Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH TRONG TANG LỄ TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI BÌNH DÂN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (690.22 KB, 23 trang )

ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH TRONG TANG LỄ TRUYỀN
THỐNG CỦA NGƯỜI BÌNH DÂN VIỆT NAM


MỤC LỤC
PHẦN TỔNG QUAN………………………………………………………………tr3
I. Lý do chọn đề tài…………………………………………….………............tr3
II. Mục đích nghiên cứu đề tài…………………………………………………tr3
III. Đối tượng nghiên cứu……………………………………………………..tr3
IV. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………….……tr3
V. Dự kiến những kết quả sau khi nghiên cứu………………………………...tr3
PHẦN NỘI DUNG………………………………………………………………….tr4
CHƯƠNG I: Cơ sở lý luận và thực tiễn………………………………………..tr4
CHƯƠNG II: Triết lý âm dương……………………………………………....tr5
A. Nguồn gốc hình thành triết lý âm dương………………………….....tr5
B. Nội dung triết lý âm dương....…………………………………..…....tr5
C. Đặc điểm của triết lý Âm dương…………………………………..…tr6
D. Hướng phát triển và các mơ hình trong triết lý âm dương……….….tr6
E. Âm dương ngũ hành…………………………………………...…….tr7
CHƯƠNG III: Tang lễ truyền thống của người dân Việt Nam………………...tr9
A. Tang lễ truyền thống…………………………………………………tr9
B. Âm dương, Ngũ hành trong tang lễ…………………………………tr12
CHƯƠNG IV: Những hủ tục đã được bãi bỏ…………………………………tr17
A. Hủ tục hú hồn trước khi nhập quan………………………….……..tr17
B. Những lễ nghi cầu kì kéo dài thời gian tang ma……………………tr17
CHƯƠNG V: Những điều được giữ lại…………………………………........tr19
A. Các lễ cúng tuần, cúng 49 ngày, cúng 100 ngày……………………tr19
B. Lễ trừ phục…………………………………………………………tr19
C. Tục đốt vàng mã……………………………………………………tr19
D. Thái độ khi dự đám tang hoặc thấy đám tang………………………tr20
1




CHƯƠNG VI: Tổng kết……………………………………………………...tr21
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………..tr22

2


PHẦN TỔNG QUAN
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Tìm hiểu thêm vể triết lý Âm dương, Ngũ hành ảnh hưởng đến đời sống tinh
thần, đời sống xã hội của người bình dân Việt Nam ra sao, thể hiện rõ qua tang lễ truyền
thống của người dân Việt Nam.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Tang lễ trong thời đại hiện nay đã được rút gọn và giảm bớt những hình thức xưa
cũ những điều khơng cịn phù hợp song vẫn được giữ lại những hình thức cơ bản.
Việc nghiên cứu này giúp tìm hiểu thêm về tang lễ truyền thống, triết lý Âm
dương, Ngũ hành ảnh hưởng như thế nào đến cuộc sống tinh thần, cuộc sống xã hội của
người dân ngày xưa và người dân hiện nay.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Tang lễ truyền thống của người bình dân Việt Nam từ lúc động quan đến lúc an
tang và tang lễ hiện nay.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tang lễ truyền thống đến nay đã khơng cịn phổ biến nên việc nghiên cứu tang lễ
này được thực hiện qua sách vở, internet tham khảo thêm các nguồn bên ngoài; so sánh
với tang lễ hiện nay.
Phương pháp tiếp cận hệ thống
Phương pháp phân tích, tổng hợp
Phương pháp so sánh
V. DỰ KIẾN NHỮNG KẾT QUẢ SAU KHI NGHIÊN CỨU

Hiểu biết thêm về truyền thống văn hóa của người xưa.
Nhận thức được triết lý Âm dương, Ngũ hành đã ảnh hưởng sâu đến cộng đồng
người dân Việt Nam.
Tìm hiểu được những hủ tục lạc hậu đã được loại bỏ bớt tạo ra tang lễ hiện nay.
-------------------------------------------------------------------------------------------

3


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
Khu vực Đơng Á: khơng được định hình nhất quán do có sự biến đổi theo thời
gian nhưng ngày nay khi nghiên cứu về Đơng phương học thì khu vực Đơng Á được
dùng để chỉ khu vực phía Đông châu Á gồm Đông Á, Đông Bắc Á và Đông Nam Á.
Từ đây tôi giới hạn trong phạm vi bốn quốc gia là các nước Trung Quốc, Nhật Bản,
Hàn Quốc, Việt Nam nên kể từ đây khi nhắc đến Đơng Á thì được hiểu là nằm trong
phạm vi của bốn quốc gia trên.
Triết lý Âm dương: được đúc kết qua quá trình quan sát vận động của tự nhiên
và xã hội theo tư duy lưỡng phân qua nhiều thế hệ, thuộc nhiều tầng lớp nhân dân. Triết
lý Âm dương khơng có tác giả truyền qua nhiều đời và có tính hệ thống, được lưu truyền
đa dạng bằng nhiều hình thức, cách biện luận Âm dương ứng dụng vào rất nhiều lĩnh
vực của đời sống. Triết lý Âm dương đặc biệt được cả tầng lớp thống trị và bị trị chấp
nhận và ứng dụng vào nhiều lĩnh vực của đời sống như y học, võ thuật, hội họa, kiến
trúc… trong suốt hàng chục thế kỉ, dưới sự cai trị của các triều đại phong kiến khác
nhau. Đến nay mặc cho hệ tư tưởng phong kiến đã tàn lụi ở các nước Đông Á nhưng
triết lý Âm dương với phạm vi rộng lớn vẫn ln có chỗ đứng ổn định trong đời sống
xã hội và trở thành nguyên lý bất dịch trong một số lĩnh vực.
Việc nghiên cứu triết lý Âm dương trong phạm vi bốn nước Trung Quốc, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Việt Nam sẽ trở nên dễ dàng hơn do Trung Quốc trong suốt thời đại
phong kiến đóng vai trị là một “đại quốc” đã giúp triết lý này trở thành hệ thống và với

