Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Tải Top 5 bài cảm nhận của em về diễn biến tâm trạng của ông Hai hay chọn lọc - HoaTieu.vn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.62 KB, 6 trang )

1. Dàn ý cảm nhận về nhân vật ông Hai
I. Mở bài
Giới thiệu về truyện ngắn Làng, về nhân vật ơng Hai
II. Thân bài
Tình cảm, tính cách, phẩm chất của Ông Hai được diễn tả chân thật qua mỗi tình huống.
a) Trong bối cảnh sống tản cư xa làng:
– Vì kháng chiến, gia đình ơng Hai phải đi tản cư: ông Hai hăng hái lao động cùng anh em
giữ làng, miễn cưỡng đi cùng vợ.
– Ở nơi tản cư:
+ Ông buồn chán, nhớ làng quê, sinh ra lầm lì cáu gắt.
+ Ơng Hai hay khoe làng: đi đâu ơng cũng kể về làng chợ Dầu của ông,khoe cho thỏa cái
miệng và nỗi nhớ trong lịng, hầu như khơng quan tâm người nghe có hưởng ứng câu chuyện
của mình khơng.
⇒ Khoe làng là cách bản năng nhất thể hiện tình yêu, nỗi nhớ và niềm tự hào về quê hương
của ông Hai.
– Tình yêu Làng gắn liền với yêu nước, yêu cách mạng:
+ Trước cách mạng: ông tự hào khoe làng giàu và đẹp với cái sinh phần của viên tổng đốc
làng.
+ Sau cách mạng: ơng chỉ nói về những buổi tập qn sự, những hào giao thơng,… Ơng
thường đến phịng thông tin nghe lỏm tin kháng chiến, vui mừng với những thắng lợi của
quân và dân ta.
b) Khi nghe tin làng theo giặc.
– Khi nghe được tin: ông sững sờ “lặng đi tưởng như không thể thở được”, lảng tránh khỏi
đám đơng.
– Diễn biến tâm lí giằng xé của ơng Hai:
+ Ông nghi ngờ tin đồn sai sự thật, rồi lại tức giận thầm chửi rủa đám người theo giặc, điểm
lại từng người một trong làng, lo sợ con cái ông cũng bị hắt hủi, khinh bỉ.
+ Ông xấu hổ, sợ hãi không dám ra đường, chỉ ở trong nhà nghe ngóng.
+ Có lúc ơng muốn về làng vì bị người ta hắt hủi, coi khinh. Nhưng ông suy nghĩ: “làng theo
Tây thì phải thù” và chỉ biết trị chuyện với đứa con út để khẳng định: ông luôn tin và trung
thành với cách mạng, với cụ Hồ, quyết không theo giặc.


⇒ Qua diễn biến tâm lí giằng xé của ông Hai, ta nhận thấy tình yêu sâu đậm của ông dành
cho quê hương làng chợ Dầu, đồng thời thấy sự trung thành tuyệt đối với Đảng, cách mạng
và Bác Hồ.
c) Niềm vui của ông Hai khi tin làng theo giặc được cải chính.
+ Ơng phấn khởi đem q về cho các con
+ Ông đi từng nhà, gặp từng người chỉ để nói với họ tin: Tây đốt nhà ơng, làng ơng khơng
theo giặc.
+ Ơng kể cho mọi người nghe về trận chống càn quét ở làng chợ Dầu với niềm tự hào.


