Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

VẤN đề CON NGƯỜI TRONG TRIẾT học mác – LÊNIN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.01 KB, 24 trang )

MỤC LỤC
STT
A.
1.
2.
3.
B.
I.
1.
1.1.
1.2.
2.
2.1.
2.2.
2.3.
2.4.
2.5.
2.6.
2.7.
II.
1.
2.
2.1.
2.2.
2.3.
2.4.
C.

NỘI DUNG
TRANG
PHẦN MỞ ĐẦU……………………………………………


5-6
Lý do chọn Tiểu luận………………………………………
5
Mục tiêu của Tiểu luận…………………………………….
5
Phạm vi tác động của Tiểu luận…………………………...
5-6
PHẦN NỘI DUNG…………………………………………
6 - 25
QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC VỀ CON NGƯỜI…………..
6 - 17
Quan điểm triết học phi mác xít về con người…………...
6 - 11
Quan điểm triết học Phương Đông về con người………...
6-7
Quan điểm triết học Phương Tây về con người………….
7 - 11
Quan điểm triết học Mác – Lênin về con người…………. 11 - 17
Khái niệm con người và nhân tố con người……………… 11 - 12
Sự tồn tại hiện thực của con người………………………..
12
Con người là thực thể “sinh vật – xã hội – tinh thần”…... 12 - 13
Nguồn gốc và bản chất của con người……………………. 13 - 14
Con người là chủ thể của lịch sử…………………………..
15
Con người với tư cách là nhân cách……………………… 15 - 16
Sự nghiệp giải phóng con người…………………………... 16 - 17
PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM
17 - 25
HIỆN NAY…………………………………………………………………………

Đặc điểm hình thành con người Việt Nam trong lịch sử... 17 - 18
Vấn đề phát huy nhân tố con người, phát triển nguồn
18 - 25
nhân lực ở Việt Nam hiện nay…………………………….
Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng
18 - 20
Việt Nam……………………………………………………...
Về chiến lược con người trong sự nghiệp đổi mới ở Việt
20 - 21
Nam………………………………………………………….
Những động lực lớn phát huy nhân tố con người trong
21 - 23
đổi mới đất nước và trong xây dựng quân đội…………...
Quan điểm Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của
23 - 25
Đảng về xây dựng và phát triển con người Việt Nam……
KẾT LUẬN…………………………………………………
26

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


2

1. ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, XI, XII, XIII
Nxb. CTQG.
2. ĐCSVN, Nghị quyết Trung ương 5 Khóa VIII về “Xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.
3. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 1995. t.3, t.2
4. C.Mác và Ph.Ănghen: Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 1996, t.5. t.27.

5. C.Mác và Ph.Ănghen: Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 2002. t.20
6. C.Mác và Ph.Ănghen, tuyển tập, tập I. Nxb Sự thật, H. 1981, tr. 13,14. 7.
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 1994. t.42
8. Giáo tình triết học Mác - Lênin, Nxb. CTQG, t.1, t.2.
9. Giáo trình kinh tế chính trị học, Nxb. Giáo dục, H. 1996.
10. Hồ chí Minh: Tồn tập, Nxb. CTQG, H. 2000, t.5.
11. Tài liệu học tập lý luận chính trị phổ thông, Nxb. CTQG, t.1.
12. Những vấn đề cơ bản và cấp bách của triết học Mácxít, Nxb CTQG,
H. 2014.

MỞ ĐẦU


3

Trong lịch sử phát triển triết học từ trước tới nay “con người” luôn được
xem là đối tượng tranh cãi của các nhà tư tưởng, đảng phái triết học. Xét tới
cùng, chính từ “con người” vấn đề cơ bản của triết học mới được xác định và
cũng như vấn đề về tương quan và phương pháp luận mới đặt ra. Và cũng
chính ở đây, quan điểm duy vật hay duy tâm đã bộc lộ rõ ràng. Như thế, vấn
đề cơ bản lớn của mọi triết học là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại, đây
cũng là vấn đề cơ bản đầu tiên và chung một cách đầu tiên về con người.
Chắt lọc những tinh hoa triết học của nhân loại, khái quát những thành
tựu của khoa học tự nhiên và kinh nghiệm thực tiễn xã hội của loài người, C.
Mác và Ph. Ăngghen đã xây dựng lý luận triết học về con người. Trong đó
khẳng định: Con người là thực thể sinh vật – xã hội – tinh thần; con người là
chủ thể của lịch sử và bản chất của con người là tổng hòa các quan hệ xã
hội,...Đó là những nguyên lý nền tảng của lý luận Mác xít về con người.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước với những mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” hiện nay, con người và nguồn

nhân lực được coi là nhân tố quan trọng hàng đầu, quyết định sự phát triển
nhanh, hiệu quả và bền vững nền kinh tế nước ta. Đảng ta khẳng định: “con
người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển kinh tế - xã hội” đồng
thời phải xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa đó là những con người có
tri thức và đạo đức. Vì vậy, vấn đề cốt lõi là phải thực hiện tốt chiến lược giáo
dục – đào tạo về nguồn nhân lực và phát triển con người một cách toàn diện
cả thể lực lẫn trí lực, góp phần quan trọng để thực hiện thắng lợi Nghị quyết
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đề ra. Đúng như chủ tịch
Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con
người xã hội chủ nghĩa”
Với lý do trên, tôi chọn chủ đề viết tiểu luận: “Vấn đề con người trong
triết học Mác – Lênin. Liên hệ với việc phát huy nhân tố con người ở Việt
Nam hiện nay”.

NỘI DUNG


4

I. QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC VỀ CON NGƯỜI
1. Quan điểm triết học phi mác xít về con người
1.1. Quan điểm triết học Phương Đông về con người
Phương Đông cổ đại là một vùng đất rộng lớn, có nhiều trung tâm triết
học lớn của thế giới với nhiều quan điểm khác nhau về con người. Trong đó,
điển hình là quan điểm triết học của Phật giáo và Nho giáo.
Phật giáo là một trong chín trường phái triết học của Ấn Độ thời kỳ cổ
đại, là một trong ba trường phái triết học lớn chống lại sự thống trị tư tưởng
của đạo Bàlamơn. Vì vậy, Phật giáo có nhiều tư tưởng triết học tiến bộ, trong
đó có tư tưởng về con người.
Khi bàn tới nguồn gốc của con người, Phật giáo phủ nhận quan điểm của

kinh Vêđa, cho rằng con người là sản phẩm của đấng sáng tạo (Bahman) và
con người là ngun nhân của chính mình: con người q khứ là nguyên nhân
của con người hiện tại, con người hiện tại là nguyên nhân của con người
tương lai.
Phật giáo cho rằng, con người là hai thành phần: phần sinh lý và tâm lý,
phần hình và tâm thần. Cái tơi sinh lý tức là thể xác, hình chất gọi sắc (gồm
địa, thủy, hỏa, phong). Cái tôi tâm lý, tinh thần tức là danh (gồm thụ, tưởng,
hành, thức). Hai thành phần trên được tạo nên từ ngũ uẩn, do nhân duyên hợp
thành. Do thế giới là vô thường, sự hội tụ các thành phần tạo nên con người
chỉ diễn ra trong thời gian nhất định, vì vậy khơng có cái tơi vĩnh hằng.
Trong cuộc sống, do vô minh, con người cứ khái ái, tham dục nên dẫn
đến những hành động chiếm đoạt (gồm tư tưởng, lời nói, việc làm, thiện, bất
thiện) tạo nên nỗi khổ triền miên từ kiếp này sang kiếp khác. Để diệt trừ cái
khổ, con người phải giải thoát. Để đạt tới giải thốt, con người phải dày cơng
tu luyện, hành động đạo đức theo giới luật, tu luyện trí tuệ, trực giác thực
nghiệm nội tâm lâu dài. Với quan niệm này, Phật giáo đã thừa nhận bản tính
con người vừa thiện, vừa ác.
Nho giáo là một trong sáu học phái của triết học Trung Quốc cổ đại có
ảnh hưởng lớn trong quá trình phát triển tư tưởng triết học Trung Quốc thời
kỳ trung cổ. Nho giáo cho rằng, muôn vật do trời đất sinh ra thì con người
cũng do trời đất sinh ra. Sinh ra người cũng như sinh ra mn vật, đó là đức
của trời đất. Kinh Dịch chỉ rõ: “Đức lớn nhất của trời đất gọi là sinh”. Khổng
Tử coi Trời là một thế lực bao trùm, điều động vũ trụ xoay vần theo định luật
khách quan. Đồng thời, ơng tin trời có sức mạnh huyền bí nên luôn nhắc tới
mệnh trời, biết mệnh trời và sợ mệnh trời.


