Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học CAO cấp lý LUẬN CHÍNH TRỊ vai trò của thế giới quan và phương pháp luận của triết học mác lênin đối với hoạt động quản lý giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.31 KB, 15 trang )

MBTH

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC II

BÀI THU HOẠCH

LỚP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TÊN MƠN HỌC: TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN

TÊN BÀI THU HOẠCH:
VAI TRÒ CỦA THẾ GIỚI QUAN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA TRIẾT
HỌC MÁC - LÊNIN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ GIÁO DỤC

ĐIỂM TRUNG BÌNH CHUNG
Bằng số

Bằng chữ

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021


MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU .....................................................................................................1
1.1. Lý do chọn đề tài : ............................................................................................1
1.2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu : .....................................................................3
1.3. Cấu trúc của tiểu luận: ......................................................................................3
PHẦN II: NỘI DUNG ................................................................................................4
2.1. Thế giới quan và phương pháp luận của triết học Mác - Lênin........................4
2.2. Thực trạng các hoạt động quản lý giáo dục tại nước ta ....................................7


2.3. Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý...............................................8
2.3.1. Nâng cao chất lượng bộ máy tổ chức và đội ngũ nhân lực ........................8
2.3.2. Đổi mới về chương trình, phương pháp đào tạo và tổ chức đào tạo: .........9
2.3.3. Tăng cường quản lý cơ sở vật chất – thiết bị dạy học và nâng cao hiệu
quả sử dụng...........................................................................................................9
2.3.4. Xây dựng các quy chế, quy định trong hoạt động quản lý giáo dục ........10
PHẦN III: KẾT LUẬN .............................................................................................12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................... i


1

PHẦN I: MỞ ĐẦU
Trong đời sống xã hội hiện đại đang có những biến đổi sâu sắc; việc nắm
vững triết học Mác - Lênin giúp chúng ta tự giác trong q trình trau dồi phẩm chất
chính trị, tinh thần và năng lực tư duy sáng tạo của mình, đặc biệt trong hoạt động
quản lý giáo dục nhằm tránh những sai lầm do chủ nghĩa chủ quan và phương pháp
tư duy siêu hình gây ra.
Tuy nhiên, triết học Mác - Lênin khơng phải là đơn thuốc vạn năng có thể
giải quyết mọi vấn đề trong cuộc sống. Bởi vậy trong hoạt động nhận thức và thực
tiễn hoạt động quản lý giáo dục cần tránh cả hai khuynh hướng sai lầm: hoặc xem
thường triết học hoặc là tuyệt đối hóa vai trị của triết học. Nếu xem thường triết
học sẽ rơi vào tình trạng mị mẫm, dễ bằng lịng với những biện pháp cụ thể nhất
thời, dễ mất phương hướng, thiếu chủ động và sáng tạo. Cịn nếu tuyệt đối hóa vai
trị của triết học sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều, áp dụng máy móc những nguyên lý,
quy luật chung mà khơng tính đến tình hình cụ thể trong những trường hợp riêng,
dẫn đến những vấp váp, dễ thất bại.
1.1. Lý do chọn đề tài :
Nếu nghĩ một cách thông thường thì triết học Mác - Lênin khơng có ảnh
hưởng hay liên quan gì đến đời sống chúng ta nhưng thốt ra khỏi những suy nghĩ

ấy, chúng ta tự hỏi "Tại sao ngày xưa khi Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp được Luận
cương Lênin,
Người lại vui mừng reo lên và đọc ngấu nghiến một mình?" và bây giờ Người là
một danh nhân văn hoá thế giới, một con người lỗi lạc. Nói một cách chung nhất,
triết học Mác - Lênin có vai trị định hướng, tạo cho mình một cách nghĩ khác, một
lập trường khác. Đó cũng là lý do tại sao trước khi trở thành một lãnh đạo, một nhà
quản lý của một tập thể, một đất nước, điều đầu tiên là chúng ta phải trải qua các lớp
chính trị.
Phát triển con người là mục tiêu cao cả nhất của toàn nhân loại. Đất nước ta
đang trong thời kỳ tiến lên xây dựng nền kinh tế mở, hội nhập với quốc tế. Tuy
nhiên, việc hội nhập cũng có những mặt tích cực và tiêu cực. Nếu chúng ta tiếp thu
một cách khơng có chọn lọc, khơng có tính tốn, chúng ta dễ bị tiếp thu những cái
không tốt, ảnh hưởng đến đời sống văn hoá của nước ta. Mặt khác, chúng ta còn lo
ngại bị đánh