⇒ tinh thần u nước của ơng Hai, một tình cảm chân thành của người nông dân chất phác,
một người yêu làng, yêu nước, yêu cách mạng đến độ vui mừng thơng báo nhà mình bị giặc
đốt cháy sạch.
III. Kết bài:
Cảm nhận chung về nhân vật ông Hai và truyện ngắn Làng
2. Cảm nhận diễn biến tâm trạng của ông Hai khi nghe tin làng theo giặc
Kim Lân là một nhà văn có sở trường về truyện ngắn. Các tác phẩm của ông thường viết về
cảnh ngộ của người nông dân và cuộc sống sinh hoạt của làng quê. "Làng" là 1 tác phẩm tiêu
biểu của ông viết về đề tài đó. Truyện được sáng tác năm 1948 - thời kì đầu của cuộc kháng
chiến chống Pháp. Trong truyện ngắn "Làng", nhà văn Kim Lân đã thể hiện 1 cách sinh động
và tinh tế diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai từ khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc đến
khi tin đó được cải chính.
Khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc, ông Hai đau đớn tủi hổ vô cùng. Tác giả đã diễn tả rất
cụ thể diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai trước cái tin dữ đó. Thoạt đầu, nghe được tin đột
ngột từ người đàn bà tản cư nói ra, ơng Hai bàng hồng đến sững sờ. "Cổ họng ông nghẹn
ắng lại, da mặt tê rân rân, ông lão lặng đi tưởng như không thở được". "Ông snh ra nghi ngờ,
cố chưa tin vào cái tin ấy. Nhưng những người tản cư đã kể rành rọt quá làm ông không thể
không tin". Từ lúc ấy, tâm trạng ông Hai bị ám ảnh, ray rứt với mặc cảm là kẻ phản bội. Nghe
tiếng chửi bọn Việt gian, ông cúi gằm mặt xuống mà đi.
Về đến nhà, ơng nằm vật ra giường, tủi thân khi nhìn đàn con. "nước mắt ơng lão cứ giàn ra".

"Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi
đấy ư?" Ông giận lây và trách cứ những người trong làng phản bội. Tủi thân, ông Hai thương
con, thương dân làng chợ Dầu, thương thân mình phải mang tiếng là dân lang Việt gian.
Suốt mấy ngày hôm sau, ông Hai không dám đi đâu, chỉ quanh quẩn ở xó nhà, nghe ngóng
binh tình bên ngồi. Ơng sống trong tâm trạng nơm nớp lo sợ, xấu hổ và nhục nhã. Cứ thoáng
nghe thấy Tây, Việt gian, cam-nhông là ông lại "lủi ra một góc nhà nín thít".
Ơng Hai tiếp tục bị đẩy vào một tình huống thử thách căng thẳng, quyết liệt khi nghe tin mụ
chủ nhà sẽ đuổi hết người làng chợ Dầu ở nơi tản cư. Ông cảm nhận được hết nỗi nhục nhã,
lo sợ vì tuyệt đường sinh sống: "Biết đi đâu bây giờ". Bị đẩy vào đường cùng, tâm trạng ông
Hai vô cùng bế tắc, mâu thuẫn nội tâm được đẩy đến đỉnh điểm. Ông nghĩ hay là quay về
làng nhưng lại hiểu rõ thế là phản bội cách mạng, phản bội Cụ Hồ. Thế rồi ông đã dứt khốt
theo cách của ơng: "Làng thì u thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù". Rõ ràng, tình
yêu nước đã rộng lớn hơn, bao trùm lên tình cảm với làng quê. Nhưng ông vẫn không thể dứt
bỏ được tình cảm với làng. Vì thế mà ơng càng đau xót, tủi hổ.
Trong tâm trạng bị dồn nén và bế tắc ấy, ơng chỉ cịn biết trút nỗi lịng của mình vào những
lời tâm sự với đứa con út. Qua lời tâm sự với con, chúng ta thấy rõ 1 tình cảm sâu nặng và
bền chặt với cái làng chợ Dầu, 1 tấm lòng thủy chung với kháng chiến, với cách mạng của
con người ơng Hai. Tình cảm đó là sâu nặng và thiêng liêng.
Khi nghe tin làng chợ Dầu không theo giặc, ông Hai sung sướng vô cùng. Cái nét mặt buồn
thiu hàng ngày bỗng vui tươi, rạng rỡ hẳn lên. Ơng cịn thay đổi thái độ với các con: mua
bánh rán về chia cho các con. Sau đó ơng chạy đi báo cho mọi người biết cái tin Tây nó đốt
nhà mình rồi. Nhà bị giặc đốt mà ơng khơng buồn khơng tiếc, lại lấy đó là niềm tự hào bởi
đây là bằng chứng duy nhất chứng minh lịng trung thành của gia đình ơng, của làng ông với
kháng chiến. Tình yêu làng của ông Hai luôn gắn chặt với lịng u nước. Ơng biết đặt tình
u nước lên trên tình cảm cá nhân của mình. Phải chăng đó là nét đẹp tỏng con người ơng