5

Nho giáo cũng cho rằng, con người sau khi do trời đất sinh ra thì con

người cùng với đất hợp thành ba ngôi tiêu biểu cho sự vật trong thế giới vật
chất và tinh thần. Kinh Dịch chỉ rõ: Trời, đất, nước là tam tài. Theo đó, khi
bàn tới quan hệ người với trời, đất, Nho giáo cho rằng, trời là gốc của người,
trời với người là một, do đó chủ trương thiên nhân hợp nhất.
Bàn về vấn đề này, các nhà sáng lập Nho giáo đã có nhiều quan điểm
khác nhau về bản tính con người. Khổng Tử cho rằng, tính của người đều gần
nhau, do tập tành, thói quen mới hóa ra xa nhau. Mạnh Tử cho rằng, bản tính
con người là ác… Tuy có quan điểm khác nhau về bản tính con người như
vậy, nhưng họ lại có thống nhất đó là phải coi trọng giáo hóa nhằm phát triển
tính thiện. Vì vậy, một trong những tư tưởng nổi bật của triết học Trung Quốc
cổ đại là tư tưởng về giáo dục.
Nho giáo coi tu thân và thực hành đạo đức là hoạt động thực tiễn căn bản
nhất, ln đặt vào vị trí thứ nhất của sinh hoạt xã hội. Mục tiêu xây dựng con
người của Nho giáo xác định được năm mối quan hệ (ngũ luân) và làm trịn
trách nhiệm trong năm mối quan hệ đó. Con đường để đạt được mục tiêu đó là
tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Đồng thời, Nho giáo cũng rất coi trọng
năm đức (ngũ thường) thường xuyên phải trau dồi là nhân, nghĩa, lễ, tín, trí.
Có thể nói, nhìn chung các quan điểm triết học về con người thể hiện
trong các học thuyết triết học phương Đông cổ, trung đại rất phong phú, đa
dạng, nhưng còn mang nặng tính duy tâm. Tất cả những tư tưởng đó đều tồn
tại lâu dài trong lịch sử, luôn giữ vai trò nền tảng trong suốt xã hội trung cổ.
1.2. Quan điểm triết học Phương Tây về con người
Lịch sử triết học Phương Tây là lịch sử trên 2.000 nghìn năm phát triển
của các hệ thống triết học từ Hy Lạp cổ đại đến một số trào lưu tư tưởng triết
học tư sản hiện đại. Quan điểm triết học về con người cũng được hình thành
và phát triển theo tiến trình hình thành và phát triển theo tiến trình vận động,
phát triển của lịch sử triết học.
Triết học Hy Lạp cổ đại là một nền triết học đa dạng, trong đó có bàn
nhiều đến giới tự nhiên và vấn đề con người.
Khi bàn tới nguồn gốc của con người, các đại biểu đầu tiên của chủ

nghĩa duy vật HyLạp cổ đại đã coi con người tồn tại thực tế, là một bộ phận
cấu thành của tồn tại nói chung. Họ cho rằng, con người cũng giống như mọi
sự vật, hiện tượng khác đều bắt nguồn từ một bản nguyên vật chất xác định
như nước (Talet), khơng khí (Anaximen), lửa (Hêracrit), hoặc từ bản nguyên
vật chất không xác định như apeiron (Anaximanđrơ); Xenophan cho rằng, con


6

người sinh ra từ hai nguyên bản là đất và nước, cịn Zênơn lại quan niệm hai
bản ngun đó là lửa và đất. Như vậy giữa hai lĩnh vực tự nhiên và con người
khơng có khoảng cách, con người hịa đồng với tự nhiên, khơng có sự tha hóa
của con người ra khỏi tự nhiên. Ở thời kỳ này, họ hay nói tới linh hồn của con
người, nhưng linh hồn cũng giống như khơng khí, nước, đất, chỉ là một trong
những trạng thái biến đổi của lửa.
Tiếp tục với quan điểm trên, vào thời kỳ cực thịnh của Hy Lạp cổ đại,
Empedocco cho rằng, nguồn gốc của con người và mn vật là do sự hịa hợp
của bốn yếu tố vật chất: lửa, khơng khí, nước và đất. Thơng qua các thời kỳ
của sự tiến hóa, các yếu tố sản sinh ra thực thể hữu cơ cao nhất là con người.
Đêmơ crít khi bàn tới sự sống cho rằng, sự sống không phải do thần thánh tạo
ra mà là kết quả của những lực lượng cơ giới của chính tự nhiên, các sinh vật
cũng được cấu tạo nên từ nguyên tử. Linh hồn của con người cũng có tính vật
chất, đó là sự kết hợp các ngun tử hình cầu rất năng động.
Bước ngoặt của triết học Hy Lạp cổ đại về vấn đề con người là quan
điểm Xơcrát. Ơng cho rằng, các vấn đề về tự nhiên đã được thần thánh an bài,
vấn đề chính của triết học là tập trung nghiên cứu tâm hồn của con người. Đối
tượng của triết học theo ông là “cái tôi” tinh thần của con người và công thức
của đối tượng là: “Hãy nhận thức lấy bản thân mình”. Sự quan tâm đến con
người của Xôcrát được xem như là bước ngoặc từ triết học tự nhiên sang triết
học đạo đức. Chủ đề suy xét về con người của Xôcrát là điều kiện, cái đẹp, tự

ý thức, tri thức và chân lý. Ông định hướng cho con người làm chủ hành vi
của mình bằng các giá trị đó và khơng cho phép bản năng động vật lấn át
tiếng nói của lương tâm, phẩm giá, lòng trung thành, lòng yêu thương con
người. Khái niệm chung tạo nên cơ sở của đạo đức là “cái thiện phổ biến”.
Muốn tuân theo cái thiện thì phải hiểu nó. Muốn vậy phải có phương pháp tìm
ra chân lý thông qua đàm thoại, tranh luận triết học, phương pháp có bốn
bước (hỏi mẹo, đỡ đẻ, quy nạp, xác định), về sau gọi là phương pháp Xôcrát.
Xã hội Tây Âu từ thế kỷ V đến thế kỷ XV là xã hội phong kiến chịu chi
phối và sự thống trị của tư tưởng tôn giáo. Xuất phát từ thế giới quan duy tâm,
thần bí, các nhà triết học thời kỳ này coi con người là sản phẩm của Thượng
đế sáng tạo nên. Mọi số phận, niềm vui, nỗi buồn, sự may rủi của con người
đều do Thượng đế sắp đặt.
Trí tuệ của con người thấp hơn lý trí anh minh, sáng suốt của Thượng đế,
Do đó, triết học hồn tồn bất lực trong việc cứu thoát con người. Con người
trở nên nhỏ bé trước cuộc sống, nhưng đành lòng với cuộc sống tạm bợ trên


7

trần thế, vì hạnh phúc vĩnh cửu ở thế giới bên kia. Con người bị thủ tiêu ý chí
đấu tranh để tự giải thốt mình.
Thời kỳ hình thành phương thức sản xuất tư bản ở Tây Âu được chia ra
làm hai giai đoạn: Phục hưng (thế kỷ XV – XVI) và cận đại (thế kỷ XVII –
XVIII). Tư tưởng triết học nói chung và tư tưởng triết học về con người thời
kỳ này cũng được chia làm hai giai đoạn:
Thời kỳ phục hưng là thời kỳ khôi phục, phát triển những giá trị con người
và nền văn hóa Hy Lạp cổ đại sau đêm dài trung cổ. Các nhà sử học gọi thời kỳ
này là thời kỳ đầu tiên phát hiện ra con người trong thế giới và cả một thế giới
trong con người. Chính thời kỳ này, ở Tây Âu đã sản sinh ra các học thuyết về
nguồn gốc ra lịch sử, sự phát triển các mặt của con người, về chủ nghĩa nhân văn,