ảnh hưởng của mình lên các nước xung quanh đã giúp truyền bá rộng rãi. Với những
nước khác trong khu vực triết lý Âm Dương đã trở thành cơ sở tư duy cho tầng lớp
phong kiến, từ đó lan tỏa ra khắp các tầng lớp xã hội. Điều này vơ hình chung làm cho
văn hóa các nước Đơng Á có cùng “mẫu số chung” triết học.
Thực tế rằng ở các nước Đơng Á có rất nhiều lĩnh vực ảnh hưởng bởi triết lý Âm
dương. Dễ dàng nhận thấy rằng trong ẩm thực hàng ngày hay các trang phục, y phục
truyền thống đều có sự ảnh hưởng. Hay trong âm nhạc cung đình và cả âm nhạc dân
gian các nước Đông Á đều dựa vào thang âm ngũ cung, lấy nguyên lý Âm dương làm
nền tảng.
-------------------------------------------------------------------------------------------

4


CHƯƠNG II: TRIẾT LÝ ÂM DƯƠNG
A. NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH TRIẾT LÝ ÂM DƯƠNG
Trái đất quay xung quanh trục của chính nó hình thành ngày và đêm. Hai khối
khí lạnh luân phiên tác động đến khu vực Đông Á (khối khí lạnh từ cao áp Siberi tràn
xuống phía Nam hoạt động từ khoảng tháng 10 đến hết tháng 5 và khối khí lạnh từ vịnh
Bengan thổi ngược lên theo hướng Tây Nam-Đông Bắc từ tháng 5 đến tháng 9) đã làm
cho khí hậu trong khu vực này thay đổi có quy luật. Mặt khác do điều kiện vị trí địa lý
tự nhiên khu vực Đông Á chịu sự tác động trực tiếp của khí hậu nhiệt đới, cận nhiệt mà
hệ quả của nó là nhiều vùng áp thấp xuất hiện gây mưa bão. Trong bối cảnh đó với việc
chuyển đổi liên tục qua lại giữa ngày-đêm, sáng-tối, nóng-lạnh trong tự nhiên đã góp
phần hình thành nên tư duy lưỡng phân đối lập của cư dân nơi đây. Quá trình nhận thức
theo hướng quan sát thực nghiệm về các mặt đối lập giữa các sự vật, hiện tượng đã từng
bước hình thành triết lý Âm dương.
B. NỘI DUNG TRIẾT LÝ ÂM DƯƠNG
Triết lý Âm dương bắt đầu từ nhận thức về sự đối lập vốn có trong các sự vật
hiện tượng. Các dạng thức đối lập phổ biến gồm:

- Đối lập giữa các sự vật, hiện tượng: ngày >< đêm, sáng><tối, nóng>- Đối lập ngay trong chính sự vật, hiện tượng: trong><ngoài, trước>trái>Các mặt này tuy đối lập với nhau nhưng không loại trừ lẫn nhau mà cùng song
song tồn tại (bình hành), nương tựa nhau (hỗ căn), chuyển hóa cho nhau theo quy luật
Âm trưởng thì Dương tiêu, và ngược lại Dương trưởng thì Âm tiêu (tiêu trưởng). Các
quan hệ: đối lập, bình hành, hỗ căn, tiêu trưởng thể hiện tính biện chứng của triết lý Âm
dương.
Với việc Âm dương ln chuyển động liên tục tuần hồn, vận động chuyển hóa
nhau trong một thể thống nhất do đó đồ hình Âm dương được biểu diễn như sau:

5


Đồ hình Âm dương
Nguồn: />C. ĐẶC ĐIỂM CỦA TRIẾT LÝ ÂM DƯƠNG
Tương quan giữa âm và dương: Âm dương là hai mặt thống nhất giống như hai
mặt của một đồng xu không thể cũngg xuất hiện nhưng lại luôn cung tồn tại khơng thể
có âm mà lại khơng có dương. Nếu như chỉ có một mặt âm hoặc dương thì sự vật, hiện
tượng sẽ bị tiêu tán đi. Triết lý Âm dương cho rằng nếu như mọi vật trong thế giới này
chi có dương thì sẽ bị đốt cháy cịn nếu chỉ có âm thì sẽ bị tiêu diệt.
Tỉ lệ giữa âm và dương: Tỉ lệ giữa âm và dương được xác định là 3/2, theo đó
phần dương lớn hơn phần âm. Chính sự chệnh lệch này tạo ra động lực thúc đẩy cho sự
vận động và chuyển hóa của các sự vật, hiện tượng.
Vận động của Âm dương: Âm dương đối lập nhưng không triệt tiêu lẫn nhau trái
lại chúng cùng song song tồn tại, cùng chuyển hóa cho nhau theo hướng vận động trên
trục cân bằng.
Xác định thuộc tính âm dương của các sự vật hiện tượng.
D. HƯỚNG PHÁT TRIỂN VÀ CÁC MƠ HÌNH TRONG TRIẾT LÝ ÂM
DƯƠNG

Triết lý Âm dương không dừng lại ở bốn khái niệm: đối lập, bình hành, hỗ căn,
tiêu trưởng, về sau, người Đơng Á phát triển nó thành hai hướng biện luận rõ rệt:
- Hướng phát triển Âm Dương Bát Quái.
- Hướng phát triển Âm Dương Ngũ Hành (chúng ta sẽ tìm hiểu kĩ hơn hướng
phát triển này).
6


E. ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH
Mơ hình phát triển:
Hỗn mang > Âm Dương > Tam Tài > Ngũ Hành > Vạn vật

`

Tam Tài gồm Thiên, Địa, Nhân đó là ba nguyên lực của sự sống.
Ngũ Hành gồm Mộc, Kim, Thổ, Thủy, Hỏa đó là năm nhóm các sự vật hiện
tượng ln vận động.
Các mối quan hệ trong Ngũ Hành:
- Quan hệ tương sinh:
• Thủy sinh Mộc
• Mộc sinh Hỏa
• Hỏa sinh Thổ
• Thổ sinh Kim
• Kim sinh Thủy
- Quan hệ tương khắc:
• Thủy khắc Hỏa
• Hỏa khắc Kim
• Kim khắc Mộc
• Mộc khắc Thổ
• Thổ khắc Thủy