Hai nói riêng và những người nơng dân Việt Nam nói chung trong cuộc kháng chiến chống
Pháp.
Nhân vật ơng Hai được khắc họa nhờ những yếu tố nghệ thuật đặc sắc. Diến biến tâm trạng

của nhân vật ông Hai từ khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc đến khi tin đó được cải chính
được miêu tả 1 cách cụ thể, gợi cảm qua ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữ. Ngơn ngữ nhân vật ơng
Hai mang đậm tính khởi ngữ, là lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân, bộc lộ rõ tâm trạng
và thái độ của nhân vật. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật chân thực, sinh động.
Tóm lại, truyện ngắn "Làng" của nhà văm Kim Lân đã diễn tả rất cụ thể diễn biến tâm trạng
nhân vật ông Hai từ khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc đến khi tin đó được cải chính. Qua
diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai, ta thấy được 1 tình yêu làng yêu nước tha thiết gắn với
tinh thần kháng chiến của nhân vật ơng Hai. Ơng Hai chính là hình ảnh tiêu biểu cho người
nơng dân VN trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
3. Diễn biến tâm trạng của ông Hai khi nghe tin làng theo giặc
Khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc, ông Hai đau đớn tủi hổ vô cùng. Tác giả đã diễn tả rất
cụ thể diễn biến tâm trạng nhân vật ơng Hai trước cái tin dữ đó. Thoạt đầu, nghe được tin đột
ngột từ người đàn bà tản cư nói ra, ơng Hai bàng hồng đến sững sờ. "Cổ họng ông nghẹn
ắng lại, da mặt tê rân rân, ông lão lặng đi tưởng như không thở được". "Ông snh ra nghi ngờ,
cố chưa tin vào cái tin ấy. Nhưng những người tản cư đã kể rành rọt quá làm ông không thể
không tin". Từ lúc ấy, tâm trạng ông Hai bị ám ảnh, ray rứt với mặc cảm là kẻ phản bội. Nghe
tiếng chửi bọn Việt gian, ông cúi gằm mặt xuống mà đi. Về đến nhà, ông nằm vật ra giường,
tủi thân khi nhìn đàn con. "nước mắt ơng lão cứ giàn ra". "Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt
gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư?" Ông giận lây và trách cứ
những người trong làng phản bội. Tủi thân, ông Hai thương con, thương dân làng chợ Dầu,
thương thân mình phải mang tiếng là dân lang Việt gian. Suốt mấy ngày hôm sau, ông Hai
không dám đi đâu, chỉ quanh quẩn ở xó nhà, nghe ngóng binh tình bên ngồi. Ơng sống trong
tâm trạng nơm nớp lo sợ, xấu hổ và nhục nhã. Cứ thoáng nghe thấy Tây, Việt gian, camnhơng là ơng lại "lủi ra một góc nhà nín thít". Ơng Hai tiếp tục bị đẩy vào một tình huống thử
thách căng thẳng, quyết liệt khi nghe tin mụ chủ nhà sẽ đuổi hết người làng chợ Dầu ở nơi tản
cư. Ông cảm nhận được hết nỗi nhục nhã, lo sợ vì tuyệt đường sinh sống: "Biết đi đâu bây
giờ". Bị đẩy vào đường cùng, tâm trạng ông Hai vô cùng bế tắc, mâu thuẫn nội tâm được đẩy
đến đỉnh điểm. Ông nghĩ hay là quay về làng nhưng lại hiểu rõ thế là phản bội cách mạng,
phản bội Cụ Hồ. Thế rồi ơng đã dứt khốt theo cách của ơng: "Làng thì u thật nhưng làng
theo Tây mất rồi thì phải thù". Rõ ràng, tình yêu nước đã rộng lớn hơn, bao trùm lên tình cảm
với làng quê. Nhưng ông vẫn không thể dứt bỏ được tình cảm với làng. Vì thế mà ơng càng