về thuyết giải phóng cá nhân ra khỏi tín điều, quy định của nhà thờ, của giáo huấn
tôn giáo, của các đẳng cấp và tuyên bố bình đẳng của tất cả mọi người.
Thời kỳ cận đại thế kỷ XVII – XVIII là thời kỳ giai cấp tư sản đã giành
được thắng lợi chính trị. Tiếp tục phát triển tư tưởng nhân đạo thời kỳ phục
hưng, các nhà triết học Khai sáng lấy việc truyền bá tri thức tốt đẹp một cách
rộng rãi cho mọi người làm nhiệm vụ chính trị của mình. Muốn vậy, họ phải
đấu tranh chống các quan điểm tôn giáo và siêu hình về sự tồn tại của Chúa
và xây dựng nên hệ thống thế giới quan vô thần. Họ cho rằng, vũ trụ là vật
chất, vô tận, vĩnh hằng, luôn vận động. Con người là một bộ phận của giới tự
nhiên, là một động vật, suy nghĩ nhờ các giác quan (La Méttri). Con người là
một thực thể thống nhất hữu cơ của hai mặt thể xác và tinh hồn (Điđơrô). Con
người là sản phẩm của hoàn cảnh xã hội của quan hệ phong kiến
(Henvêtiuýt). Các nhà Khai sáng còn cho rằng, cơ sở để cải tạo xã hội hiện
đại, vươn tới con người là lý tính. Lý tính của con người là sản phẩm do sự
tác động của vật chất đến các giác quan gây nên cảm giác. Cảm giác là nguồn
gốc của lý tính (Henvêtiuýt). Các nhà khai sáng cịn cho rằng, bản tính của
con người vốn khơng ác, sở dĩ có cái ác là do sự khiếm khuyết của các quan
hệ xã hội và nền giáo dục không đúng đắn. Con người được giáo dục đúng
đắn tức là sự khai sáng…
Như vậy, kế thừa sự lý giải vấn đề con người trong lịch sử triết học từ
thời cổ đại đến cận đại thế kỷ XVII – XVIII, các nhà triết học cổ điển Đức đã
có bước nhận thức mới về con người.
Can tơ qua các tác phẩm của mình đã coi “tất cả mọi người trên trái đất về
bản chất mọi người trên trái đất về bản chất, đều thuộc một loài”. Sự khác nhau
về chủng tộc là do sự tác động đa dạng của các điều kiện tự nhiên – vật chất khác


8

nhau… Theo đó, Can tơ chứng minh tính xã hội của lồi người được hình thành

do vận động của các trạng thái tự nhiên – sinh học của các cá thể ở mỗi thế hệ, dần
dần phát triển ý thức của các thế hệ mà các trạng thái đạo đức, tư tưởng xã hội
được phát triển. Can tơ rất quan tâm tới vai trò hoạt động cải tạo của con người
với tư cách là chủ thể của thế giới, bởi con người về bản chất là một thực thể hoạt
động tích cực. Thực tiễn được Can tơ hiểu theo nghĩa hẹp là hoạt động đạo đức,
theo nghĩa rộng là hoạt động chính trị, lịch sử, pháp quyền, văn hóa.
Trong tác phẩm Hiện tượng học tinh thần, Heghen với nguyên lý xuất
phát của triết học là sự đồng nhất giữa tư duy và tồn tại, giữa tinh thần với thế
giới, coi thế giới và con người là hiện thân của tư duy, của tinh thần, tức là ý
niệm tuyệt đối. Với quan niệm như vậy, Heghen coi thế giới vật chất chính
của con người là vơ cơ, con người ở giai đoạn chưa hình thành. Cịn con
người bằng xương bằng thịt là con người đã phát triển đầy đủ, là con người
trở về với chính bản thân nó với tất cả những đặc tính vốn có của mình.
Phương pháp biện chứng của Heghen trong hiện tượng tinh thần học coi con
người vừa là chủ thể, đồng thời là kết quả của q trình hoạt động của mình;
tư duy và trí tuệ của con người hình thành và phát triển trong chừng mực của
con người nhận thức và cải tạo nhận thức và cải tạo thế giới; ý thức của con
người là sản phẩm của lịch sử xã hội, hoạt động của con người càng phát triển
thì ý thức của nó càng mang bản chất xã hội.
Phoiơbắc đối lập với Heghen, coi con người là sản phẩm cao nhất của tự
nhiên. Ông đã giải thích tất cả đặc điểm, tính chất của con người bằng nguồn
gốc tự nhiên của chúng.
Trước thành tựu mới của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, các nhà
triết học cổ điển Đức đã đề cao sức mạnh trí tuệ của con người. Nhưng do chịu
ảnh hưởng của phương pháp tư duy siêu hình, nên các nhà triết học cổ điển Đức
đã đề cao sức mạnh trí tuệ của con người tới mức cực đoan. Can tơ và Heghen đã
thần thánh hóa năng lực của con người dẫn đến quan niệm duy tâm, coi mọi sự
vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội là kết quả hoạt động của con người.
Phoiơbắc lại hiểu con người theo nghĩa trần tục bằng xương, bằng thịt, đồng nhất
tính sinh học vào bản chất con người, tách con người ra khỏi đời sống xã hội, hòa

tan bản chất con người vào bản chất tơn giáo, do đó đã khơng thấy được hoạt động
tích cực của con người là hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên, thành tựu cơ bản của
triết học cổ điển Đức về con người là khẳng định tư duy, ý thức chỉ phát triển
trong chừng mực con người nhận thức và cải tạo thế giới; con người là chủ thể, là
kết quả hoạt động của một thời đại lịch sử nhất định; nghiên cứu lịch sử nhân loại,


9

nghiên cứu quan hệ giữa con người với tự nhiên theo quan niệm biện chứng.
2. Quan điểm triết học Mác – Lênin về con người
Kế thừa tư tưởng triết học về con người trong lịch sử, C.Mác và
Ăngghen đã tạo bước ngoặt cách mạng trong quan niệm về con người, về bản
chất con người, về quan hệ giữa con người với tự nhiên và xã hội, về vị trí,
vai trị của con người trong tiến trình phát triển của nhân loại, về sự nghiệp
giải phóng con người. Với những thành quả đó, có thể nói, triết học Mác là
học thuyết về con người và giải phóng con người.
2.1. Khái niệm con người và nhân tố con người
Trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử xã hội và về con
người, triết học Mác – Lênin đã đem lại một quan niệm hoàn chỉnh về con
người. Theo quan điểm chung nhất, con người là thực thể sinh vật xã hội.
Con người là một sinh vật có tính xã hội, vừa là sản phẩm cao nhất trong quá
trình tiến hoá của tự nhiên và lịch sử xã hội, vừa là chủ thể sáng tạo mọi thành tựu
văn hoá trên trái đất. Triết học Mác chỉ rõ hai mặt, hai yếu tố cơ bản cấu thành con
người là mặt sinh học và mặt xã hội. Con người có mặt tự nhiên, vật chất, nhục
thể, sinh vật, tộc loại…Đồng thời, con người có mặt xã hội, tinh thần, ngơn ngữ, ý
thức, tư duy, lao động, giao tiếp, đạo đức…Hai mặt đó hợp thành một hệ thống
năng động, phức tạp, luôn luôn biến đổi, phát triển.
Quan niệm về con người của triết học Mác – Lênin đã bao hàm trong đó sự
khẳng định vai trò chủ thể lịch sử xã hội của con người. Điều đó địi hỏi tất yếu từ

quan niệm chung về con người, cần phải có một quan niệm cụ thể hơn về nhân tố
con người. Nhân tố con người là hệ thống các thuộc tính, các đặc trưng quy định
vai trị chủ thể tích cực, tự giác, sáng tạo của con người, bao gồm một chỉnh thể
thống nhất giữa mặt hoạt động với tổng hoà những đặc trưng về phẩm chất, năng
lực của con người trong quá trình phát triển lịch sử. Triết học Mác – Lênin đã chỉ
ra sự thống nhất giữa hai mặt là hoạt động và phẩm chất, năng lực của con người.
Hoạt động của con người bao gồm hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn;
hoạt động vật chất và hoạt động tinh thần.
Triết học Mác – Lênin đã chỉ ra vai trò chủ thể tích cực, tự giác, sáng tạo
của con người. Chính vì vậy, nhân tố con người là cội nguồn của mọi sự phát
triển, của mọi nền văn minh xã hội.
2.2. Sự tồn tại hiện thực của con người
Phạm trù “con người hiện thực” và định nghĩa kinh điển về bản chất con
người là một trong những tư tưởng đặc sắc trong triết học Mác làm nên cuộc
cách mạng trong lịch sử triết học.


