Tải bản đầy đủ (.docx) (214 trang)

Nội luật hóa quy định của công ước liên hợp quốc về chống tra tấn đối với lấy lời khai, hỏi cung bị can trong bộ luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (968.78 KB, 214 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

TRỊNH DUY THUN

NỘI LUẬT HĨA QUY ĐỊNH CỦA CÔNG ƯỚC LIÊN HỢP QUỐC
VỀ CHỐNG TRA TẤN ĐỐI VỚI LẤY LỜI KHAI, HỎI CUNG BỊ
CAN TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

TP. HỔ CHÍ MINH NĂM 2021


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các thông tin
nêu trong luận án là trung thực. Các trích dẫn trong luận án đều được chú thích
đầy đủ và chính xác. Các kết quả nghiên cứu luận án chưa được ai công bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác

Tác giả luận án

Trịnh Duy Thuyên


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày 28/11/2014, Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 8 đã thơng qua Nghị quyết số


83/2014/QH13 phê chuẩn Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn và các hình thức
trừng phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm 1 (Công ước Liên Hợp
quốc về chống tra tấn). Đây là một trong những ĐƯQT đa phương quan trọng về quyền
con người, thể hiện ý chí của nhân loại u chuộng hịa bình, mong muốn sớm loại bỏ các
hành vi tra tấn, đối xử tàn bạo, vô nhân đạo ra khỏi đời sống xã hội. Sự kiện này, có

ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động bảo vệ nhân quyền, thể hiện chính sách nhân
đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Qua đó, góp phần triển khai, thi hành có hiệu
quả Hiến pháp năm 2013 về bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Đồng thời
đây là bước đi cụ thể trong quá trình chủ động hội nhập quốc tế, khẳng định Việt
Nam là thành viên tích cực và có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế.
Khoản 1, Điều 2 Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn quy định “mỗi quốc gia
thành viên phải thực hiện các biện pháp cụ thể về lập pháp, hành pháp, tư pháp hoặc các
biện pháp hiệu quả khác nhằm phòng ngừa mọi hành vi tra tấn trên bất cứ khu vực
2

lãnh thổ nào thuộc quyền tài phán của mình.” Căn cứ vào tình hình thực tế, Việt
Nam nội luật hố các quy định của Cơng ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn vào
hệ thống pháp luật quốc gia (trong đó có BLTTHS), để tổ chức triển khai thực hiện,
phòng ngừa tra tấn, đặc biệt là khi tiến hành các hoạt động tố tụng như: bắt, tạm giữ,
ghi lời khai, hỏi cung, giam giữ...
Thực tiễn cho thấy, tra tấn có khả năng xảy ra trong mơi trường khép kín, giữa
một bên là đại diện quyền lực cơ quan nhà nước cần thu thập thông tin với một bên
đang bị nghi ngờ đã thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, LLK, HCBC ở giai đoạn điều
tra, là những hoạt động có khả năng xảy ra tra tấn, khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành
tố tụng thu thập chứng cứ. Đánh giá các quy định của Công ước Liên Hợp quốc về
chống tra tấn đối với quy định LLK, HCBC trong BLTTHS năm 2015. Tác giả

1 Vào ngày 07/11/2013, Việt Nam đã ký Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn và các hình thức trừng phạt


hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ nhục nhân phẩm. Sau khi được Quốc hội phê chuẩn, ngày 05/2/2015, Việt
Nam nộp văn kiện phê chuẩn cho Tổng thư ký Liên Hợp quốc và chính thức trở là thành viên của Công ước này.

2Article 2, Convention against Torture “1. Each State Party shall take effective legislative, administrative,
judicial or other measures to prevent acts of torture in any territory under its jurisdiction”.