đau xót, tủi hổ. Trong tâm trạng bị dồn nén và bế tắc ấy, ơng chỉ cịn biết trút nỗi lịng của
mình vào những lời tâm sự với đứa con út. Qua lời tâm sự với con, chúng ta thấy rõ 1 tình
cảm sâu nặng và bền chặt với cái làng chợ Dầu, 1 tấm lòng thủy chung với kháng chiến, với
cách mạng của con người ơng Hai. Tình cảm đó là sâu nặng và thiêng liêng. Khi nghe tin
làng chợ Dầu không theo giặc, ông Hai sung sướng vô cùng. Cái nét mặt buồn thiu hàng ngày
bỗng vui tươi, rạng rỡ hẳn lên. Ơng cịn thay đổi thái độ với các con: mua bánh rán về chia
cho các con. Sau đó ông chạy đi báo cho mọi người biết cái tin Tây nó đốt nhà mình rồi. Nhà
bị giặc đốt mà ông không buồn không tiếc, lại lấy đó là niềm tự hào bởi đây là bằng chứng
duy nhất chứng minh lịng trung thành của gia đình ơng, của làng ơng với kháng chiến. Tình
u làng của ơng Hai ln gắn chặt với lịng u nước. Ơng biết đặt tình u nước lên trên
tình cảm cá nhân của mình. Phải chăng đó là nét đẹp tỏng con người ơng Hai nói riêng và
những người nơng dân Việt Nam nói chung trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Nhân vật
ông Hai được khắc họa nhờ những yếu tố nghệ thuật đặc sắc. Diến biến tâm trạng của nhân
vật ông Hai từ khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc đến khi tin đó được cải chính được miêu
tả 1 cách cụ thể, gợi cảm qua ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữ. Ngôn ngữ nhân vật ông Hai mang


đậm tính khởi ngữ, là lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân, bộc lộ rõ tâm trạng và thái độ
của nhân vật. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật chân thực, sinh động. Tóm lại, truyện ngắn
"Làng" của nhà văm Kim Lân đã diễn tả rất cụ thể diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai từ
khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc đến khi tin đó được cải chính. Qua diễn biến tâm trạng
nhân vật ông Hai, ta thấy được 1 tình yêu làng yêu nước tha thiết gắn với tinh thần kháng
chiến của nhân vật ơng Hai. Ơng Hai chính là hình ảnh tiêu biểu cho người nơng dân VN
trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
4. Cảm nhận về nhân vật ông Hai - mẫu 1
Ông Hai cũng như bao người nơng dân q từ xưa ln gắn bó với làng q của mình.Ơng
u q và tự hào về làng Chợ Dầu và hay khoe về nó một cách nhiệt tình, hào hứng. Ở nơi
tản cư ông luôn nhớ về làng, theo dõi tin tức kháng chiến và hỏi thăm về Chợ Dầu .
Tình u làng của ơng càng được bộc lộ một cách sâu sắc và cảm động trong hoàn cảnh thử
thách. Kim Lân đã đặt nhân vật vào tình huống gay gắt để bộc lộ chiều sâu tình cảm của nhân