10

Trong suốt quá trình lịch sử lâu dài trước khi triết học Mác ra đời, chủ nghĩa
duy tâm giữ vai trò chi phối trọng việc nhận thức về con người và đời sống xã hội
của con người. C.Mác cho rằng, triết học Đức vào đầu thế kỷ XIX vẫn lấy “sự
thống trị của tôn giáo” làm tiền đề. C. Mác coi phương pháp tiếp cận ấy là “đã đi
đầu xuống đất”., làm đảo ngược bức tranh hiện thực của lịch sử.
Từ sự phê phán đó, C.Mác chọn điểm xuất phát mới trong nghiên cứu xã
hội là xuất phát từ con người hiện thực – tức là xuất phát từ đời sống hiện
thực của họ. Xuất phát từ đời sống hiện thực của con người, C. Mác đã đi đến
xác định tiền đề đầu tiên của mọi tồn tại của con người và do đó là tiền đề của
lịch sử đó là: “Người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể “làm ra lịch
sử”. Như vậy, hành vi đầu tiên là việc sản xuất ra những tư liệu để thỏa mãn

những nhu cầu đó, sản xuất ra đời sống vật chất” 1.
C. Mác cũng đã phát hiện ra các quy định hành vi lịch sử đầu tiên và là động
lực thúc đẩy con người hoạt động vì nhu cầu lợi ích. Nhu cầu là động lực bên
trong thúc đẩy con người hoạt động. Hoạt động của con người thỏa mãn được nhu
cầu này lại làm nảy sinh nhu cầu khác. Việc nảy sinh nhu cầu mới là động lực thúc
đẩy con người hoạt động, là động lực phát triển của xã hội.
Như vậy, trong quan niệm của các nhà sáng lập triết học Mác, tính hiện
thực của con người được thể hiện trước hết ở chỗ con người tồn tại khách
quan trong hoạt động thực tiễn của nó và sự tồn tại của con người là tồn tại
hiện thực, hiển nhiên, chứ khơng phải cái gì đó mang tính trìu tượng.
2.3. Con người là thực thể “sinh vật – xã hội – tinh thần”
Với tư cách là thực thể sinh vật, thể xác con người trước hết thuộc về
giới tự nhiên. Ph. Ăngghen khẳng định: “…thể xác con người khác về thể
chất so với tất cả các động vật, thể xác con người là cấu trúc sinh vật hồn
thiện ở trình độ cao với bộ óc và hệ tế bào thần kinh hoàn chỉnh cùng với khối
lượng cực lớn các mối liên hệ, quan hệ… thể xác con người tồn tại trong sự
tồn tại và phát triển của xã hội”. Như vậy, trong thể xác con người không chỉ
có hoạt động của những nhu cầu và quy luật tự nhiên, mà cịn có hoạt động
của những nhu cầu và quy luật sinh lý – tâm lý, tình cảm của xã hội sâu sắc.
Với tư cách là thực thể xã hội, con người ln có nhu cầu xã hội và chịu
tác động, chi phối bởi các quy luật xã hội. Chính vì vậy, khi nói đến con
người là con người xã hội và khi nói đến xã hội là xã hội con người. Theo
C.Mác, con người tạo ra xã hội và là thành viên của xã hội, mọi biểu hiện sinh
hoạt của con người là biểu hiện và là sự khẳng định xã hội. Và nhờ có cấu
1

C. Mác và Ăngghen, toàn tập, t. 13, tr. 40


11


trúc “sinh vật – xã hội” và hoạt động thực tiễn, mà con người phản ánh một
cách tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan vào bộ óc và hình thành nên ý
thức của toàn bộ đời sống tinh thần phong phú của mình.
Với tư cách là một thực thể tinh thần, con người ln có nhu cầu tinh
thần như nhu cầu hiểu biết, nhu cầu tình cảm… và chịu tác động, chi phối bởi
các quy luật tinh thần như quy luật tâm lý, quy luật nhận thức….
Như vậy, con người là thực thể “ sinh vật – xã hội – tinh thần”, trong đó,
sự vận động đan xen của ba hệ thống nhu cầu (sinh vật, xã hội, tinh thần) và
ba hệ thống quy luật (sinh học, xã hội, tinh thần). Mỗi hệ thống nhu cầu và hệ
thống quy luật có vị trí, vai trị nhất định trong q trình phát triển của con
người, song hệ thống nhu cầu và quy luật xã hội cơ bản nhất, luôn ở vị trí
trung tâm và giữ vai trị quyết định, đồng thời là cơ sở của sự tồn tại, phát
triển con người và của loài người.
2.4. Nguồn gốc và bản chất của con người
Khi xem xét con người với tư cách là những cá nhân sống, C. Mác
không phủ nhận mặt tự nhiên và mặt sinh học của nó. Kế thừa tư tưởng triết
học lịch sử và các thành tựu khoa học, C. Mác và Ph. Ăngghen thừa nhận con
người là động vật cao cấp nhất, sản phẩm của sự tiến hóa lâu dài của giới sinh
vật. Mặc dù vậy, C. Mác không thừa nhận quan điểm cho rằng, cái duy nhất
tạo nên bản chất con người là đặc tính sinh vật học, là bản năng sinh học của
con người. Con người vốn là một sinh vật có đầy đủ những đặc trưng của sinh
vật, nhưng có nhiều điểm khác biệt với các sinh vật khác.
C. Mác và Ph. Ăngghen coi điều kiện quyết định hình thành con người là
lao động. Ph. Ăngghen chỉ rõ: “Người là giống vật duy nhất có thể bằng lao động
mà thốt khỏi trạng thái thuần túy là lồi vật” 2. Phân tích vai trị của lao động sản
xuất đối với con người C. Mác viết: “Có thể phân biệt con người với súc vật, bằng
ý thức, bằng tơn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con
người bắt đầu tự phân biệt với súc vật ngay từ khi co người bắt đầu sản xuất ra
những tư liệu sinh hoạt của mình… Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình,

như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình”.
Lao động xuất hiện đánh dấu sự chuyển biến từ tổ tiên động vật thành
con người. Trong lao động, con người thường xuyên làm biến đổi những điều
kiện tồn tại của mình, cải tạo chúng cho phù hợp với những nhu cầu thường
xuyên, xây dựng nên thế giới văn hóa, vật chất và tinh thần. Nền văn hóa này
do con người sáng tạo như thế nào thì bản thân con người do nền văn hóa đó
2

C. Mác và Ăngghen, tồn tập, t. 20, tr. 641


12

hình thành trong chừng mực nào đó.
Về mặt tâm lý, lao động đưa đến sự cải tạo các bản năng trên hai bình
diện đó là bình diện đè nén, kìm hãm bản năng, bắt phục tùng, chịu sự kiểm
soát của lý trí và bình diện diện cải tạo bản năng thành trạng thái mới về chất
của hoạt động nhận thức thuần túy của con người.
Về mặt xã hội, lao động đưa đến sự hình thành những chất mới, chất xã
hội của con người như ngôn ngữ, tư duy, giao tiếp, quan niệm, định hướng giá
trị, thế giới quan…
Tất cả lao động trên của xã hội đánh dấu sự xuất hiện một lồi sinh vật
mới – “người khơn”, ngay từ đầu đã xuất hiện dưới hai nguyên thể gắn bó với
nhau, đó là con người có lý tính và con người mang bản chất xã hội. Để nhấn
mạnh tính phổ biến của yếu tố xã hội trong con người, C. Mác đã viết: “Bản
chất con người khơng phải là cái gì trìu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt.
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã
hội”. Bản chất của con người khơng phải cái gì trìu tượng như người ta nghĩ,
mà có tính lịch sử - cụ thể, có nghĩa là nội dung của bản chất đó tuy về căn
bản là có tính xã hội, song lại biến đổi tùy theo nội dung cụ thể của thời đại,

của hình thái, của hồn cảnh xã hội và văn hóa sinh hoạt… Khi nói: “Trong
tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hịa những quan hệ xã hội”,
theo tơi hiểu thì “những quan hệ xã hội” đó thể hiện trong hoạt động cụ thể
của con người. Khơng có con người trừu tượng, mà chỉ có những con người
sống, hoạt động trong một xã hội nhất định, một thời đại nhất định. Điều đó
có nghĩa là những con người cùng với xã hội mình khai thác thiên nhiên, sinh
hoạt xã hội, phát triển ý thức. Chỉ trong toàn bộ những quan hệ xã hội cụ thể
đó, con người mới bộc lộ và thực hiện được bản chất thực sự của mình.
Đây là luận điểm nổi tiếng, tiêu biểu cho triết học Mác về bản chất của
con người. Luận điểm này trở thành cơ sở lý luận khoa học cho chủ nghĩa
Mác và các khoa học khi nghiên cứu, giải quyết vấn đề về con người.
2.5. Con người là chủ thể của lịch sử
Với tư cách là thực thể “sinh vật – xã hội – tinh thần”, con người hiện
diện trong thế giới và thể hiện mình khơng chỉ là sản phẩm của lịch sử, mà
còn trở thành chủ thể của lịch sử.
Trong quan niệm mác xít về lịch sử, lịch sử hiện ra như quá trình tự nhiên,
tức là quá trình được tạo ra bởi con người theo những quy luật khách quan nhất
định. Một mặt, trong lịch sử khơng có cái gì được thực hiện, được diễn ra một
cách tự động, tự phát ở bên ngoài hoạt động của con người; mặt khác “Lịch sử