2
mất truyền thống dân tộc, chạy theo các nước trên thế giới, bị ảnh hưởng hồn tồn
bởi nền văn hố của các nước khác.
Chính vì thế, việc đặt ra những định hướng trong việc hội nhập, tiếp thu
những tinh hoa trong văn hố của các nước một cách có chọn lọc là điều hết sức cần
thiết. Chúng ta cần giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, một mặt để đem những tinh
hoa của mình để giao lưu với các nước, một mặt giúp chúng ta “hoà nhập chứ khơng
hồ tan”. Chúng ta đang sống trong kỷ ngun của kinh tế tri thức, đòi hỏi mỗi con
người phải được đào tạo trình độ học vấn, năng lực; tu dưỡng rèn luyện phẩm chất
đạo đức, ý thức lao động tốt hơn để có thể đáp ứng những yêu cầu của sự biến đổi
khoa học cơng nghệ hết sức nhanh chóng. Những vấn đề trên phụ thuộc rất nhiều
vào những hoạt động quản lý giáo dục của Việt Nam nói chung và của Thành phố
Hồ Chí Minh nói riêng.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước với những mục tiêu dân giàu, nước mạnh,

xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, hiện nay, con người và nguồn nhân lực được
coi là nhân tố quan trọng hàng đầu, quyết định sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền
vững nền kinh tế nước ta. Đó là yếu tố hết sức bức thiết và cần có tính cập nhật, đáp
ứng được u cầu về con người và nguồn nhân lực xét trong nước ta nói riêng và
quốc tế nói chung. Chúng ta khẳng định con người vừa là mục tiêu vừa là động lực
của phát triển kinh tế xã hội đồng thời phải là những con người có tri thức và đạo
đức. Từ đây mỗi con người dần dần về đúng vị trí là một chủ thể sáng tạo ra các giá
trị, bao gồm các giá trị tinh thần và giá trị vật chất, cho bản thân và cho xã hội. Vì
vậy, vấn đề cốt lõi là, ta phải thực hiện chiến lược giáo dục - đào tạo nguồn nhân
lực, phát triển con người một cách tồn diện cả thể lực lẫn trí lực. Nhiệm vụ của
giáo dục
- đào tạo là đưa con người đạt đến những giá trị phù hợp với đặc điểm văn hoá và
những yêu cầu mới đặt ra đối với con người Việt Nam để thực hiện quá trình đổi
mới của nước ta cũng như xu hướng phát triển kinh tế nói chung trên thế giới.
Do nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề con người, đặc biệt là vấn đề
con người trong sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước ta hiện nay, hoạt
động quản lý giáo dục là một hoạt động không thể thiếu, cần phải có tầm nhìn xa,
cần


3
phải có một cái tâm thật sự vì một nền giáo dục phát triển lâu dài – bền vững, cần
phải được nghiên cứu kỹ lưỡng. Chính vì vậy, đề tài tiểu luận được chọn: “Vai trò
của thế giới quan và phương pháp luận của triết học Mác - Lênin đối với hoạt
động quản lý giáo dục”.
1.2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu :
Tìm hiểu về vai trị của thế giới quan và phương pháp luận của triết học Mác
- Lênin đồng thời nghiên cứu thực trạng và nhận xét sự ảnh hưởng của việc vận
dụng triết học Mác - Lênin vào trong hoạt động quản lý giáo dục đồng thời đưa ra
các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác của các hoạt động quản lý giáo dục.