vật. Đó là tin làng chợ Dầu lập tề theo giặc. Từ phịng thơng tin ra, đang phấn chấn, náo nức
vì những tin vui của kháng chiến thì gặp những người tản cư,nghe nhắc đến tên làng, ông Hai
quay phắt lại, lắp bắp hỏi, hy vọng được nghe những tin tốt lành, nào ngờ biết tin dữ: “Cả
làng Việt gian theo Tây “. Tin bất ngờ ấy vừa lọt vào tai đã khiến ơng bàng hồng, đau đớn :
“Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại,da mặt tê rân rân ,ông lão lặng đi tưởng như đến không thở
được, một lúc lâu ông mới rặn è è nuốt một cái gì vướng ở cổ. Ơng cất tiếng hỏi, giọng lạc
hẳn đi “nhằm hy vọng điều vừa nghe không phải là sự thật. Trước lời khẳng định chắc chắn
của những người tản cư,ơng tìm cách lảng về. Tiếng chửi văng vẳng của người đàn bà cho
con bú khiến ông tê tái :”cha mẹ tiên sư nhà chúng nó, đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người
ta còn thương, cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát”.
Về đến nhà ông chán chường “nằm vật ra giường”, nhìn đàn con nước mắt ơng cứ giàn ra ”
chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy
ư?”. Ông căm thù những kẻ theo Tây, phản bội làng, ơng nắm chặt hai tay lại mà rít lên:
“chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để
nhục nhã thế này “. Niềm tin, nỗi ngờ giằng xé trong ơng. Ơng kiểm điểm lại từng người
trong óc, thấy họ đều có tinh thần cả “có đời nào lại cam tâm làm cái điều nhục nhã ấy “. Ơng
đau xót nghĩ đến cảnh “người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán
nước”.Suốt mấy ngày liền ông chẳng dám đi đâu,”chỉ ở nhà nghe ngóng binh tình”, lúc nào
cũng nơm nớp tưởng người ta đang để ý, đang bàn tán đến cái chuyện làng mình. Nỗi ám
ảnh, day dứt, nặng nề biến thành sự sợ hãi thường xun trong ơng. Ơng đau đớn, tủi hổ như
chính ơng là người có lỗi…
Tình thế của ơng càng trở nên bế tắc, tuyệt vọng khi bà chủ nhà có ý đuổi gia đình ơng với lý
do khơng chứa người của làng Việt gian. Trong lúc tưởng tuyệt đường sinh sống ấy,ơng
thống có ý nghĩ quay về làng nhưng rồi lại gạt phắt ngay bởi “về làng tức là bỏ kháng chiến,
bỏ Cụ Hồ là “cam chịu quay trở lại làm nơ lệ cho thằng Tây”.
Tình u làng lúc này đã lớn rộng thành tình yêu nước bởi dẫu tình yêu, niềm tin và tự hào về
làng Dầu có bị lung lay nhưng niềm tin và Cụ Hồ và cuộc kháng chiến khơng hề phai nhạt.
Ơng Hai đã lựa chọn một cách đau đớn và dứt khốt: “Làng thì u thật nhưng làng theo Tây
mất rồi thì phải thù!”. Dù đã xác định thế nhưng ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm của mình
đối với quê hương. Bởì thế mà ông càng xót xa,đau đớn…

Trong tâm trạng bị dồn nén và bế tắc ấy, ơng chỉ cịn biết tìm niềm an ủi trong lời tâm sự với
đứa con trai nhỏ. Nói với con mà thực ra là đang trút nỗi lịng mình. Ơng hỏi con những điều
đã biết trước câu trả lời:”Thế nhà con ở đâu?”, “thế con ủng hộ ai ?”. Lời đứa con vang lên
trong ông thiêng liêng mà giản dị:”Nhà ta ở làng Chợ Dầu”,”ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh mn
năm !”. Những điều ấy ơng đã biết, vẫn muốn cùng con khắc cốt ghi tâm. Ông mong “anh em