13

như nó diễn ra từ trước đến nay giống như q trình tự nhiên, và về thực chất, tn
theo chính những quy luật của sự vận động”. Tuy nhiên, với tư cách là q trình
xã hội, lịch sử của nó có đặc trưng về chất để phân biệt với lịch sử tự nhiên.
Trong Hệ tư tưởng Đức, C. Mác và Ăngghen đã chỉ ra rõ rằng, sản xuất
vật chất mang tính tất yếu lịch sử và sự phát triển tất cả các mặt khác của xã
hội xét cho cùng đều do sản xuất vật chất quy định, cũng mang tính tất yếu
lịch sử; đằng sau sự phát triển của sản xuất vật chất và tất cả các mặt khác

nhau của xã hội chính là con người hiện thực – chủ thể của hiện thực. Bởi vì
“Lịch sử khơng làm gì cả”, nó “khơng có tính phong phú vơ tận nào cả”, nó “
khơng chiến đấu trong trận nào cả”! Khơng phải “lịch sử” mà chính con người
thực sự, những con người sống mới là kẻ làm ra tất cả những cái đó, có tất cả
những cái đó và đấu tranh cho tất cả những cái đó.
Như vậy, con người nhờ vào thực thể “sinh vật – xã hội – tinh thần” của
mình và bằng chính hoạt động nhận thức, hoạt động thực tiễn của mình mà
sáng tạo ra lịch sử trở thành chủ thể của lịch sử.
2.6. Con người với tư cách là nhân cách
Nhân cách được hiểu là tài và đức, là năng lực thể chất và tinh thần riêng
của mỗi con người, đó là sản phẩm của tất cả cái tự nhiên, cái xã hội và cái tôi
ở bản thân con người. Mỗi cá nhân do có vị trí xã hội khác nhau mà có nhân
cách khác nhau.
Nhân cách được hình thành trong quá trình hoạt động giao tiếp. Nói cách
khác, q trình hình thành nhân cách là q trình xã hội hóa cá nhân. Qúa
trình xã hội hóa địi hỏi cá nhân phải tích cực thực sự, thể hiện trong việc
thường xuyên điều chỉnh hành động, hành vi, cử chỉ của mình. Đến lượt nó,
q trình này đòi hỏi phát triển năng lực tự đánh giá, tự ý thức. Tự đánh giá,
tự ý thức là cốt lõi của nhân cách.
Nhân cách có ba thành tố: tư chất di truyền sinh học, sự tác động của nhân tố
xã hội và “cái tơi”, trong đó, yếu tố bản chất của nhân cách là “cái tôi”.
“Cái tôi” tựa như là cái xã hội bên trong của nhân cách, cái xã hội đã trở
thành hiện tượng tâm lý và quy định tính cách của nhân cách, phạm vi động
cơ biểu lộ theo một hướng nhất định, phương thức liên hệ lợi ích của mình đối
với lợi ích xã hội, trình độ, hồi bão, cơ sở hình thành niềm tin, định hướng
giá trị thế giới quan.
Thuộc tính chủ yếu của nhân cách là thế giới quan. Thế giới quan là đặc
quyền con người vươn tới tầm cao của tinh thần. Sau khi con người trao dồi
được thế giới quan này hay thế giới quan khác, nhân cách mới tự khẳng định



14

mình trong cuộc sống, có khả năng hành động một cách có mục đích, có ý
thức và thực hiện bản chất của mình.
Thành phần đặc biệt của nhân cách là đạo đức. Bản chất đạo đức của
nhân cách được kiểm tra thông qua sự lựa chọn trước những vấn đề tích cực
hoặc tiêu cực do xã hội đặt ra. Trong điều kiện đó, chỉ có những nhân cách có
đạo đức cao cả, có trí tuệ sâu sắc mới có được sự lựa chọn đúng đắn trong
những hoàn cảnh cụ thể.
2.7. Sự nghiệp giải phóng con người
C. Mác và Ăngghen đã xem xét con người trong mối quan hệ xã hội của
con người để đi đến đến khẳng định bản chất con người là tổng hòa các quan
hệ xã hội; xem xét con người với tư cách là thực thể “sinh học – xã hội”–
trong mối quan hệ con người – tự nhiên – xã hội để đi đến khẳng định tự
nhiên là thân thể của con người, con người là một bộ phận của giới tự nhiên,
xã hội chẳng qua chỉ là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa người với
người, lịch sử xã hội của con người là lịch sử phát triển của cá nhân con
người, con người làm nên lịch sử của mình, sáng tạo ra lịch sử của mình, các
nhà sáng lập triết học Mác đi đến kết luận: “Xã hội không thể nào giải phóng
cho mình được, nếu khơng giải phóng cho mỗi cá nhân riêng biệt” 3. Theo đó,
có thể khẳng định cốt lõi trong học thuyết Mác về con người là tư tưởng về
con người, giải phóng con người, giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại.
Mục tiêu của cơng cuộc xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa trong tương
lai là “giải quyết hiện thực mâu thuẫn giữa xây dựng một chế độ xã hội văn
minh, cơng bằng, khơng cịn hiện tượng người bóc lột người, khơng có hiện
tượng con người bị tha hóa, mọi người đều bình đẳng, đều có quyền hưởng tự
do và cuộc sống hạnh phúc. C. Mác và Ph. Ăngghen coi đặc trưng cơ bản của
chế độ xã hội đó là giải phóng con người. Các ơng quan niệm mục tiêu cao
nhất của chế độ mới đó là phát triển con người toàn diện, những con người có

khả năng sử dụng một cách tồn diện năng lực của mình.
C. Mác và Ph. Ăngghen coi xã hội tư bản là một bước tiến trong lịch sử
phát triển của nhân loại. Tuy nhiên, hai ơng cũng đã phân tích sâu sắc những
biểu hiện thực tiễn của sự tha hóa bản chất con người trong xã hội tư bản. Từ
đó, C. Mác và Ph. Ăngghen kết luận: Chỉ có khi nào con người hiện thực là
một công dân của nhà nước, một cá nhân trong cuộc sống, trong lao động,
trong quan hệ cá nhân, khi con người nhận thức được mình, tổ chức được
“những lực lượng của bản thân” thành lực lượng xã hội – nghĩa là đưa con
3

C. Mác và Ăngghen, toàn tập, t. 20, tr. 406


15

người về với bản chất đích thực của con người thì sự nghiệp giải phóng con
người mới hồn thiện. Và lực lượng xã hội có sứ mệnh thực hiện thành cơng
sự nghiệp giải phóng con người, giải phóng nhân loại là giai cấp vô sản.
Việc C. Mác và Ph. Ăngghen giải đáp các vấn đề con người không chỉ
nhằm mục đích xây dựng lý luận triết học về vấn đề con người, hơn thế nữa
cịn nhằm mục đích giải phóng con người. Giải phóng con người là lý tưởng
cao cả của chủ nghĩa Mác. Trong suốt cuộc đời mình, C. Mác và Ph. Ăngghen
đã cống hiến tất cả những gì có thể làm được cho cuộc đấu tranh giải phóng
con người.
II. PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Trong giai đoạn hiện nay khi đất nước ta đang thực hiện cơng cuộc đổi
mới tồn diện trên tất các lĩnh vực, đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước
sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại thì vấn đề
con người, phát triển nguồn nhân lực là một vấn đề đặc biệt quan trọng, được
quan tâm hơn bao giờ hết bởi vì nhân lực là nhân tố quyết định nhất đối với