1.3. Cấu trúc của tiểu luận:
Phần 1: Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
1.3. Cấu trúc của tiểu luận
Phần 2: Nội dung
2.1. Thế giới quan và phương pháp luận của triết học Mác – Lênin
2.2. Thực trạng các hoạt động quản lý giáo dục tại nước ta
2.3. Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý
Phần 3: Kết luận


4

PHẦN II: NỘI DUNG
2.1. Thế giới quan và phương pháp luận của triết học Mác - Lênin
Triết học Mác - Lênin mang hai chức năng cơ bản:
+ Chức năng thế giới quan: triết học Mác - Lênin không phải là một niềm
tin như tôn giáo cũng không phải là sự tưởng tượng thần thánh hóa như trong thần
thoại mà nó là tri thức, là sự hiểu biết khái quát về thế giới, là sự giải thích thế giới
trên cơ sở các suy luận lôgic và các căn cứ khoa học thực tiễn. Tri thức triết học
cũng khác với khoa học cụ thể và nghệ thuật. Nó là sự hiểu biết tương đối hồn
chỉnh, có hệ thống về thế giới. Nó cung cấp cho con người bức tranh chung về thế
giới và xác định vai trị, vị trí của con người trong thế giới đó. Chức năng nhận thức
của triết học Mác
- Lênin được thể hiện ở chỗ: Triết học Mác - Lênin đã vạch ra các quy luật chung
nhất của tự nhiên xã hội và tư duy, cung cấp cho ta bức tranh khoa học về thế giới,
nó quyết định thái độ của con người đối với thế giới xung quanh và chỉ đạo hoạt
động thực tiễn, cải tạo thế giới của con người. Nhờ phát hiện ra các quy luật khách
quan của tự nhiên và xã hội, triết học Mác - Lênin đã hướng sự hoạt động của con

người theo đúng sự phát triển của xã hội và do đó thúc đẩy thêm sự phát triển ấy.
+ Chức năng phương pháp luận: triết học Mác - Lênin không chỉ làm nhiệm
vụ giải thích thế giới mà cịn định hướng cho con người trong hoạt động, nếu thiếu
tri thức của triết học thì con người dễ sa vào tình trạng mò mẫm, suy diễn.
Hai chức năng của thế giới quan và phương pháp luận của triết học Mác Lênin giúp cho con người có phương pháp cải tạo thế giới phục vụ nhu cầu của
mình.
Thực tiễn đổi mới ở nước ta những năm qua đã khẳng định vai trò của triết
học Mác - Lênin, khẳng định ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận của nó.
Chủ nghĩa Mác - Lênin trong đó có triết học của nó cho đến nay vẫn là học thuyết
tiến bộ nhất, chưa một học thuyết nào có thể thay thế được, vẫn là nền tảng tư tưởng
và kim chỉ nam cho nhận thức và hành động cách mạng của chúng ta, vẫn là vũ khí
tinh thần của giai cấp vơ sản.
Sự nghiệp đổi mới với tính chất mới mẻ, khó khăn và phức tạp của nó địi hỏi
phải có lý luận khoa học soi sáng. Sự khám phá về lý luận phải trở thành tiền đề và


5
điều kiện cơ bản làm cơ sở cho sự đổi mới trong hoạt động thực tiễn. Phải khắc phục
tình trạng trước đây thường vắng bóng lý luận khi thơng qua những quyết định quan
trọng và do vậy buộc phải ra quyết định trên cơ sở thuần túy kinh nghiệm. Phải tạo
cơ sở thế giới quan khoa học, tạo niềm tin cho cán bộ, Đảng viên trong quá trình đổi
mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa trước những biến động sâu sắc, đầy kịch tính
của thời đại. Muốn vậy cần phải có triết học khoa học, khơng thể đổi mới thành
công nếu thiếu mặt tư duy triết học sâu sắc. Triết học Mác - Lênin chính là cơ sở thế
giới quan và phương pháp luận cho công cuộc đổi mới của chúng ta.
Nếu như chủ nghĩa Mác - Lênin về cơ bản là một khoa học về giải phóng và
phát triển con người và lồi người thì triết học Mác -Lênin là triết lý của sự giải
phóng đó. Triết học là sự phản ánh của thời đại, là sự nắm bắt thời cuộc bằng chiều
sâu tư tưởng. Vì vậy, Ănghen khẳng định rằng một dân tộc muốn đứng vững trên
đỉnh cao lý luận thì phải có triết học. Bởi vì triết học là cơ sở của mọi loại tư duy (tư

