dân ca trong trường học” nhằm tạo
sân chơi cho các em thể hiện năng khiếu âm nhạc của mình; qua đó, phát hiện, bồi dưỡng
những học sinh có năng khiếu hát dân ca ví, giặm. Điển hình như tại Hội thi Hát dân ca
trong trường học tỉnh Nghệ An năm 2018, em Nguyễn Hữu Đạt (học sinh lớp 7B, Trường
THCS Kim Liên, huyện Nam Đàn) đã xuất sắc trở thành 1 trong 2 thí sinh giành giải
“Giọng hát triển vọng”. Hay tại Hội thi Liên hoan dân ca Nghệ Tĩnh liên tỉnh lần thứ 4,
em Phạm Nguyễn Mai Uyên (10 tuổi, học sinh lớp 5B, Trường Tiểu học Bến Thủy, TP
Vinh) đã vinh dự đạt giải “Diễn viên nhỏ tuổi trình diễn xuất sắc nhất”…
Ngồi ra cần tiếp tục phát triển nhiều hơn nữa các câu lạc bộ dân ca trong cộng
đồng. Theo thống kê, hiện có 75 nhóm dân ca ví, dặm với trên 1.500 thành viên đang
thực hành và diễn xướng tại 168 làng ở Nghệ An và 92 làng ở Hà Tĩnh (năm 2012).

Ngày này, riêng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh đã thành lập khoảng 98 CLB Dân ca Ví dặm.
Hệ thống các câu lạc bộ đàn và hát dân ca ở cơ sở được thành lập đã tạo nên một mạng
lưới hát dân ca rộng khắp từ tỉnh đến các cơ sở, trở thành một trong những “cái nôi” lưu
giữ hồn Dân ca Ví, Giặm xứ Nghệ. Hầu hết các CLB sinh hoạt đều đặn, nhiệt tình, say
mê. Nhiều nghệ nhân đã tuổi cao sức yếu nhưng vẫn tham gia CLB, truyền dạy hát dân
ca cho các thế hệ trẻ và tham gia biểu diễn phục vụ dân ca cho các hoạt động văn hoá
văn nghệ trên địa bàn dân cư.
3.2.

Phát huy.

Phát huy bằng hình thức “ bình cũ rượu mới” nghĩa là từ những làn điệu gốc ta viết
lại lời mới bằng nhiều hình thức phong phú khác nhau để cho các câu lạc bộ biểu diễn.
Chẳng hạn một số tác phẩm tiêu biểu được viết lại bằng hình thức này như: Trước lúc
lên đường, Thần sấm ngã, Dâng Người câu ví làng Sen, Đẹp lắm q mình, Xứ Nghệ
quê tôi…Phương cách này đã thịnh hành trong hàng chục năm qua.
Xây dựng thêm nhiều các chương trình giao lưu văn nghệ, đồng thời tiếp tục duy
trì các cuộc liên hoan hội diễn định kì từ cơ sở phường xã, trường học cho đến huyện
tỉnh và liên tỉnh. Nếu các chương trình này được tổ chức tốt sẽ kích thích các “ hạt nhân”
văn nghệ hăng hái tham gia hoạt động, như vậy vừa mở rộng được đề tài phản ánh hiện

22


thực vừa nâng cao tính nghệ thuật mà vẫn giữ được cái hồn cốt dân tộc và được cơng
chúng đón nhận nhiều hơn.



ư


ă





ĩ Đ











Phổ biến và giới thiệu rộng rãi về dân ca xứ Nghệ nói chung và dân ca ví dặm nói
riêng qua những trang Web, báo đài... Đây là việc làm hết sức cần thiết và cấp bách để
phổ biến, giới thiệu dân ca Ví, Dặm đến với nhân dân trên địa bàn toàn tỉnh, trong nước
và quốc tế. Một trong những điều kiện tiên quyết để thế giới biết đến dân ca Ví, Dặm xứ
Nghệ; để mọi người dân Việt Nam đều có thể được thưởng thức dân ca; phát huy tối đa
khả năng quảng bá dân ca qua phương tiện công nghệ thông tin.