Quan hệ tương sinh, tương khắc trong Ngũ hành (mũi tên đen là sinh, đỏ là khắc)
Nguồn: />7


- Quan hệ tương sinh, tương khắc là quan hệ bình thường trong Ngũ hành.
Quan hệ tương thừa, tương vũ, chế hóa là những quan hệ khác thường trong
Ngũ hành.
• Quan hệ tương thừa: Hành này khắc hành kia quá mạnh, khi
đó quan hệ Tương khắc biến thành quan hệ Tương thừa.
• Quan hệ tương vũ: Hành này khơng khắc được hành kia (mà
trong lẽ thường là hành khắc), lúc này quan hệ Tương khắc
trở thành quan hệ Tương vũ.
• Quan hệ chế hóa: Khi xuất hiện sự bất thường thì Ngũ hành
tự xuất hiện quan hệ chế hóa. Chế hóa là khấu trọng yếu của
Ngũ hành. Chế hóa lập lại trạng thái tự nhiên của quan hệ
sinh, khăc khi có hiện tượng thái quá hay bất cập trong Ngũ
hành.
-------------------------------------------------------------------------------------------

8


CHƯƠNG III: TANG LỄ TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI DÂN
VIỆT NAM
A.TANG LỄ TRUYỀN THỐNG
Tang lễ truyền thống được tiến hành qua nhiều giai đoạn từ lúc người đó qua đời cho
đến khi hạ thổ hoặc hỏa táng, nghi thức sau đám tang nhu cúng giỗ.
1. CHUẨN BỊ CHO TANG LỄ:
Sau khi người đã mất ra đi, trong lúc này con cháu, người thân trong gia đình sẽ

phải tắm gội sạch sẽ cho người mất bằng nước lá thơm hoặc rượu sau đó cắt móng chân
móng tay. Móng chân, móng tay sẽ khơng vứt đi mà đem gói lại cho cẩn thận đặt vào
quan tài. Sau đó thay bộ quần áo trắng đã được chuẩn bị từ trước, với ngừoi đã quy phật
thì mặc bộ quần áo có in dấu của nhà Phật gọi là lục phù. Sau đó buộc hai ngón chân
cái của người mất lại với nhau, hai tay để lên bụng, bỏ vào miệng người mất một ít gạo
sống và một ít tiền lẻ dùng một chiếc đũa ăn cơm hàng ngày để ngáng miệng người chết
sau đó phủ lên mặt một tờ giấy hoặc một mảnh vải trắng. Sau đó bng màn rồi thắp
một ngọn đèn dầu hoặc một ngọn nến ở đầu giường, từ lúc này con cháu phải thay nhau
túc trực khơng để chó, mèo hoặc chuột nhảy qua.
Theo dân gian thì khi mèo nhảy qua sẽ làm cho hồn nhập lại vào xác, ngừoi chết
sẽ ngồi dậy khi đó người nhà phải tìm một thầy cúng cao tay đến để làm lễ, niệm thần
chú thì xác người mới nằm xuống được. Lúc này cứ để người chết nằm đấy và báo cho
họ hàng xa gần biết và xem giờ lành để làm lễ khâm liệm. Những đồ tiếp xúc với người
chết hàng ngày như quần áo, giày, dép, giường, chiếu lúc này phải đem thả trơi sơng
hoặc đốt hết đi. Với người chết khơng có bệnh tật thì một số đồ dùng tốt được con cháu
sử dụng lại vì họ quan niệm dùng đồ đó sẽ được phù hộ. Đặc biệt là khi người già đang
hấp hối thì con cháu khơng được khóc tránh để nước mắt rơi vào thi hài vì như vậy
người chết ra đi sẽ không thanh thản.
2. LẬP BÀN THỜ VONG
Trong lúc chờ được khâm liệm người ta thường phải lập bàn thờ vong. Bàn thờ
vong thường có nải chuối, bưởi, hoa quả theo mùa, ảnh bài vị người đã khuất và được
kết hoa cầu kì nhằm tỏ lịng thương tiếc đến người đã khuất.
3. KHÂM LIỆM
Sau khi kèn trống được nổi một hồi dài thì người ta bắt đầu tiến hành khâm liệm.
Người khâm liệm bỏ khăn che mặt và đũa ngáng miệng ra sau đó người ta dùng vải
trắng gói người chết lại, gáy được gối lên hai chiếc bát úp. Phong tục không thể thiếu
9


là bỏ một bộ chắn vào quan tài để khử trùng và để che chở cho người mất. Đối với

người mất mắc bệnh thì người ta cho trà vào quan tài để hút ẩm và khử mùi.

4. NHẬP QUAN
Nhập quan là đưa thi hài vào quan tài, thầy cúng thắp hương khấn vái rồi làm thủ
tục phát mộc dùng dao chặt vào bốn góc của quan tài nhằm đuổi bọn mà quỷ và mộc
tinh. Con cháu mặc tang phục đứng hai bên, họ hàng từ từ nâng nhẹ thi hài đặt vào quan
tài.
5. GỌI HỒN
Thầy cúng làm lễ gọi hồn thường thì cầm áo người chết ra sân hoặc ngồi đường
quay vế bốn hướng: Đông, Tây, Nam, Bắc đàn ông thì gọi “ba hồn bảy vía”, đàn bà thì
gọi “ba hồn chín vía” về nhập quan. Xong bỏ áo người chết vào quan tài coi như họ đã
về nhập quan. Người ta quan niệm rằng khi người chết đi thì hồn vía sẽ đi lang thang
khắp khơng trung nên phải làm lễ này và khấn để trình báo lên thiên đình là trần gian
có người quy tiên để ghi vào sổ thiên tào.
6. LỄ PHÁT TANG
Chủ lễ làm lễ phát tang, số khăn tang, mũ mấn được chuẩn bị đủ với số con cháu
đặt vào một chiếc mâm trên hương án. Trong lúc làm lễ thì con cháu phải chắp tay quỳ
khấn ở dưới, sau khi lễ xong thì con trưởng sẽ phát khăn, áo cho mọi người, khăn tang
của người vắng mặt thì để lại trên mâm. Con trai, con gái, cháu, chắt được phát khăn
mặc và chít vào đầy đủ, con rể thì chỉ chít khăn khơng phải đội mũ.
Cách thức để tang cũng có quy định rõ ràng: Tang cha mẹ thì thắt khăn sổ mối,
hai dải khăn dài ngắn khác nhau nếu bố, mẹ của hai bên có người cịn sống và bằng
nhau nếu đã mất hết; vợ để tang chồng cũng chít khăn sổ mối, một dải dài, một dải ngắn
nhưng chồng để tang vợ thì chỉ quấn vịng trịn quanh đầu, cháu quấn khăn trắng quanh
đầu thành vịng trịn, chắt thì khăn vàng và chút quấn khăn đỏ. Trong suốt thời gian
đám tang, luôn có con cháu túc trực cạnh quan tài hờ khóc.
7. PHÚNG VIẾNG
Sau khi phát tang họ hàng thân thiết đến phúng trước lúc này các con luôn túc
trực đứng cạnh bàn thờ vong để đáp nghĩa. Thường thì họ hàng sẽ phúng hương hoa,
xơi gà cịn hàng xóm bạn bè thì phúng hương với phong bì.