sự phát triển của mỗi quốc gia, trình độ phát triển của nguồn nhân lực là một
thước đo chủ yếu sự phát triển của các quốc gia, để chúng ta có đủ nguồn
nhân lực, có những con người có trình độ, trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh đáp ứng
được yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới,
hồn thành cơng cuộc đổi mới đất nước xây dựng thành cơng CNXH ở nước
ta. Chính vì vậy chúng ta phải nắm chắc quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin về vấn đề con người, trung thành và vận dụng sáng tạo trong phát triển
nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay. Để thực hiện tốt mục tiêu trên theo tôi
chúng ta cần phải hiểu, nắm chắc và làm tốt một số vấn đề sau.
1. Đặc điểm hình thành con người Việt Nam trong lịch sử
Đất nước Việt Nam chúng ta có chiều dài 4000 năm lịch sử với bề dày
truyền thống dựng nước đôi với giữ nước. Chúng ta có điều kiện địa lý riêng
và một nền văn minh lúa nước nên con người Việt Nam sớm có thói quen chịu
đựng gian khổ, siêng năng, chịu khó nhưng trình độ lực lượng sản xuất thấp
kém, mang tính tự cung, tự cấp nên năng xuất lao động thấp, là cơ sở hình
thành xã hội nơng nghiệp truyền thống với đơn vị hạt nhân là “làng”. Làng
chính là thực thể “kinh tê – xã hội – chính trị - văn hóa” thu nhỏ của xã hội.
Chính nền văn minh này đã quy định, tác động và ảnh hưởng đến việc hình
thành và phát triển tâm ly, tình cảm, tính cách, tư duy và lối sống của con
người Việt Nam truyền thống.


16

Từ khi dựng nước dân tộc Việt Nam đã phải đứng lên kháng chiến chống
giặc ngoại xâm, chúng ta đã phải đương đầu với những kẻ thù lớn hơn, đông
hơn chúng ta gấp nhiều lần, từ đó đã làm nảy sinh tinh thần đồn kết, ý chí
quật cường và nghệ thuật đánh giặc của con người Việt Nam. Chúng ta có nền
văn hóa lâu đời giàu bản sắc truyền thống được hình thành và phát triển trải
qua hàng ngàn năm thăng trầm với nhiều cuộc giao lưu văn hóa thế giới.

Trong tất cả các cc giao lưu văn hóa ấy, nền văn hóa Việt Nam khơng chỉ
giữ gìn, phát huy được bản sắc văn hóa của mình mà cịn tiếp thu làm giàu
hơn, tinh hoa hơn, phong phú hơn những tinh hoa văn hóa của mình. Đến thế
kỷ thứ XX Chủ nghĩa Mác – Lênin được truyền bá vào Việt Nam trở thành
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hoạt động của con người và dân tộc Việt
Nam, đồng thời là điều kiện và tiền đề cho sự phát triển con người và xã hội
Việt Nam hiện đại.
Như vậy từ điều kiện địa lý, nền văn minh lúa nước, truyền thống dựng
nước đi đôi với giữ nước chống giắc ngoại xâm, nền văn hóa lâu đời giàu bản
sắc dân tộc cùng với tinh hoa văn hóa nhân loại và giá trị cách mạng, khoa
hoc, nhân văn của chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở hình thành con người Việt
Nam từ truyền thống đến hiện đại. Từ đó chúng ta có thể rút ra những ưu
điểm và hạn chế chung nổi bật của con người Việt Nam được hình thành trong
lịch sử làm cơ sở để phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước và công cuộc đổi mới hiện nay.
2. Vấn đề phát huy nhân tố con người, phát triển nguồn nhân lực ở
Việt Nam hiện nay
2.1. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng Việt
Nam
Con người, tự do và hạnh phúc của con người là vấn đề trung tâm của chủ
nghĩa xã hội. Mục tiêu cao nhất, bao trùm của chủ nghĩa xã hội là độc lập, tự do,
hạnh phúc của con người. Đó là lợi ích lớn nhất của con người Việt Nam.
Lý tưởng phấn đấu của chủ nghĩa xã hội là không trừu tượng mà cụ thể
và gắn liền lợi ích của con người, vì con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ:
“…nước độc lập mà dân khơng hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng
chẳng có nghĩa lý gì”4. Mục đích vì hạnh phúc con người được khẳng định
trong những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là dân giàu, nước
mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh.

4


Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t. 4. tr. 56.


17

Xuất phát từ quan điểm coi con người là vốn quý nhất của chủ nghĩa xã
hội, trong mọi giai đoạn cách mạng, Đảng cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ
Chí Minh ln ln coi con người là vốn q nhất, trong đó nhấn mạnh nhân
dân. “Trong bầu trời khơng gì q bằng nhân dân. Trong thế giới khơng gì
mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” 5. Con người được giác ngộ,
được tổ chức, được lãnh đạo đúng đắn sẽ tạo ra tất cả! “Người là gốc của làng
nước”6. Từ quan điểm coi con người, trước hết nhân dân lao động là vốn q,
địi hỏi phải kính trọng nhân dân, vì lợi ích nhân dân: “Việc gì lợi cho dân, ta
phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”7.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, phát động quần chúng đấu tranh giành
thắng lợi cho cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nối tiếp truyền thống nhân
đạo của dân tộc, có quan điểm nhất quán luôn luôn bảo vệ con người, hạn chế
mức thấp nhất sự hy sinh xương máu của nhân dân, trân trọng sinh mệnh con
người, tiếp kiệm sức người và ln quan tâm đến chính sách khoan thư sức dân.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh là
ln ln tin tưởng vào mặt tốt, mặt tiến bộ của con người, tin tưởng sức
mạnh tuyệt đối của nhân dân. Trên cơ sở nhìn nhận mặt tiến bộ, tính cực của
con người và tin tưởng ở con người, kể cả những người trong hoàn cảnh nhất
định bị lầm đường lạc lối, cần phải có lịng khoan dung rộng lớn đối với con
người. Từ đó tin tưởng vào sức mạnh của toàn dân được tổ chức, đoàn kết đấu
tranh. Ngay thời kỳ đầu thế kỷ XX, trong lúc bơn ba đi tìm đường cứu nước,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có câu trả lời đã rõ ràng là trở về nước, đi vào quần
chúng, thức tỉnh họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự
do, độc lập .

Từ quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tin tưởng tuyệt đối vào sức
mạnh truyền thống yêu nước của nhân dân Việt Nam, khẳng định: Công nông
là gốc cách mạng, nước lấy dân làm gốc. Thực chất đó là tư tưởng coi con
người là động lực quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng.
Cách mạng Việt Nam muốn giành được thắng lợi, địi hỏi phải có phương
thức phát huy, sử dụng đúng đắn vai trò động lực của con người. Đảng cộng sản
Việt Nam đã giải quyết mối quan hệ giữa mục tiêu và động lực; giữa mục tiêu gần
và mục tiêu xa. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội đã cụ thể hoá mục tiêu chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam phù hợp giai đoạn mới
5

Sđd, t. 8, tr. 276.
Sđd, t. 5, tr. 99.
7
Sđd, t. 4. tr. 56 – 57.
6


18

của cách mạng. Đồng thời, từng bước hiện thực hóa mục tiêu đó. Trong mọi chủ
trương, chính sách của Đảng, có sự kết hợp giữa lợi ích vật chất và lợi ích tinh
thần, trong đó coi trọng phát huy vai trị động lực chính trị-tinh thần. Để phát huy
vai trị nhân tố con người, cần tổ chức mọi hoạt động trên cơ sở khoa học, chú
trọng tuyên truyền giáo dục, động viên kịp thời các hành động tích cực của con
người. Đảng và Nhà nước đã thi hành các chính sách xã hội hướng tới con người,
phát động các phong trào cách mạng, thông qua đấu tranh cách mạng để phát huy
nhân tố con người. Đồng thời phát hiện, khắc phục các nhân tố tiêu cực, chống
chủ nghĩa cá nhân.