23


TỔNG KẾT.

Ngôn ngữ là nét đặc trưng riêng của một đất nước, của một tộc người, là nơi lưu
giữ và thể hiện rõ nét văn hóa của dân tộc đó. Thơng qua ngơn ngữ ta có thể biết được,
phân biệt được các tộc người với nhau. Có thể coi ngơn ngữ là cầu nối, phương tiện mở
rộng, giao lưu, trao đổi về văn hóa giữa các cộng đồng người khác nhau. Điều này không
chỉ phản ánh qua ngôn ngữ từng dân tộc, cộng đồng mà ngay cả từng khu vực, các vùng
văn hóa khác nhau hay các phương ngữ khác nhau. Và phương ngữ nó cũng là đại diện
cho nét đặc trưng văn hóa của một vùng miền nhất định.
Qua việc phân tích, tìm hiểu ngơn ngữ trong dân ca ví, dặm Nghệ Tĩnh ta có thể
thấy được yếu tố ngữ âm và từ địa phương có vai trị rất đặc biệt trong việc tạo nên nét
đặc trưng riêng biệt của dân ca Nghệ Tĩnh nó làm cho dân ca xứ Nghệ không bị trộn lẫn
với các thể loại dân ca khác. Các yếu tố ngữ âm cũng như từ địa phương được sử dụng
trong dân ca xứ Nghệ bắt nguồn do cách phát âm cũng như do thói cách dùng từ trong
cuộc sống lao động, sinh hoạt thường ngày. Do đó, khi được đưa vào trong dân ca nó
vừa đem lại cảm giác gần gũi, hồn nhiên, thân quen vừa mang tính nghệ thuật dân gian
trong đó.
Từ ngữ địa phương trong các sáng tác ví, giặm Nghệ Tĩnh có số lượng lớn, tần số
cao lại được tổ chức mang tính nghệ thuật theo những cách thức và mục đích khác nhau,
khơng những tạo cho dân ca Nghệ Tĩnh có dáng vẻ riêng, mang tính biểu cảm và đặc
trưng địa phương mà cịn đóng vai trị quan trọng về nội dung và nghệ thuật lời thơ dân
ca. Từ địa phương Nghệ Tĩnh đã đóng vai trị quan trọng vừa góp phần phản ánh một
cách khá toàn diện hiện thực phong phú cuộc sống của nhân dân lao động Nghệ Tĩnh,
nhất là những vấn đề quan trọng thuộc về hoặc liên quan thiết yếu đến con người, vừa
đóng vai trị như một yếu tố sáng tạo nghệ thuật trong tổ chức của các sáng tác dân gian.
Từ ngữ địa phương đã thể hiện rõ vai trị của mình trong việc thể hiện những sắc thái
nghĩa, sắc thái biểu cảm tinh tế, phản ánh rõ phần nào đó đặc điểm ngữ nghĩa của vốn
từ địa phương thông qua cách chơi chữ thông minh, linh hoạt cũng như sự đa dạng trong
cách xưng hơ trong hát ví, hát dặm của người dân xứ Nghệ.
Giá trị của ví, dặm khơng giới hạn ở sự đặc sắc, độc đáo của một loại hình dân ca
mà cịn là sản phẩm văn hóa tinh thần của người xứ Nghệ. Chính vì thế nó cần được bảo
tồn và phát huy để dân ca Nghệ Tĩnh luôn sống mãi đến tận mai sau

Tóm lại, ngơn ngữ, đó khơng chỉ là một hệ thống thanh âm kí hiệu, là phương tiện
phục vụ giao tiếp của con người mà còn phản ánh rõ nét văn hóa, lịch sử của mỗi một
quốc gia dân tộc cũng như của vùng, miền, địa phương. Chính bởi thế tình u đất nước,
xứ sở ln gắn với u và giữ gìn tiếng nói, chữ viết q hương mình. Phải chăng cũng
bởi vậy mà ví giặm in sâu vào lòng mỗi người con đất Nghệ hơn- Khi mà từng âm vực,
24


×