đồng chí biết cho bố con ơng, tấm lịng bố con ơng là như thế đấy,có bao giờ dám đơn
sai,chết thì chết có bao giờ dám đơn sai “. Những suy nghĩ của ông như những lời nguyện thề
son sắt. Ông xúc động, nước mắt “chảy ròng ròng trên hai má”. Tấm lịng của ơng với
làng,với nước thật sâu nặng,thiêng liêng. Dẫu cả làng Việt gian thì ơng vẫn một lòng trung
thành với kháng chiến,với Cụ Hồ .
May thay, tin đồn thất thiệt về làng Chợ Dầu được cải chính. Ông Hai sung sướng như được
sống lại. Ông đóng khăn áo chỉnh tề đi với người báo tin và khi trở về “cái mặt buồn thỉu mọi
ngày bỗng tươi vui rạng rỡ hẳn lên “. Ông mua cho con bánh rán đường rồi vội vã,lật đật đi
khoe với mọi người. Đến đâu cũng chỉ mấy câu”Tây nó đốt nhà tơi rồi bác ạ !Đốt sạch !Đốt
nhẵn ! Ông chủ tịch làng tơi vừa mới lên trên này cải chính. Cải chính cái tin làng chợ Dầu
chúng tơi Việt gian theo Tây ấy mà. Láo!Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả.” “Ơng cứ múa
tay lên mà khoe với mọi người”. Ơng khoe nhà mình bị đốt sạch, đốt nhẵn như là minh chứng
khẳng định làng ông không theo giặc. Mất hết cả cơ nghiệp mà ông không hề buồn tiếc, thậm
chí cịn rất sung sướng,hạnh phúc. Bởi lẽ,trong sự cháy rụi ngôi nhà của riêng ông là sự hồi
sinh về danh dự của làng chợ Dầu anh dũng kháng chiến. Đó là một niềm vui kỳ lạ,thể hiện
một cách đau xót và cảm động tình u làng, u nước, tinh thần hy sinh vì cách mạng của
người dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược.
Cách miêu tả chân thực, sinh động, ngôn ngữ đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm đa
dạng, tự nhiên như cuộc sống cùng với những mâu thuẫn căng thẳng, dồn đẩy, bức bối đã góp
phần khơng nhỏ tạo nên thành cơng của câu chuyện, đồng thời cịn thể hiện sự am hiểu và
gắn bó sâu sắc của nhà văn với người nông dân và công cuộc kháng chiến của đất nước.
Qua nhân vật ông Hai ta hiểu thêm về vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam thời kỳ
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược: Yêu làng, yêu nước và gắn bó với kháng chiến.

Có lẽ vì thế mà tác phẩm “Làng ” xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc của
văn học Việt Nam hiện đại.
5. Cảm nhận về nhân vật ông Hai - mẫu 2
Tình yêu làng, yêu nước, yêu quê hương Tổ quốc vốn là một đề tài lớn của nền văn học dân
tộc, văn học yêu nước đặc biệt phát triển trong các giai đoạn có những cuộc đấu tranh cam go
chống lại bước chân xâm lược của kẻ thù. Viết về chủ đề yêu nước, nhà văn Kim Lân trong
tác phẩm truyện ngắn “Làng” đã khắc họa thành công nhân vật ơng Hai. Một người dân hết
lịng trung thành với đất nước cùng sự gắn bó với nơi “chơn rau cắt rốn” của mình.
Ơng Hai là một người u làng, ln tự hào về làng của mình. Trong một dịp tình cờ, ơng
nghe được tin làng chợ Dầu u quý của ông đã trở thành Việt gian theo Pháp, phản bội lại
kháng chiến, phản bội lại Cụ Hồ. Khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc: “Cổ ông lão nghẹn
ắng hẳn lại, mặt tê rân rân. Ông lão lặng hẳn đi, tưởng như không thể được. Một lúc lâu ông
mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ…giọng lạc hẳn đi”. Chỉ một câu văn ngắn gọn, nhà
căn Kim Lân đã cụ thể hóa cái sững sờ, ngạc nhiên cao độ, đến hốt hoảng khi nghe tin đột
ngột. Không ngạc nhiên, sững sờ sao được khi ông luôn yêu quý và tự hào về làng chợ Dầu:
bà con trong xóm, cây lúa ngồi đồng- ai, cái gì cũng tốt cả mà bây giờ cơ sự lại xảy ra đến
mức “Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi”
Về đến nhà nhìn đàn con chơi đùa sậm sụi đáng thương với nhau, ông Hai vật ra giường
“giàn nước mắt”. Đấy là những giọt nước mắt đau đớn, buồn tủi. Ông đau đơn, buồn tủi vì
nghĩ đến sự khinh bỉ, hắt hủi của mọi người. Rồi đây người ta xua đuổi cả những đứa trẻ của
làng Việt gian nữa. Chúng nhỏ bé, đáng thương nào có nỗi gì. Điều đó chẳng đau đớn, xót xa,
buồn khổ lắm sao? Càng nghĩ, ông càng căm giận đến cùng những kẻ bán nước theo giặc để
nhục làng, bôi xấu danh dự của làng, trong đó có ơng. Ơng coi chúng là “chúng bay”, khơng
cùng phường, cùng hội, càng khơng phải giống người! Rít lên trong cuống họng, ông nguyền
rủa: ” Chúng mày ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán


nước nhục nhã thế này”. Ở đây, Kim Lân đã sử dụng ngôn ngữ độc thoại để bộc lộ tâm trạng
nhân vật.
Mường tượng, hình dung đến sự tẩy chay của mọi người, ông không khỏi lo lắng “rồi đây

biết làm ăn buôn bán ra sao? Ai người ta chứa? Ai người ta buôn bán mấy…?” Tâm trạng lo
lắng được ông đẩy lên thành lo sợ. Ông cáu gắt với bà vơ cớ. Ơng trằn trọc thở dài. Ơng bủn
rủn tay chân. Ơng nín thở lắng nghe. Ơng nằm im khơng nhúc nhích. Hóa ra ơng sợ mụ chủ
nhà khó tính, lắm điều biết chuyện sẽ “khơng ra cái gì bây giờ”. Sau đó ơng khơng dám ra
khỏi nhà, khơng đi tới đâu, lúc nào cũng nghĩ đến “chuyện ấy”. Một đám túm lại ơng cũng để
ý. Dăm bẩy tiếng nói cười xa xa ơng cũng chột dạ. Thống nghe những tiếng “Tây”, “cam
nhông”, “Việt gian” là ông lại lủi ra góc nhà, thở dài não nuột: “Thơi, lại chuyện ấy rồi”.
Thông qua hành vi, cảm giác, ý nghĩ của nhân vật, Kim Lân đã diễn tả rất cụ thể nỗi ám ảnh
nặng nề thành sự sợ hãi trong lịng ơng Hai.
Cuối cùng, tâm trạng ông Hai được bộc lộ trong tình huống thử thách căng thẳng, quyết liệt
hơn: Làng chợ Dầu theo giặc thì làng chợ Dầu khơng ai chứa. Ở hồn cảnh này, tâm trạng
của ơng Hai trở nên u ám, tuyệt vọng và bế tắc. Ông Hai đã phải trải qua một cuộc đấu tranh
nội tâm dữ dội, đó là về hay khơng về làng chợ Dầu. Khơng về làng chợ Dầu thì ơng khơng
biết đi đâu, cịn về làng thì ” Về bây giờ là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ”. Cuối cùng, ông Hai đã
quyết định dứt khốt: “Làng thì u thật nhưng làng mà theo Tây thì phải thù”. Quyết định,
tâm trạng và thái độ của ông Hai cho thấy nỗi lo cơm áo dẫu nặng thế nào cũng không đáng
sợ bằng nỗi nhục bán nước, tình yêu làng quê dẫu tha thiết bao nhiêu cũng khơng lớn hơn mà
gắn bó với tình u Tổ quốc.
Khi đích thân ơng chủ tịch xã lên tận chỗ ơng Hai báo lại sự việc: “Hóa ra tồn sai sự mục
đích cả”. Khi ấy, nỗi vui mừng trong lịng ông Hai thật là vô bờ bến. Ông mua quà cho lũ trẻ.
Ơng đi đầu thơn cuối xóm, lăng xăng chạy tới chạy lui, rời nhà này sang nhà kia hả hê loan
báo: “Tây nó đốt nhà tơi rồi. Đốt nhẵn”. Ơng nói về sự mất mát hệt như khi khoe giàu, khoe
đẹp làng mình vì đó là sự cải chính hùng hồn nhất bảo vệ danh dự cho ơng, cho làng chợ
Dầu.
Như vậy, khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc, diễn biến tâm trạng của ông Hai vô cùng phức
tạp, ơng đau khổ, tuyệt vọng sau đó lại đấu tranh dữ dội giữa suy nghĩ về làng hay không về
làng. Nhà văn Kim Lân đã đặt ông Hai vào một tình huống có thể thấy là vơ cùng éo le, tuy
nhiên sau tình huống ấy, tính cách và con người của ông Hai cũng được bộc lộ một cách rõ
nét, trọn vẹn. Ơng đặt tình u nước lên trên hết, dù u q nhưng ơng một lịng trung thành
với đất nước, với cụ Hồ. Qua nhân vật ông Hai, chúng ta cũng thấy, Kim Lân am hiểu sâu sắc

con người, thế giới tinh thần của con người, nhất là người dân quê.



×