8. TẾ VONG
Buổi tối khi phúng viếng đã vãn khách, phường hiếu làm lễ tế vong. Người nhà
chuẩn bị mâm cơm rượu thịt đầy đủ để dâng lên bàn thờ vong.
10


9. QUAY CỮU
Đúng 12 giờ đêm người ta làm lễ quay cữu, linh cữu được quay theo chiều ngang
của ngôi nhà đầu quay về phía bàn thờ chân quay ra ngồi cửa.
10.TẾ CƠM
Sáng hơm sau người nhà chuẩn bị bát cơm, quả trứng, một đĩa muối, một chén
nước lã lần lượt dâng từng thứ lên bàn thờ vong.
11. CẤT ĐÁM
Đến giờ đưa tang chủ lễ đọc điếu văn sau đó dùng đinh đóng nắp ván thiên lại
quan tài được mọi người hàng xóm đưa lên xe tang. Lúc này con trưởng có lời cảm hơn
cơ quan, hàng xóm đã có mặt chia buồn cùng gia đình.
Suốt quá trình đưa người mất ra nghĩa trang cờ, trướng đi trước linh cữu đi sau,
con cái đi sau linh cữu kèn trống được đánh liên hồi, và vừa đi vừa rải vàng mã tiền lẻ
từ nhà đến nghĩa trang.
12. HẠ HUYỆT HOẶC HỎA THIÊU
Huyệt được chuẩn bị từ chiều hôm trước, khi quan tài cho xuống huyệt thì con
trai sẽ lấp miếng đất đầu tiên, sau đó các con các cháu mỗi người lấp một miếng thể
hiện tình cảm, ý nghĩa đắp mộ cho cha mẹ. Ở trên có các đội tụng kinh, xong xi thì
ra về tuyệt đối khơng đi theo đường lúc đi và con cái khơng được khóc nữa vì như vậy
là hồn người mất sẽ khó mà siêu thốt.
13. RƯỚC VONG VỀ THỜ
Sau khi an táng xong ảnh của người mất được rước về nhà để thờ trên bàn thờ
vong, bàn thờ ln có hương khói, đèn nhang hàng ngày gia chủ ăn gì thì cúng thứ đấy.
14. NGHI THỨC SAU ĐÁM TANG
- Cúng tuần

- Cúng 49 ngày
- Cúng 100 ngày

11


B. ÂM DƯƠNG, NGŨ HÀNH TRONG TANG LỄ
1.AN TÁNG
Âm dương, Ngũ hành thể hiện trong tang lễ truyền thống người bình dân Việt
Nam ro ràng nhất ở việc chơn cất người đã khuất. Dù việc sử dụng hình thức địa táng
hay hỏa táng thì trong tâm trí người Đơng Ávẫn ln cố gắng tìm chỗ cho hợp phong
thủy.
Thổ táng (địa táng) là hình thức táng người chết trong đất. Địa táng người Việt
và người Hoa có nét tương đồng, thường chọn chỗ đất tốt theo phong thủy Đông Á.
Theo quan niệm người Đơng Á thì “âm sao dương vậy” và “sống cái nhà, thác cái mồ”
nên nơi chôn cất người chết cũng hội đủ các yếu tố phong thủy như nơi ở của người
sống. Ngôi mộ là nơi trú ngụ của người thân khi từ biệt cõi trần do đó cũng cần đạt
những tiêu chí về mặt phong thủy. Giới bình dân có nhiều dạng địa táng khác nhau, tùy
theo kết cấu địa chất của từng vùng. Khu nghĩa trang của các làng xã cũng ít nhiều chịu
sự chi phối của thuật phong thuỷ truyền thống.
Hoả táng là hình thức thiêu xác người chết, sau đó xử lý phần tro cốt theo tập tục
của từng nơi, từng dân tộc. Hoả táng phổ biến trong cộng đồng người Ấn Độ theo Bà
la môn giáo và đồng bào Khơ me ở Việt Nam. Ngày nay, đồng bào Chăm theo Bà la
môn giáo có tập tục chơn cất người chết sau vài năm mới tiến hành thiêu phần xương
cốt.
Quan niệm về phong thủy: người Đông Á tin rằng khi người chết được nằm trong
đất thì phần xương cốt vẫn cịn ảnh hưởng đến các thế hệ con cháu. Sự ảnh hưởng tích
cực hay tiêu cực là do phần xương cốt đó được nằm trong “cuộc” đất mà người nhà
đem đi táng. Nếu táng vào chỗ đất đạt các chuẩn về phong thuỷ thì con cháu sẽ nhận
được những may mắn và thuận lợi trong quá trình học hành, thi cử, làm ăn... Đối với