2

nhận thấy, bên cạnh những điểm tương đồng, thì vẫn còn một số điểm hạn chế chưa
phù hợp để phòng ngừa tra tấn.
Thứ nhất, BLTTHS năm 2015 chưa ghi nhận triệt để vấn đề ghi âm, ghi hình
có âm thanh khi tiến hành LLK người bị bắt, bị tạm giữ. Riêng đối với người người
bị tố giác, kiến nghị khởi tố cịn thiếu những quy định về trình tự, thủ tục. Thực tế
cho thấy, tra tấn xảy ra nhiều, ở giai đoạn trước khi khởi tố vụ án. Bởi vì, thời điểm
này cơ quan chức năng chưa đủ điều kiện, thời gian để thu thập tài liệu, chứng cứ
chứng minh. Nhưng với tâm lý mong muốn khám phá nhanh vụ án, thì tra tấn nhằm
thu thập thơng tin, buộc người bị nghi thực hiện tội phạm là có thể. Do đó, khi đã
thiếu hành lang pháp lý cụ thể, tra tấn sẽ tồn tại trong thực tiễn áp dụng pháp luật.
Thứ hai, Điều 1 của Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn quy định tra tấn bao
gồm: tra tấn thể chất và tra tấn tinh thần, nhưng các quy định của BLTTHS năm 2015 chỉ
mới tập trung phòng ngừa tra tấn thể chất là chủ yếu và thiếu quy định cụ thể về phòng
ngừa tra tấn tinh thần như: BLTTHS vẫn có những khoảng trống khi cho phép tiến hành
HCBC vào ban đêm,3 chưa quy định cụ thể về thời gian, tần suất tiến hành LLK, HCBC
trong một ngày hoặc thiếu các quy định về việc người bị nghi thực hiện tội phạm từ chối
khai báo khi câu hỏi của người có thẩm quyền khơng liên quan đến vụ án...

Ngoài ra, quy định về HCBC trong BLTTHS Việt Nam năm 2015 chưa nghiêm cấm
hành vi đe dọa bị can hoặc đe dọa gây thiệt hại cho người thân thích của bị can
(người thứ ba) nhằm buộc phải khai nhận tội hoặc thu thập các thông tin theo quy

định tại Điều 1 của Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn, là những điểm còn
chưa phù hợp với quy định của Công ước.
Thứ ba, khi HCBC phải ghi âm, ghi hình có âm thanh nhưng thực tế cho đến
nay vẫn chưa áp dụng đầy đủ, đồng bộ. Thông tư liên tịch số 03/2018/TTLT-BCAVKSNDTC-TANDTC-BQP ngày 01/02/2018 của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao, Bộ Quốc phịng hướng dẫn về trình tự, thủ tục
thực hiện ghi âm, ghi hình có âm thanh; sử dụng, bảo quản, lưu trữ kết quả ghi âm,
ghi hình có âm thanh trong q tình điều tra, truy tố, xét xử quy định “trong quá
trình hỏi cung bị can hoặc lấy lời khai có thể tạm dừng ghi âm, ghi hình có âm

3

Khoản 3 Điều 183 BLTTHS năm 2015.


3

4

thanh bằng cách nhấn nút tạm dừng.” Tuy nhiên, nội dung này cịn thiếu tính chặt
chẽ, bởi vì tra tấn có thể xảy ra trong q trình bấm nút tạm dừng.
Thứ tư, trong thực tiễn, người bào chữa tham gia tố tụng hình sự cịn khá
muộn, khi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng LLK, HCBC. Nhiều trường hợp
được tham gia LLK, HCBC thì đó là lúc nhận tội. Do đó, trong buổi LLK, HCBC
người bào chữa có vai trò mờ nhạt và giống như người chứng kiến cho lời nhận tội.
Như vậy, tuy có quy định khi tiến hành LLK, HCBC người bào chữa được tham gia,
5