2.2. Về chiến lược con người trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam
Chiến lược con người là một bộ phận hợp thành chiến lược kinh tế-xã
hội. Trong giai đoạn đổi mới đất nước toàn diện theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, con người được đặt ở vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế-xã hội.
Xây dựng con người có tầm quan trọng đặc biệt, phải đi trước một bước so
với hoàn cảnh kinh tế xã hội. Thực chất là chuẩn bị nhân tố con người cho sự
phát triển xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa”8.
Mục tiêu của chiến lược con người là phát triển con người toàn diện, vừa
“hồng” vừa “chuyên”, trong đó ưu tiên đạo đức cách mạng, coi đức là gốc.
Đào tạo ra những người công dân và những cán bộ tốt, kế tục xứng đáng sự
nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Trong chiến lược con người, xây
dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên là công việc phải đặt lên hàng đầu, là “công
việc gốc của Đảng”. Phải đào tạo được những con người biết làm việc, làm
người, làm cán bộ. Đặc biệt, quan tâm đến giáo dục-đào tạo thế hệ trẻ, chủ
nhân tương lai của đất nước.
Mơ hình con người xã hội chủ nghĩa là con người kế thừa, phát triển
những giá trị truyền thống và giá trị cách mạng lên tầm cao mới. Nhân cách
con người xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khái
quát là Đức và Tài, tức là phẩm chất và năng lực. Trong đó, đạo đức là cái gốc
của người cách mạng. “Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền
tảng, mới hồn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”9.
Phẩm chất và năng lực con người Việt Nam được biểu hiện ở các đặc trưng:
Yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội; trung thành với Tổ quốc, nhân dân và Đảng; có
đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư; có đạo lý truyền thống
8
9

Hồ Chí Minh, tồn tập, Nxb CTQG, H. 1996, t. 9, tr. 448.
Hồ Chí Minh, tồn tập, Nxb CTQG, H. 1996, t. 9, tr. 283.



19

con người Việt Nam: nhân ái, bao dung, hiếu thảo, khiêm tốn, trung thực, giản dị,
đoàn kết cộng đồng, dễ thích nghi; dũng cảm, mưu trí sáng tạo; yêu lao động; có ý
thức tổ chức kỷ luật; ham học hỏi, cầu tiến bộ; có năng lực chun mơn tốt; có tri
thức hiện đại; có đời sống văn hố - tinh thần lành mạnh, phong phú và có khả
năng hội nhập trong đời sống xã hội hiện đại.
Phẩm chất và năng lực con người Việt Nam gắn với nhiệm vụ cách mạng và
từng giai đoạn lịch sử cụ thể, được khái qt thành mơ hình nhân cách cụ thể như
nhân cách đảng viên, nhân cách người cán bộ, quân nhân, công an, phụ nữ, nông
dân, công nhân, thanh niên, học sinh, nhi đồng... Đó là mơ hình nhân cách của
những người làm những chức trách, nhiệm vụ khác nhau.
Hiện nay, phương thức xây dựng con người Việt Nam trong điều kiện đổi
mới, cần coi trọng tác động đến nhu cầu, lợi ích; lấy tự tu dưỡng, tự rèn luyện
là chính. Thông qua tập thể, thông qua phong trào thi đua, thông qua hoạt
động thực tiễn để đào tạo bồi dưỡng con người. Thực hành thường xuyên phê
bình và tự phê bình, noi gương người tốt, việc tốt. Giáo dục, bồi dưỡng đạo
đức cách mạng, đồng thời kết hợp với chống chủ nghĩa cá nhân. Tiếp tục
chỉnh đốn Đảng, lấy việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên làm nòng cốt.
2.3. Những động lực lớn phát huy nhân tố con người trong đổi mới
đất nước
* Trước hết là quan tâm đến lợi ích của con người.
Theo quy luật chung, lợi ích là động lực tích cực hố nhân tố con người.
Quan tâm lợi ích con người, thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của con người
chính là hiện thực hố quan điểm của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh coi con
người vừa là mục đích, vừa là động lực phát triển của cách mạng Việt Nam.
Mục đích chủ nghĩa xã hội là vì tự do, hạnh phúc con người, thoả mãn nhu
cầu ngày càng cao của con người cả vật chất và tinh thần. Quan tâm lợi ích

con người để con người trở thành chủ thể tích cực xây dựng xã hội mới. Con
người vừa là vốn quý, vừa là nguồn sức mạnh vô tận của sự nghiệp cách
mạng, sự nghiệp đổi mới ở nước ta.
Đòi hỏi kết hợp giáo dục giá trị và đổi mới hồn thiện chính sách xã hội.
Định hướng giá trị - lợi ích cho con người. Chỉ có trên cơ sở quan niệm giá trị
đúng đắn, phù hợp với lợi ích chân chính, con người mới có nhận thức và
hành động đúng đắn. Định hướng giá trị - lợi ích cịn để khắc phục sự lệch
chuẩn giá trị trong quá trình phát triển kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay,
làm cho con người có mục tiêu, lý tưởng, có hồi bão phấn đấu đúng đắn, góp
phần tích cực vào sự phát triển xã hội.


20

Thực hiện chính sách xã hội nhằm kết hợp hài hồ các lợi ích, điều chỉnh
quan các hệ xã hội. Các chế độ, chính sách, pháp luật nhà nước phải được cụ
thể hố để thực sự trở thành cơng cụ thực hiện cơng bằng xã hội, từng bước
hiện thực hóa các giá trị xã hội chủ nghĩa vào thực tiễn đời sống xã hội.
* Thực hiện dân chủ hoá mọi mặt đời sống xã hội.
Dân chủ hoá đời sống xã hội là một quá trình xây dựng những tiền đề,
điều kiện cho mọi hoạt động của con người được thực hiện trên cơ sở dân
chủ, bảo đảm cho giá trị dân chủ xã hội chủ nghĩa được thể hiện đầy đủ trong
đời sống xã hội nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, sáng tạo của con người.
Để thực hiện dân chủ hoá cần tập trung một số giải pháp cơ bản. Trước hết
cần phải thu hút rộng rãi các tầng lớp nhân dân tham gia quản lý nhà nước, thực
sự làm chủ vận mệnh của mình, làm chủ xã hội mới. Phối hợp chặt chẽ dân chủ
đại diện và dân chủ trực tiếp. Khắc phục mọi biểu hiện dân chủ hình thức, dân chủ
cực đoan, lợi dụng dân chủ để chống lại chế độ. Phát huy dân chủ đi đôi tăng
cường kỷ luật, pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa. Lấy dân chủ trong Đảng,
trong bộ máy nhà nước làm nịng cốt cho dân chủ hố xã hội chủ nghĩa. Đổi mới,

cải cách, hoàn thiện bộ máy nhà nước-công cụ của nhân dân lao động làm chủ xã
hội, khắc phục biểu hiện quan liêu, tham nhũng, xa rời quần chúng. Thực hiện tốt
quy chế dân chủ cơ sở, tăng cường dân chủ, giải phóng mọi năng lực sáng tạo
nhằm ổn định chính trị xã hội, tạo điều kiện cho sự nghiệp đổi mới thắng lợi...
* Đặc biệt coi trọng phát triển giáo dục đào tạo.
Phải thực sự coi giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm phát triển
toàn diện con người Việt Nam, phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại
hố. Giáo dục là sự nghiệp có tính chiến lược. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải
trồng người”10.
Mục tiêu của sự nghiệp giáo dục là nâng cao dân trí, phát triển nhân lực, đào
tạo nhân tài, trên nền tảng phát triển nhân cách con người Việt Nam vừa “hồng”,
vừa “chuyên”. Phương hướng nhiệm vụ của sự nghiệp giáo dục là phải giải quyết
tốt quan hệ đào tạo và sử dụng, giải quyết tốt việc làm cho người lao động. Nâng
cao trình độ dân trí và phát triển nguồn nhân lực. Nâng cao hiệu quả công tác giáo
dục đào tạo. Tiếp tục đổi mới tồn diện cơng tác giáo dục đào tạo phù hợp với yêu
cầu của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
Tóm lại, tư tưởng về con người và phát huy nhân tố con người đã được
Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh phát triển lên một tầm
10

Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1996, t. 9, tr. 222.


21

cao mới phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Quan điểm triết học Mác
- Lênin vì con người và phát huy nhân tố con người có ý nghĩa khoa học và
cách mạng to lớn trong sự nghiệp đổi mới đất nước và trong xây dựng Quân
đội nhân dân Việt Nam hiện nay.