vua chúa, nếu táng đúng thế đất hội đủ Ngũ Hành thì con cháu mới có thể phát “vưọng”,
dịng dõi phát đế vương, đời đời kế vị ngai vua.
Theo đó, huyệt mộ phải đặt đúng vào vị trí huyệt của thế đất tốt. Nếu huyệt mộ
ở vào thế đất xấu thì sẽ gây ra những ảnh hưởng tiêu cực cho các thế hệ nối tiếp. Vấn
đề huyệt mộ xấu hay tốt được luận theo nguyên lý Âm dương, Ngũ hành, tương tự như
tìm thế đất tốt để làm nơi cư ngụ của người sống. Huyệt mộ tốt thường dựa theo hình
sơng thế núi. Những nơi có hình sơng thế núi tương tự thì có những huyệt mộ xấu hoặc
tốt tương tự nhau. Hình sơng thế núi vùng Bắc Bộ và Trung Bộ Việt Nam, tương tự
vùng Nam Trung Hoa, vì vậy, nhiều “thầy thuỷ” Việt Nam và Trung Hoa có cách tìm
huyệt mộ giống nhau. Nam Bộ, nhất là Tây Nam Bộ, có kết cấu địa chất khác nên các
“thầy thuỷ” không thể áp dụng thuật phong thuỷ truyền thống vào đây được. Vì vậy
quan niệm về huyệt mộ trong địa táng Tây Nam Bộ có nét khác với địa táng Trung Bộ
12


và Bắc Bộ. Do huyệt trường dài (quy chiếu theo sông Cửu Long) nên huyệt vị ở vùng
Nam Bộ trải trên diện tích rộng lớn. Do đặc điểm cụ thể của lịch sử khai hoang khẩn
đất kết hợp địa hình thực tế, địa táng Tây Nam Bộ không chú ý nhiều nguyên lý huyệt
mộ theo Âm Dương Ngũ Hành. Điều này có thể chứng minh bằng hiện tượng cư dân
Tây Nam Bộ mai táng người thân ngay trong mảnh vườn, mảnh ruộng của nhà mình
mà ít quan tâm đến ý kiến của các “thầy thuỷ” Việt Nam và Trung Hoa.
2.ỨNG XỬ TRONG TANG MA
Những tục lệ thông thường trong tang ma người Việt:

















Lập di ngôn (di chúc)
Đặt tên thụy
Ghi nhớ ngày tắt thở
Mộc dục (tắm gội)
Phạn hàm
Hạ tịch
Bỏ tiền gạo vào miệng người chết
Đặt đầu quan tài hướng ra ngoài
Mặc tang phục theo tơn ti
Đưa tang theo hình thức “cha đưa, mẹ đón”
Kiêng đưa linh cữu đi nhanh
Cha mẹ kiêng đưa tang con
Rắc giấy tiền vàng trên đường đưa tang
Lễ cũng thổ thần trước khi chơn
Gia đình có tang kiêng đi chúc Tết

Mộc dục (tắm gội) cho người vừa chết thường vừa để sẵn một con dao nhỏ, một
vuông vải (khăn), một cái lược, một cái thìa, một ít đất ở ông đồ rau, một nối nước ngũ
vị hương và một nồi nước nóng khác. Lúc tắm, vây màn cho kín, tang chủ quỳ xuống
khóc, người hộ việc cũng quỳ rồi cáo từ rằng; "nay xin tắm gội để sạch bụi trần", xong
phục xuống, đứng dậy. Cha thì con trai vào tắm, mẹ thì con gái vào tắm. Lấy vng vải

dấp vào ngũ vị, lau mặt, lau mình cho sạch rồi lấy lược chải tóc lấy sợi vải buộc tóc,
lấy khăn khác lau hai tay hai chân, lại lấy dao cắt móng tay móng chân,mặc quần áo
cho chỉnh. Móng tay móng chân gói lại trên để trên, dưới để dưới, để vào trong quan
tài; dao, lược thìa và nước đem đi chôn; rước thi thể đặt lên giường.
Phạn hàn theo tục xưa, bỏ gạo và tiền vào miệng tránh tà ma ác quỷ đến cướp
đoạt, để tiễn vong hồn đi đường xa được siêu thoát. Theo "Thọ mai gia lễ", lễ này được
tiến hành như sau:
13


Lấy ít gạo nếp xát cho sạch, ba đồng tiền mài cho sáng (nhà giàu thì dùng vàng
hoặc viên ngọc trai).
Tang chủ vào khóc quỳ, người chấp sự cũng quỳ, cáo từ rằng: "Nay xin phạn
hàn, phục duy hâm nạp". Người chấp sự lần lượt xướng "Sơ phạn hàm, tái phạn hàm,
tam phạn hàm". Tang chủ ba lần, mỗi lần xúc một ít gạo và một đồng tiền tra vào mồm
bên phải, rồi đến bên trái, cuối cùng vào giữa. Xong bóp mồm lại, phủ mặt như cũ.
Vào lúc khâm liệm các con vào, con trai bên trái, con gái bên phải. Người chấp
sự xướng. Tự lập (đứng gần vào), cử ai (khóc cả lên), quỳ. Chấp sự cũng quỳ mà cáo
từ rằng "Nay được giờ lành, xin rước nhập quan". "Cẩn cáo" xong lại xướng: phủ phục
(lễ xuống), hưng (dậy), bình thân (đứng thẳng).
Sau đó các con cháu tránh ra hai bên, người giúp việc quay và đều cầm tạ quan
nâng lên để đưa người vào cho êm ái, đặt cho chính giữa quan tài, nếu có hở chỗ nào
cần lấy áo cũ của người vừa mất bổ khuyết cho đầy đủ, rồi gấp dưới lên đầu trước, bên
trái gấp trước, bên phải gấp sau, trên đầu gấp sau cùng, sơn nẹp đóng lại. Chú ý: Những
quần áo của người đang sống, hoặc quần áo mà người đang sống có mặc chung thì
kiêng khơng được bỏ vào áo quan.
Đồ khâm liệm: nhà giàu dùng vóc nhiễu, tơ, lụa; nhà thường dùng vải trắng may
làm đại liệm (1 mảnh dọc, 5 mảnh ngang) hoặc tiểu liệm (1 mảnh dọc 3 mảnh ngang).
Ngày trước, quy định đại liệm hay tiểu liệm vì khổ vải nhỏ.
"Tục ta nhiều người tin theo thầy phong thủy, trong quan tài thường có mảnh ván