duy kinh tế, tư duy chính trị, tư duy văn hóa, tư duy pháp luật...). Triết học theo một
nghĩa nào đó, là khoa học về tư duy, là tư duy về tư duy. Tư duy triết học là chiết
xuất, là tinh túy của tư duy lý luận. Do đó, triết học phải tự đổi mới mình và làm
cơng cụ để đổi mới tư duy nói chung. Với ý nghĩa đó thì trước hết phải đổi mới tư
duy triết học chứ khơng phải là tư duy kinh tế. Nhờ có tư duy triết học mácxit mới
hiểu và phân tích được phép biện chứng của những bước ngoặt, mới nắm bắt và xử
lý đúng đắn những mối quan hệ biện chứng vốn có trong cuộc sống như quan hệ
giữa kinh tế và chính trị, kinh tế và xã hội, kinh tế và tư tưởng và hoạt động quản lý
giáo dục cũng không ngoại lệ: tập trung dân chủ, đổi mới và kế thừa, trung thành và
sáng tạo… Và có như vậy mới khắc phục được bệnh chủ quan duy ý chí, bệnh cực
đoan phiến diện và chủ nghĩa chiết trung.
Thông qua triết học mà tư duy con người được rèn luyện và nâng cao. Theo
Ănghen, năng lực tư duy lý luận chỉ là bẩm sinh dưới dạng khả năng, muốn phát
triển tư duy lý luận phải có điều kiện và sự rèn luyện. Một trong những cách tốt
nhất để rèn luyện năng lực tư duy lý luận, đó chính là nghiên cứu triết học và lịch sử
triết học. Hiện nay với sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên xô và Đông
Âu, chủ nghĩa


6
Mác-Lênin đang đứng trước sự thử thách khắc nghiệt của lịch sử. Không những kế
thừa của chủ nghĩa Mác - Lênin mà có nhiều người mới ngày hơm qua đây cịn được
coi là người mácxít cũng ra sức xun tạc, cơng kích, bác bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin
khơng những lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học, về kinh tế chính trị, mà cả về
triết học, nhất là quan điểm duy vật lịch sử cũng trở thành đối tượng phê phán, phủ
nhận.
Trong tình hình đó việc nắm vững phép biện chứng mácxít lại càng quan trọng vì nó
là vũ khí để đấu tranh tư tưởng, đồng thời là cơng cụ để triết học tự bảo vệ mình và
phát triển mình lên một giai đoạn mới trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI.
Trong những năm qua, như trên đã nói, triết học đã đóng góp vào q trình

đổi mới đất nước. Tuy nhiên điều đó mới là bước đầu và cịn rất hạn chế, cái đã có
và cái cần phải có cịn khoảng cách khá xa. Lý luận triết học vẫn còn xa rời với cuộc
sống, chưa nhạy cảm trước những biến đổi trong nước và trên thế giới. Nhiều vấn
đề triết học do cuộc sống đặt ra chưa có sự giải đáp thỏa đáng, vẫn cịn có những
biểu hiện giáo điều và bảo thủ trong lý luận, hiểu biết về lịch sử triết học và triết học
ngồi mácxít hiện đại cịn ít ỏi, ít có những chun gia giỏi những người uyên bác
trong lĩnh vực triết học... Nguyên nhân tình trạng trên có nhiều. Có phần do điều
kiện lịch sử khách quan, có phần do lãnh đạo, có phần do bản thân các nhà triết học.
Để phát huy mạnh mẽ và có hiệu quả vai trị của triết học vào sự nghiệp đổi mới đặc
biệt trong các hoạt động quản lý giáo dục, cần phải giải quyết các vấn đề sau đây:
- Triết học và thực tiễn: Phải tạo ra một bước ngoặt triết học hướng về thực
tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn và muốn vậy, phải tạo cơ chế liên hệ giữa các nhà
triết học với thực tiễn hoạt động quản lý giáo dục và phải có chế độ, chính sách,
kinh phí thỏa đáng. Người làm cơng tác quản lý giáo dục cần được thơng tin tình
hình trong nước và thế giới kịp thời, khơng vì khó khăn về tài chính mà cắt bỏ sách
báo nước ngồi.
- Triết học và chính trị: Chúng ta đã thấy tác hại của việc đồng nhất triết học
với chính trị, song đây là một mối quan hệ rất phức tạp và tế nhị đòi hỏi phải xử lý
đúng đắn để đảm bảo phát huy tính sáng tạo của người làm triết học theo định
hướng chính trị đúng đắn. Phải có cơ chế dân chủ trong nghiên cứu để cho nhà lý
luận dám