2.4. Quan điểm Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng về
xây dựng và phát triển con người Việt Nam
Đại hội XIII của Đảng đã quyết định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ của
cách mạng Việt Nam trong 5 năm (2021-2025); xác định phương hướng, mục tiêu
của đất nước đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045. Một trong những điểm
nhấn rất quan trọng của Đại hội XIII của Đảng là xác định các quan điểm, chủ
trương mới, toàn diện và sâu sắc về phát triển văn hóa, con người Việt Nam nhằm
thực hiện mục tiêu xây dựng đất nước ta cường thịnh, phồn vinh, hạnh phúc.
Đại hội XIII của Đảng xác định, phát triển nhanh và bền vững đất nước dựa
chủ yếu vào việc phát huy tối đa nhân tố con người; lấy con người là trung tâm,
mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước. Vì vậy, “Xây dựng
con người Việt Nam phát triển toàn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị
truyền thống và giá trị hiện đại” là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.
Coi trọng giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tơn dân tộc, lịng nhân
ái, tinh thần đồn kết, đồng thuận xã hội. Bảo vệ và phát huy các giá trị tốt
đẹp, bền vững trong truyền thống văn hóa dân tộc. Thường xuyên chăm lo
giáo dục đạo đức, nhân cách, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, ý thức
trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ. Gắn giáo dục
tri thức, đạo đức, thẩm mỹ, kỹ năng sống với giáo dục thể chất, nâng cao tầm
vóc của con người Việt Nam. Xây dựng, hồn thiện các giá trị văn hóa và
chuẩn mực con người Việt Nam thời đại mới phát triển tồn diện về nhân
cách, đạo đức, trí tuệ, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công
dân, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, bảo vệ môi trường, năng lực đổi
mới sáng tạo, khả năng làm việc trong môi trường quốc tế...
Đại hội XIII với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, lần đầu
tiên đã nêu yêu cầu: “Từng bước vươn lên khắc phục các hạn chế của con
người Việt Nam”. Phải chăng đó là tâm lý tiểu nơng, là tính ỷ lại, dựa dẫm,
tính đố kỵ, thiếu kỹ năng hợp tác, thiếu ý thực tôn trọng pháp luật... Các mặt
hạn chế của con người Việt Nam cần phải được nhận biết, được phê bình, tự
phê bình nghiêm khắc, cần phải được sửa chữa, khắc phục để cho dân giàu,

nước mạnh.


22

Phát triển mạnh mẽ nền văn hoá và con người Việt Nam trong điều kiện tồn
cầu hố và hội nhập quốc tế, chúng ta đứng trước yêu cầu cấp thiết là phải bảo vệ
và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, nhất là các giá trị văn hoá truyền thống và
cách mạng; đấu tranh chống các khuynh hướng đồng hố, nơ dịch về văn hố.
Đồng thời, coi trọng việc tiếp thu tinh hoa văn hoá, khoa học, giáo dục của nhân
loại để xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam tiến kịp, tiến cùng thời
đại. Quá trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, mà
cốt lõi là làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo
trong đời sống tinh thần của xã hội, cũng chính là q trình xây dựng con người,
phát huy tối đa nhân tố con người, thực hiện chiến lược con người - khâu trung tâm
của sự nghiệp xây dựng nền tảng tinh thần, tiềm lực văn hóa và chế độ xã hội chủ
nghĩa. Phát triển văn hóa vì sự hồn thiện nhân cách con người và xây dựng con
người để phát triển văn hóa, phát triển bền vững đất nước. Văn hóa trở thành nhân
tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, thấm sâu vào toàn bộ đời sống và
hoạt động xã hội, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, trở thành sức
mạnh nội sinh, động lực đột phá cho phát triển đất nước và hội nhập quốc tế.
Đại hội XIII của Đảng xác định: “Lấy con người là trung tâm của phát
triển và được chia sẻ những thành quả của q trình phát triển”. Cần thực hiện
tốt hơn các chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, phúc lợi
văn hóa, an ninh văn hóa, an ninh con người, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội; nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân. Tǎng đầu
tư của nhà nước và xã hội cho phát triển sự nghiệp vǎn hóa; đổi mới cơ chế,
chính sách nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư. Hồn thiện và bổ sung các cơ chế
chính sách để đẩy mạnh xã hội hóa văn hóa đúng định hướng XHCN trong
nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế.

Thực tiễn quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam cho thấy, hiện
nay, vấn đề còn bất cập lớn nhất là vấn đề nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân
lực chất lượng cao chứ không phải là vốn hay kỹ thuật. Việt Nam có dân số đơng,
dân số trong độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ lớn nhưng tỷ lệ lao động được đào tạo
vẫn thấp. Hằng năm, có khoảng hơn một triệu người đến tuổi bổ sung vào đội ngũ
lao động, nhưng trên 60% trong số đó vẫn chưa được đào tạo có bằng cấp, chứng
chỉ. Số lao động này chưa thể đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp địi hỏi
trình độ cơng nghệ cao. Đây vẫn là khó khăn lớn của nước ta khi tiến hành cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ Đại hội XI năm 2011, Đảng ta đã chỉ ra: “Chất lượng
nguồn nhân lực là một điểm nghẽn cản trở sự phát triển. Vì vậy, Đại hội XIII của
Đảng xác định, phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn


23

nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh
phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mơ
hình tăng trưởng, là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển
nhanh, hiệu quả và bền vững của đất nước. “Tiếp tục đẩy mạnh phát triển nguồn
nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, trọng tâm là hiện đại hóa giáo
dục, nâng cao chất lượng đào tạo để đáp ứng yêu cầu phát triển trong bối cảnh
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế sâu rộng”; “Chuẩn bị
nguồn nhân lực cho chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội số”.
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; chủ động tham gia vào thị
trường đào tạo nhân lực quốc tế đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế sâu rộng là vấn đề cần được quan tâm nhất
hiện nay. Điều đó địi hỏi việc đào tạo nguồn nhân lực phải gắn kết chặt chẽ với
nghiên cứu, triển khai, ứng dụng các thành tựu mới của khoa học công nghệ; hình
thành các trung tâm nghiên cứu, các nhóm đổi mới sáng tạo mạnh. Nguồn nhân

lực được đào tạo phải bảo đảm cả tri thức, kỹ năng về khoa học công nghệ, khả
năng tiếp nhận và làm chủ được những thành tựu khoa học công nghệ mới, quản
lý hiện đại, có năng lực đổi mới sáng tạo, có khả năng làm việc trong môi trường
quốc tế. Tập trung đào tạo nguồn nhân lực cho chuyển đổi số, phát triển kinh tế số,
xã hội số, văn hóa số, các chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành, nhân lực quản lý,
quản trị công nghệ, quản trị doanh nghiệp, nhân lực quản lý xã hội và tổ chức
cuộc sống, chăm sóc con người; phát hiện, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài...

KẾT LUẬN
Trong lịch sử triết học đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về con người,


24

song do hạn chế của điều kiện lịch sử - xã hội, của trình độ nhận thức, nên khi trả
lời các quan điểm chung về con người, các quan điểm đó chưa khoa học, thậm chí
phản khoa học. Xuất phát từ quan điểm duy vật lịch sử, C. Mác và Ph. Ăngghen
đã nêu lên những quan điểm triết học về con người nhằm làm cơ sở lý luận cho
các lĩnh vực khoa học cụ thể khi nghiên cứu con người.
Có thể nói rằng, lần đầu tiên trong lịch sử triết học, chỉ đến triết học duy
vật biện chứng do C. Mác và Ph. Ăngghen xây dựng nên mới hình thành
phạm trù “con người hiện thực”. Đó thực sự là một sự nhảy vọt trong lịch sử
tư duy triết học nhân loại. Đây là cơ sở triết học để tìm hiểu mối quan hệ con
người với tự nhiên, cũng như với lịch sử xã hội – một trong những vấn đề cốt
yếu của triết học Mác và chủ nghĩa Mác.
Từ lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước cho đến nay, mọi thắng
lợi cho thấy rõ vai trị có tính quyết định của nhân tố con người. Truyền thống lịch
sử đó đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa, phát huy trong lãnh đạo,
đưa cách mạng nước ta vượt qua những khó khăn, thử thách ác liệt của chiến
tranh, để đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay,

việc phát huy nhân tố con người có ý nghĩa cực kỳ quan trọng nhằm thực hiện
thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”,
tạo ra thế và lực mới cho dân tộc trong thời đại mới.
Phát huy nhân tố con người trong Qn đội trong thời kỳ mới có vị trí,
vai trị quan trọng trong việc xây dựng quân đội “cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ và từng bước hiện đại”, trong đó lấy xây dựng quân đội vững mạnh về
chính trị là cơ sở. Việc tiếp tục giữ vững và phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ
Hồ” trong thời kỳ mới sẽ góp phần tơ thắm truyền thống vẻ vang của Qn
đội nhân dân Việt nam anh hùng, đồng thời cũng là hình mẫu về xây dựng con
người Việt nam trong thời đại mới – thời đại Hồ Chí Minh./.



×