đục sao Bắc Đẩu thất tinh. Trước khi nhập quan thường chọn giờ, tránh tuổi rồi dùng
bùa nọ bùa kia dán ở trong, ngồi quan tài. Có người cho là chết phải giờ xấu thì bỏ cỗ
bài tổ tơm hoặc quyển lịch hoặc tàu lá gồi để trấn át ma quỷ".
Tục lệ tang ma của một số dân tộc khác: Dân tộc Khmer có tục thiêu xác sau khi
chết, dân tộc Chăm gần đây có tục thiêu sau khi đã chơn một thời gian (khoảng 3 năm),
các dân tộc ở Tây Nguyên có lễ bỏ mả (sau khi chơn ở nhà mồ vài năm)…
Ngồi ra cịn có tục đưa người chết nằm xuống chiếc chiếu trải dưới đất: Tục này
phát sinh từ kinh nghiệm thực tế trong cơ thể người chết còn có điện trường sinh học,
làm như vậy khả năng tích điện âm trong cơ thể người chết mới được giải thốt, đó là
một phương thuật phịng xa hiện tượng "Quỷ nhập tràng". “Quỷ nhập tràng” là hiện
tượng xác chết tự nhiên bật dậy là do sự cuốn hút bởi một ngoại lực có cảm ứng điện
trường. Vì vậy theo quan niệm dân gian, khi trong nhà có người mới chết kiêng cự nhất
là không để cho con mèo bất thần nhảy qua xác chết (người ta phải canh giữ, phải nhốt
mèo lại). Đã có trường hợp, chén rượu hắt văng vào xác chết, giọt nước mắt có hơi ấm
nhỏ vào xác chết cũng tạo thành luồng khí, có thể cuốn hút xác chết bật dậy nhưng ngã
14


xuống ngay tức thì. Hiện tượng xác chết đuổi theo người sống: Xác chết không thể bước
đi được mà do hơi nóng của người sống cuốn hút, hoặc trường hợp có luồng khơng khí
đối lưu cân bằng khi xác chết ở tư thế đứng song song với người sống. Việc dỡ ngói
hay tranh trên mái nhà để ánh sáng mặt trời trực tiếp rọi vào cũng nhằm triệt tiêu hiện
tượng cuốn hút đó.
Đặc điểm văn hố ứng xử trong tang ma truyền thống:
- Tôn trọng xác và hồn người chết.
- Thể hiện sự tiếc thương của người sống đối với người chết (kéo dài thời gian
lưu giữ quan tài, khóc kể, nhiều lần cúng sau khi chôn như: cúng mở cửa mả,
cúng tuần, cúng 49 ngày, thời gian để tang 2-3 năm, lưu giữ bàn thờ trong
nhà, cúng giỗ hàng năm và thắp nhang ngày sóc vọng, thăm viếng, làm sạch
cỏ trên mộ… Người Tây Nguyên làm lễ long trọng rồi mới bỏ mả.


Mộ và nghĩa trang ngày nay
Nguồn: />
15


Nhà mồ Tây Nguyên
Nguồn: />
Khâm liệm người đã khuất
Nguồn: />------------------------------------------------------------------------------------------16


CHƯƠNG IV: NHỮNG HỦ TỤC ĐÃ ĐƯỢC BÃI BỎ
A. HỦ TỤC HÚ HỒN TRƯỚC KHI NHẬP QUAN
Vì đã từng xuất hiện những trường hợp bị choáng, ngất, bất tỉnh nhân sự mà
tưởng rằng đã qua đời sau đó tỉnh lại khiến hủ túc này được ra đời. Người ta dùng mọi
thủ thuật để kích thích thì hồi tỉnh, trong đó có thuật hú hồn hú vía. Cũng có trường hợp
đã tắt thở, tưởng là đã chết rồi nhưng sau một thời gian bỗng nhiên sống lại. Do đó với
một hy vọng dù mỏng manh, người sống tiếc thương muốn cứu vãn... nên cầm chiếc áo
quần của người đã tắt thở, leo lên mái nhà chỗ cao nhất hú "Ba hồn bảy vía ơng" hoặc
"Ba hồn chín vía bà" về nhập xác. Hú ba lần khơng được thì cũng đành lịng chịu khâm
liệm mà tin rằng như vậy hồn đỡ vất vưởng, biết tìm đường về nhà (Khâm liệm xong
vẫn chưa nỡ đóng chốt áo quan). Đây là một phong tục chủ yếu để thoả mãn tâm linh.
B. NHỮNG LỄ NGHI CẦU KÌ PHỨC TẠP KÉO DÀI THỜI GIAN TANG MA
Thời xưa, có những nhà giàu sang để năm bảy hơm trong nhà, chờ con cháu về
đông đủ, để họ hàng, làng xã, hàng tổng hàng huyện đến phúng viếng; để dựng rạp
trước sân, dựng nhà trạm dọc đường từ nhà đến mộ để chuẩn bị mọi thứ khí tế và cỗ
bàn thết đãi linh đình; để thày cúng chọn ngày, thầy địa lý chọn đất an táng, phân kim
lập hướng hẳn hoi. Có nhà cịn sắm đủ trong quan ngồi quách, quàn tạm trong vườn,
vài tháng sau mới làm lễ an táng.

Trong thời gian chưa chơn có "Lễ triêu tịch điện": Buổi sáng dậy bưng khăn lược
vào linh sàng, các con quỳ khóc ba tiếng rồi quấn màn lên cáo từ rằng: "Ngày đã sáng
rồi xin rước linh bạch ra linh toạ". Sau đó rước hồn bạch ra đặt vào ỷ, vắt màn, dọn
chăn gối, chiều tối lại rước linh bạch vào, đắp chăn thả chiếu, màn xuống. Thờ như lúc
sống, chỉ lạy hai lạy (chỉ sau khi an táng, làm lễ thành phâng xong mới lạy bốn lạy theo
nghi lễ người chết).
Các buổi tối trước khi chưa chơn, có "Lễ chúc thực" (Trồng bó đuốc trước sân):
phường bát âm tấu nhạc, con cháu thay nhau túc trực bên linh cữu, trong nhà ngoài sân
đèn đuốc sáng trưng.
Khi thân bằng cố hữu đến phúng điếu, người chủ tang và người chủ phụ đứng
cạnh linh toạ và ngoảnh mặt về phía khách, hễ khách lạy hai lạy thì chủ lễ tạ lại một
lạy. Khách vái cha mẹ mình ba vái thì vái tạ một vái. Trách nhiệm tiếp trầu, nước, cỗ
bàn thuộc về người hộ tang. Nếu có người con trai nào đi vắng chưa kịp về thì để mũ,
khăn xơ và gậy cạnh hương án.