7
nói thật ý nghĩ của mình mà khơng sợ bị "mất an toàn". Phải thật sự tự do tư tưởng
trong nghiên cứu các biện pháp cải tiến, đổi mới các hoạt động quản lý giáo dục vì
khơng có tự do tư tưởng thì khơng có sáng tạo khoa học. Tất nhiên điều đó cũng địi
hỏi người làm các cơng tác này phải có đầy đủ ý thức trách nhiệm cơng dân, ý thức
trách nhiệm của nhà khoa học chân chính, hơn nữa lại là trách nhiệm của nhà triết
học mácxít, nhà quản lý giáo dục.

- Xây dựng đội ngũ: Phải đẩy mạnh việc đào tạo và đào tạo lại cán bộ quản lý
vừa thiếu lại vừa yếu về nhiều phương diện khác nhau. Cần sớm khắc phục hậu quả
của quá trình tuyển chọn, đào tạo và sử dụng cán bộ quản lý giáo dục trước đây,
không nên để kéo dài tình trạng "quá độ” như hiện nay. Phải đi vào chính quy, đi
vào bằng cấp mặc dù khơng nên cường điệu bằng cấp. Phải mạnh dạn tuyển chọn
những người trẻ tuổi nhưng có khả năng tư duy lý luận để đào tạo lâu dài và tạo
thành nòng cốt cho đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục trong tương lai.
2.2. Thực trạng các hoạt động quản lý giáo dục tại nước ta
Triết học Mác - Lênin ra đời đã làm thay đổi mối quan hệ giữa triết học và
khoa học; sự phát triển của khoa học tạo điều kiện cho sự phát triển của triết học.
Ngược lại, triết học Mác - Lênin đem lại thế giới quan và phương pháp luận đúng
đắn cho sự phát triển khoa học.
Ngày nay, khi khoa học - cơng nghệ phát triển mạnh mẽ thì sự gắn bó giữa
triết học Mác - Lênin và khoa học càng trở nên đặc biệt quan trọng. Lý luận triết học
sẽ khô cứng và lạc hậu nếu tách rời các tri thức khoa học chuyên ngành. Ngược lại,
nếu không đứng vững trên lập trường duy vật khoa học và thiếu tư duy biện chứng
thì trước những phát hiện mới, người ta dễ mất phương hướng và đi đến những kết
luận sai lầm về mặt triết học.
Cũng như ở nhiều nước đang phát triển trên thế giới, các nhà nghiên cứu và
quản lý giáo dục nước ta bắt đầu nói nhiều và nghiêm túc đến hiệu quả và chất
lượng giáo dục mới chỉ vài năm gần đây. Trong bối cảnh kinh tế thế giới đang
mang tính cạnh tranh ngày càng cao và với việc Việt Nam gia nhập Tổ chức
thương mại Thế giới (WTO), các cơ sở giáo dục đại học cũng như các cơ sở giáo
dục khác với tư cách