17


Trước khi làm lễ chuyển cữu để chuẩn bị phát dẫn thì áo quan vẫn trở đầu vào
trong, coi như lễ người sống, đọc văn cũng chưa dùng chữ "Hiển thảo" (cha) "Hiển tỷ"
(mẹ) mà con dùng chữ "Cố phụ" (cha), "Cố mẫu" (mẹ)
Trước ngày an táng cịn có thêm tục "Lễ yết cáo tổ tiên", nếu không đưa được
linh cữu, phần lớn các gia đình rước hồn bạch đến nhà thờ họ. Hồn bạch chỉ được đặt
phía trước bàn thờ, để ở dưới, không được đưa lên bàn thờ tổ. Nội dung: Báo cáo với
gia tiên có thân phụ hoặc thân mẫu về chầu tổ. Xong lại rước hồn bạch về nhà mình,
đặt lại trên linh toạ.
Lễ tế ngu: Tục này khơng thống nhất, có nơi tính ba ngày sau khi mất, có nơi
tính ba ngày sau khi chơn. Xét trong điển lễ thì khơng có "lễ ba ngày" mà chỉ có "lễ tế
ngu" gồm có "sơ ngu", "tái ngu", "tam ngu". "ngu" nghĩa là "yên", tức là ba lần tế lễ
cho yên hồn phách, theo "Thọ mai gia lễ" thì khi chơn xong, rước linh vị về đến nhà tế

sơ ngu. Làm sơ ngu xong gặp ngày nhu, (tức là ất, kỷ , tân, quí) làm lế tái ngu, gặp ngày
cương (tức là ngày giáp, bính, mậu, canh, nhâm) làm lễ tam ngu.
Dần dần về sau người ta giảm lược, kiêm cả ba lễ luôn, chỉ làm lễ tam ngu, vì thế
nên gọi là lễ ba ngày. Vậy là tính ba ngày từ sau khi chơn, theo tục gọi là lễ mở cửa mả.
Ngày đó con cháu ra sửa lại mồ mả, đắp cỏ, khơi rãnh thoát nước... Ngu là tế ngu, tế
chỉ tế người chết, tế thần. Theo phong tục cũ thì ít khi chết xong chơn ngay, thường còn
để năm bảy ngày trong nhà. Khi chưa chôn làm lễ triêu tịch điện, tức cúng cơm hàng
ngày vẫn theo lễ thờ người sống. Vậy tế ngu phải tính từ sau khi chơn.
Cịn có một lập luận khác: Có ba điều khơng n khiến phải làm lễ tế ngu:
-Đang sống hoạt động nay mọi hoạt động bỗng nhiên đình chỉ.
-Đang nhìn thấy bóng dáng, khi đã nhập quan khơng nhìn thấy bóng dáng nữa.
-Đang ở trên dương thế, nay xác về cõi âm, hồn vất vưởng lìa khỏi xác. Âm
dương hoàn toàn cách biệt từ sau lễ thành phần. Sơ ngu, tái ngu, tam ngu là tế để làm
cho yên hồn phách, vậy phải tế sau khi mất, sau khi lễ nhập quan và sau khi lễ thành
phần xong.
-------------------------------------------------------------------------------------------

18


CHƯƠNG V: NHỮNG ĐIỀU ĐƯỢC GIỮ LẠI
A. CÁC LỄ CÚNG TUẦN, CÚNG 49 NGÀY, CÚNG 100 NGÀY
Những bữa cơm gia đình ln là khoảnh khắc hạnh phúc, đầm ấm của mọi người
dù cho có người về muộn mọi người cũng cố gắng chờ để được quay quần bên nhau.
Cuộc sống thường nhật đang hạnh phúc, vui vẻ nay có người ra đi mãi khơng trở về do
đó, trước bữa ăn người thân dâng lên bàn thờ một bát cơm úp, một vài món ăn bình
thường, nhà ăn thứ gì cúng thứ đấy, thường là tinh khiết, khơng địi hỏi cầu kỳ, nhà
nghèo thì lưng cơm, đĩa muối cũng xong. Thắp hương xong, dựng đơi đũa vào giữa bát
cơm, có rượu thì rót chén rượu. Khấn vái xong cũng rót chén nước.
Tuỳ từng địa phương, có nơi chỉ cúng 49 ngày (tức là lễ chung thất). Theo thuyết

của Phật giáo: qua 7 lần phán xét, mỗi lần 7 ngày đi qua một điện ở âm ty (tức 1 tuần,
nhưng không phải tuần lễ theo dương lịch); sau 7 tuần vong hồn đã siêu thốt. Có nơi
cúng hết 100 ngày (tức lễ tốt khốc nghĩa là thơi khóc). Theo giải thích của các cụ ngày
xưa thì thời gian này âm hồn vẫn còn phảng phất luẩn quẩn trong nhà chưa đi xa. Hầu
hết ngay nay ở tỉnh đồng bằng các gia đình làm cả hai lễ chung thất và lễ tốt khốc.
B. LỄ TRỪ PHỤC
Sau hai năm chọn một ngày tốt trong vòng ba tháng dư ai, để làm lễ trừ phục.
Trừ phục gồm 3 lễ:
• Lễ sửa mộ: Đắp sửa mộ thành mộ trịn.
• Lễ đàm tế: Cất khăn tang. Huỷ đốt các thứ thuộc phần lễ tang, rước linh vị vào
bàn thờ chính. Bỏ bàn thờ tang, thu cất các bức trướng, câu đối viếng.
• Lễ rước linh vị vào chính điện và yết cáo tổ tiên: Chép sẵn linh vị mới, phủ giấy
hay vải đỏ, khi đàm tế ở bàn thờ tang xong thì đốt linh vị cũ cùng với băng đen
phủ quanh khung ảnh và văn tế. Sau đó rước linh vị, bát hương và chân dung
(nếu có) đưa lên bàn thờ chính, đặt ở hàng dưới. Trường hợp nhà con thứ không
thờ gia tiên bậc cao hơn thì vẫn để ngun bàn thờ như cũ, khơng phải chuyển
bàn thờ mà chỉ cần yết cáo gia thần và yết cáo tổ ở nhà thờ tổ.
C. TỤC ĐỐT VÀNG MÃ
Theo quan niệm của người đời xưa, người chết cũng cần ăn uống, nhà cửa, quần
áo, hút thuốc, ăn trầu, cũng cần tiền xe, cần tiền đi lại và mọi khoản chi dùng như khi
còn sống...
Người chết cũng được chia một phần gia tài. ở Sơn La, Lai Châu, nhiều nơi cịn
dựng các nhà mồ, trong nhà mồ cũng có đầy đủ các nồi đồng, mầm gỗ, ấm đất, bát đĩa,
dao rựa, chăn chiếu quần áo, mũ nón...đủ tiện nghi cho một cá nhân. Người chết cũng
19