8
là nơi cung cấp dịch vụ đặc biệt cần phải quan tâm nhiều hơn đến hiệu quả. Vấn đề
quản lý các hoạt động giáo dục đang trở thành thách thức và là mối quan tâm hàng
đầu của lý luận và thực tiễn quản lý giáo dục. Mơ hình quản lý kiểu doanh nghiệp,

quản lý nhà trường hiệu quả cần được tính đến cũng như đối với chất lượng hiệu quả
các hoạt động quản lý của nhà trường chỉ có thể được cải thiện thực sự nếu có sự
quan tâm của lãnh đạo cao nhất của nhà trường và sự tham gia tích cực của mọi bộ
phận, cá nhân trong trường.
2.3. Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý
Căn cứ thực trạng trình bày trên, để nâng cao hiệu quả trong hoạt động quản
lý giáo dục, cần thực hiện đồng bộ các biện pháp cơ bản sau:
2.3.1. Nâng cao chất lượng bộ máy tổ chức và đội ngũ nhân lực
Đây là yếu tố đầu tiên quyết định hiệu quả quản lý ở các cơ sở giáo dục. Vì
vậy, đầu tư xây dựng đội ngũ và tổ chức bộ máy là nhiệm vụ chiến lược của nhà
trường.
Từ thực trạng phân tích trên có thể định hướng thực hiện một số nội dung sau:
- Cấu trúc lại, tăng cường đổi mới hoạt động mạng lưới giáo dục - đào tạo đại
học mở.
- Nghiên cứu thực hiện cơ chế phân cấp và tăng cường trách nhiệm của cán
bộ quản lý các cấp; xây dựng các qui trình quản lý từng lĩnh vực cơng việc; ngăn
ngừa tình trạng quan liêu, trì trệ, thiếu hiệu quả do có nhiều tầng bậc trung gian.
Tăng tính tự chủ, sáng tạo của các đơn vị trực thuộc và tổ chức trao đổi học tập kinh
nghiệm quản lý hiệu quả của các trường, các đơn vị trong và ngoài phạm vi quản lý.
- Xây dựng và triển khai dự án tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ quản
lý. Thông qua dự án này tổ chức bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý và phục vụ cập
nhật kiến thức, kỹ năng quản lý hiện đại. Đổi mới phương pháp quản lý giáo dục.
Nghiên cứu áp dụng các hình thức quản lý của các trường đại học tiên tiến nhằm
tăng hiệu suất sử dụng đội ngũ, cơ sở vật chất, thiết bị.
- Triển khai kế hoạch bổ sung giảng viên trẻ, quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ, nâng tỷ lệ giảng viên có học hàm, học vị cao ở các chuyên ngành mũi nhọn và


9
các đơn vị giảng dạy còn yếu (vừa tăng chất lượng giáo dục, vừa giảm chi phí mời

thỉnh giảng). Đào tạo, bồi dưỡng giảng viên một số chương trình có định hướng, để
có thể giảng dạy thay thế giảng viên nước ngoài.
- Khai thác và phát triển đội ngũ trợ giảng từ sinh viên năm cuối và học viên
cao học để hỗ trợ các giảng viên trong việc giảng dạy cũng như nghiên cứu.
2.3.2. Đổi mới về chương trình, phương pháp đào tạo và tổ chức đào tạo:
- Đổi mới nhận thức và tư duy giáo dục - đào tạo theo hướng kiến tạo, phục
vụ - đổi mới toàn diện, xóa bỏ những hạn chế, yếu kém do ảnh hưởng cơ chế xin cho trong mơ hình quản trị đại học truyền thống
- Cần thống nhất quan điểm phương pháp luận cho việc đổi mới chương
trình, phương pháp đào tạo theo hướng tăng cường tính tích cực, sáng tạo của sinh
viên, giảm giờ lên lớp, tăng giờ tự học, tự nghiên cứu của sinh viên. Hiệu suất sử
dụng đội ngũ nhờ vậy sẽ tăng lên cùng với chất lượng đào tạo.
- Tổ chức đào tạo theo học chế tín chỉ một cách triệt để hơn, lưu ý tăng tính
mềm dẻo, linh hoạt của các chương trình đào tạo, xây dựng các chương trình liên
thơng, cải tiến phương thức tổ chức đào tạo, áp dụng mở rộng hình thức đào tạo qua
mạng, đào tạo từ xa, để có thể tận dụng được năng lực đội ngũ và cơ sở vật chất
trong điều kiện hạn chế về số lượng GV.
- Tổ chức thiết kế chương trình đào tạo linh hoạt giữa việc dạy học trực tiếp
và trực tuyến.
2.3.3. Tăng cường quản lý cơ sở vật chất – thiết bị dạy học và nâng cao hiệu
quả sử dụng
- Nghiên cứu, khảo sát mô hình tổ chức các phịng thí nghiệm hiện đại của
một số trường đại học tiên tiến để đầu tư và quản lý khai thác có hiệu quả. Các thiết
bị nhiều ngành có nhu cầu sử dụng cần phải có kế hoạch để các đơn vị cùng khai
thác. Các thiết bị thay đổi cơng nghệ nhanh, cần tính tốn kỹ lưỡng hiệu suất sử
dụng trước khi đầu tư.


10
- Tổ chức cho giảng viên và sinh viên tự thiết kế, lắp đặt các bàn thí nghiệm,
làm các phần mềm dạy học, nhằm phát huy khả năng sáng tạo của họ, đồng thời tiết

kiệm được nguồn kinh phí.
- Triển khai học kỳ hè để khai thác có hiệu quả cao cơ sở vật chất – thiết bị.
Xây dựng các chương trình đào tạo và bồi dưỡng ngắn hạn, để sử dụng được cơ sở
vật chất trong các dịp nghỉ hè. Cải tiến tổ chức lớp học, phối hợp giữa các bộ phận
quản lý chuyên môn và quản lý cơ sở vật chất , kết hợp giữa thời khóa biểu mơn học
và biểu đồ thời gian thí nghiệm (Có thể tách các phần thí nghiệm, thực hành thành
các đơn vị học trình riêng, độc lập với mơn học), để tận dụng hiệu quả hơn các
phịng thí nghiệm, thực hành.
- Hợp tác tích cực giữa thư viện và các khoa, nhằm đầu tư sách, tài liệu, tài
nguyên thư viện phù hợp với nhu cầu sử dụng và yêu cầu phát triển, đảm bảo tính
hữu dụng, đồng thời thống nhất được biện pháp yêu cầu, khuyến khích sinh viên sử
dụng thư viện (Đổi mới phương pháp dạy học cũng là giải pháp quan trọng nâng cao
hiệu suất sử dụng thư viện).
- Khai thác, nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng, đặc biệt là đường truyền và các
phần mềm để hỗ trợ việc dạy học trực tuyến cũng như việc khai thác nguồn tài
nguyên học thuật trên các hệ thống điện tử.
- Thống nhất qui trình quản lý, sử dụng và định kỳ kiểm tra - đánh giá hiệu
quả sử dụng cơ sở vật chất - thiết bị để có biện pháp cải tiến, khắc phục, điều chỉnh
kịp thời.
2.3.4. Xây dựng các quy chế, quy định trong hoạt động quản lý giáo dục
Quy chế, quy định của nhà trường vừa là cơ sở pháp lý, vừa là những định
hướng cần thiết cho hoạt động quản lý giáo dục. Để tác động, thúc đẩy làm cho hoạt
động giáo dục có hiệu quả hơn cần tập trung một số vấn đề sau:
- Xây dựng chương trình, kế hoạch đảm bảo chất lượng tồn diện cho các
hoạt động của nhà trường và chủ động, tích cực tham gia chương trình kiểm định
chất lượng giáo dục đại học của Ngành; khuyến khích áp dụng các mơ hình, phương
thức quản lý chất lượng tiên tiến.