được chia cả trâu, lợn, gà, thóc, gạo... Sau ba năm, tang chủ làm lễ khấn vái và ra mồ
xin lại những đồ vật còn dùng được, và súc vật còn sống, kể cả súc vật vừa mới đẻ ra...
Từ việc cúng tế bằng đồ thật, dần dần mới sinh ra lễ đốt vàng mã, tức là thay thế

bằng các đồ vật làm bằng tre, gỗ, rơm, rạ, đất sét hoặc giấy tượng trưng, nhưng kích
thước thu nhỏ lại để người cõi âm mang đi, nhờ có "Phép thiêng biến ít thành nhiều".
áo quần của người chết mặc khi còn sống, để lại nhà mồ sau ba năm mục nát, không
nỡ dùng vào việc khác, người ta đốt đi dần dần sinh ra được thay thế bằng quần áo
giấy. Vì vậy mới có câu tục ngữ "Đi theo ma mặc áo giấy".
D. THÁI ĐỘ KHI DỰ ĐÁM TANG HOẶC THẤY ĐÁM TANG
Dù thân hay sơ, đã đến dự đám tang phải nghiêm túc, biểu lộ lịng thành kính đối
với người đã khuất, tình ưu ái đối với tang quyến. Thật là bất lịch nếu bơ bơ cười nói,
đùa giỡn trong lúc tang chủ đau buồn.
Ở nơng thơn, nhiều nơi cịn tục lệ cỗ bàn ăn uống linh đình trong đám tang, thực
khơng hợp tình, hợp cảnh chút nào. Đành rằng việc ăn uống là không tránh khỏi, nhưng
chỉ nên hạn chế trong số người đến giúp việc và thân nhân ở xa về. Đối với bà con,
làng xóm, khách, bạn thì tang lễ khơng phải là dịp để "Trả nợ miệng". Có vui vẻ gì
trong lúc tang gia bối rối. Nếu như chưa bỏ được thủ tục rượu chè đình đám thì trong
lễ tang, mọi người cũng nên tự kiềm chế mình, giúp được việc gì thì tận tình giúp đỡ,
khơng tiện về nhà ăn cơm thì cũng khơng nên hạch sách, trách móc. Cũng cần lưu ý
các bạn trẻ : Khi đi dự đám tang không nên ăn mặc loè loẹt, hở hang, lố lăng, như vậy
rất không hợp cảnh sẽ gây khó chịu cho nhiều người.
Đi đường gặp đám tang nếu gặp đám tang ngược chiều, không ai bảo ai, dù vội
đến đâu cũng đều xuống xe, kể cả người đi xe máy, xích lơ đều ngả mũ nón, dắt bộ
qua đám tang rồi mới lên xe. Ơ tơ thì chậm lại, khơng bóp cịi. Nếu đi cùng chiều,
khơng tiện xuống xe thì đi chậm lại và ngả mũ.
-------------------------------------------------------------------------------------------

20


CHƯƠNG VI: TỔNG KẾT
Tang lễ truyền thống dù tổ chức cầu kì phức tạp hay tang lễ thời nay được giản
lược bớt những điều khong còn phù hợp nhưng mục đích cuối cùng vẫn là để đưa tiễn

người quá cố về nơi an nghỉ cuối cùng, giảm bớt đau thương cho những người ở lại.
Triết lý Âm dương đã ăn sâu vào tiềm thức cũng như đời sống tinh thần xã hội,
đời sống tâm linh của con người Á Đông nói chung hay người Việt Nam nói riêng, nó
ảnh hưởng từ những điều nhỏ nhặt nhất là ăn uống, ăn mặc, ăn ở đến những kiến thức
hệ thống có bài bản như võ thuật, đến cả nghệ thuật như hội họa, âm nhạc hay cả những
kiến thức khoa học như y thuật… nên việc nghiên cứu về Âm dương Ngũ hành trong
tang lễ truyền thống chỉ là một phần nhỏ nhưng cũng giúp ta hiểu về mức độ phổ biến
cũng như cuộc sống này dù hiện đại thế nào thì những kiến thức về cuộc đời vẫn không
là hết, dù khoa học có tiến bộ thế nào thì vốn ngay tự ban đầu những kiến thức này
cũng đã được ông cha đúc kết và tìm tịi ra bằng cách quan sát cuộc sống qua nhiều thế
kỷ.
Tang lễ ngày nay đã được giảm bớt cho phù hợp với Pháp luật Việt Nam hiện
hành cũng như bảo đảm được yếu tố vệ sinh, bảo vệ mơi trường, tránh gây lãng phí…
song vẫn đủ để khiến người thân con cháu có thể đưa tiễn người đã khuất ra đi thanh
thản và cũng giúp người ở lại bớt phần nào đau buồn

21


Tài liệu tham khảo
1. Trần Long, Triết lý âm dương trong văn hóa truyền thống đơng á
/>2. Trần Long, Văn hóa ứng xử của người bình dân Việt Nam
/>3. Lạc Hồng Viên, Quy trình tổ chức tang lễ truyền thống Việt Nam
/>4. Lịch vạn sự, Phong tục tập quán tang lễ Việt Nam_phần 1
/>
22




×