11

- Xây dựng các qui chế, qui định nội bộ phù hợp với chủ trương phân cấp,
tăng
cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các trường thành viên. Tăng cường phân
cấp và trách nhiệm trong các lĩnh vực quản lý, cải cách bộ máy và cải tiến công
việc.
- Xây dựng một số chế độ, chính sách khuyến khích tính tích cực, chủ động
của giảng viên và sinh viên trong hoạt động nghiên cứu khoa học, đổi mới phương
pháp dạy học, học tập sáng tạo (Đồng thời có thể có chế tài về nhiệm vụ nghiên cứu
khoa học).
- Xây dựng chính sách khuyến khích đủ mạnh để đổi mới quản lý cơ sở vật
chất - thiết bị, nâng cao hiệu suất sử dụng phịng học, phịng thí nghiệm, trang thiết
bị (khốn chi phí đào tạo, sử dụng thiết bị, khen thưởng về hiệu suất sử dụng...).
Thiết kế một cơ chế, chính sách quản lý tài chính có thể khuyến khích tiết kiệm,
tăng hiệu suất sử dụng cơ sở vật chất - thiết bị (ví dụ: Tính cả số tiền phải trả cho
việc sử dụng phòng học, thiết bị vào ngân sách của trường, khoa. Nếu tiết kiệm
được có thể dành cho hoạt động bồi dưỡng, nghiên cứu khoa học,…).
- Xây dựng chiến lược phát triển nguồn tài chính để đảm bảo các mặt hoạt
động của nhà trường. Có chính sách tăng cường mạnh mẽ các nguồn thu từ hoạt
động khoa học - công nghệ, sản xuất, dịch vụ tận dụng cơ sở vật chất - thiết bị của
nhà trường.


12

PHẦN III: KẾT LUẬN
Triết học Mác - Lênin kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất
của tư duy nhân loại, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng trong việc xem xét tự
nhiên cũng như đời sống xã hội và tư duy con người.
Trong triết học Mác - Lênin, lý luận duy vật biện chứng và phương pháp biện
chứng duy vật thống nhất hữu cơ với nhau. Sự thống nhất đó làm cho chủ nghĩa duy

vật trở nên triệt để và phép biện chứng trở thành lý luận khoa học. Nhờ đó, triết học
Mác - Lênin có khả năng nhận thức đúng đắn tự nhiên, xã hội và tư duy. Phép biện
chứng duy vật không chỉ là lý luận về phương pháp mà còn là lý luận về thế giới
quan. Hệ thống quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng trở thành nhân tố định
hướng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn, trở thành những nguyên tắc xuất phát
điểm của phương pháp luận.
Như vậy, trong triết học Mác - Lênin, thế giới quan và phương pháp luận
thống nhất hữu cơ với nhau, làm cho triết học Mác - Lênin trở thành một "công cụ
nhận thức vĩ đại".
Việc đưa ra xem xét vai trò của thế giới quan và phương pháp luận của triết
học Mác - Lênin đối với hoạt động quản lý giáo dục đồng thời phân tích các hoạt
động quản lý giáo dục nhằm mục đích đề xuất các biện pháp để sử dụng tốt hơn các
nguồn lực hay giảm chi phí trong hoạt động giáo dục của nhà trường, đồng thời đảm
bảo chất lượng giáo dục như một tiêu chí thành phần của quan niệm về hiệu quả
giáo dục. Nhưng với vấn đề lớn như vậy, bài viết mới chỉ khái quát lên những dấu
hiệu dễ nhận biết, rất cần phải có sự đầu tư nghiên cứu, điều tra khảo sát sâu hơn.


i

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021.
2. Ngơ Đình Giao (1996), Suy nghĩ về cơng nghiệp hố, hiện đại hố ở nước
ta, Nxb Chính trị quốc gia.
3. Phạm Minh Hạc (2001), Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào
cơng nghiệp hố, hiện đại hố, Nxb Chính trị quốc gia.
3. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình Triết học Mác
– Lênin, Nxb. Lý luận chính trị
4. Vũ Minh Khương (2020), “Việt Nam 2045: Tầm nhìn khát vọng và sứ

mệnh lịch sử”, Tạp chí Khoa học và Cơng nghệ Việt Nam, tr 15 – 17.
5. Nhị Lê (2021), Phát triển Việt Nam: Tầm nhìn, đổi mới và khát vọng năm
2030 – 2045, />6. Nguyễn Văn Vẹn (2021), Đổi mới quản trị giáo dục - đào tạo bậc đại học ở
Việt Nam trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư,
/>7. Nghiêm Đình Vỳ (2002), Phát triển giáo dục và đào tạo nhân tài, Nxb
Chính trị quốc gia.



×