được đặt câu hỏi nhưng chưa có cơ chế bảo đảm thực hiện một cách tốt nhất.
Trên đây là một số vấn đề còn hạn chế trong quy định của BLTTHS năm
2015 về LLK và HCBC so với quy định của Công ước Liên Hợp quốc về chống tra

tấn. Chính vì vậy, nghiên cứu một cách toàn diện và chuyên sâu về LLK, HCBC và
đưa ra các giải pháp hoàn thiện để bảo đảm thực hiện quy định của Công ước Liên
Hợp quốc về chống tra tấn là một đòi hỏi bức thiết trong quá trình bảo đảm quyền
con người ở Việt Nam hiện nay. Với nhận thức và quan điểm nêu trên tác giả chọn
đề tài “Nội luật hóa quy định của Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn đối
với lấy lời khai, hỏi cung bị can trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam” để làm
Luận án Tiến sĩ luật học.
2.
Mục đích nghiên cứu
Thơng qua việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp lý về nội luật hố
các quy định của Cơng ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn đối với LLK, HCBC
trong BLTTHS năm 2015; kinh nghiệm nước ngoài. Luận án đề xuất những giải
pháp, hoàn thiện các quy định về LLK, HCBC trong BLTTHS Việt Nam nhằm nâng
cao hiệu quả phòng ngừa tra tấn.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận, pháp lý và thực
tiễn thực hiện nghĩa vụ của Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn tại Việt Nam
đối với LLK, HCBC trong BLTTHS năm 2015.
Lý luận về nội luật hóa quy định Cơng ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn
vào BLTTHS như: khái niệm, đặc điểm, cơ sở pháp lý của nội luật hóa.

4 Điểm b, khoản 2, Điều 5 Thông tư liên tịch số 03/2018 của Bộ Cơng an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tồ án

nhân dân tối cao, Bộ Quốc phòng ngày 01/02/2018 hướng dẫn về trình tự, thủ tục thực hiện ghi âm, ghi hình có âm
thanh; sử dụng, bảo quản, lưu trữ kết quả ghi âm, ghi hình có âm thanh trong quá tình điều tra, truy tố, xét xử

5

Khoản 1, điểm b, Điều 73 BLTTHS năm 2015.



4

Nghiên cứu những vấn đề lý luận về LLK, HCBC của các Cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng trong BLTTHS năm 2015.
Đánh giá tương đồng và khác biệt giữa quy định của Công ước Liên Hợp
quốc về chống tra tấn với quy định về LLK, HCBC trong BLTTHS năm 2015.
Nghiên cứu thực trạng những bất cập, hạn chế có thể dẫn đến tra tấn đối với
quy định LLK, HCBC khi thực hiện Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn,.
Nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc gia đã thực hiện nội luật hóa Cơng
ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn đối với quy định về LLK, HCBC trong BLTTHS.

Đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện quy định LLK, HCBC trong BLTTHS
năm 2015 để phòng ngừa tra tấn.
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung: Luận án nghiên cứu nghĩa vụ lập pháp của Việt Nam sau
khi phê chuẩn Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn đối với quy định về LLK,
HCBC trong BLTTHS năm 2015 để phòng ngừa tra tấn; khảo sát thực tiễn áp dụng
6

quy định của BLTTHS năm 2003 và BLTTHS năm 20015 về LLK, HCBC về
phòng ngừa tra tấn; tham khảo kinh nghiệm nội luật hóa đối với LLK, HCBC của
một số quốc gia đã phê chuẩn Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn như: Liên
Bang Nga, CHLB Đức, Vương quốc Anh.
Phạm vi chủ thể: Luận án nghiên cứu quá trình LLK, HCBC được thực hiện
bởi lực lượng Công an xã, phường, thị trấn; Cơ quan Cảnh sát điều tra các cấp trong
lực lượng Công an nhân dân.
LLK: luận án nghiên cứu quá trình LLK đối với những đối tượng có thể bị
tra tấn như: người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tố giác, kiến nghị khởi tố.
HCBC: luận án nghiên cứu quá trình hỏi cung đối với bị can.

Phạm vi khơng gian: tồn quốc.
Phạm vi thời gian: từ năm 2010 đến năm 2020.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận án
Đây là Luận án tiến sĩ đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu một cách có hệ thống
và chuyên sâu về nội luật hóa quy định Cơng ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn
đối với LLK, HCBC trong BLTTHS Việt Nam.
6 BLTTHS năm 2015 vừa mới được áp dụng trong thực tiễn từ ngày 01/01/2018, có những sửa đổi, bổ sung

đối với quy định LLK, HCBC nhưng cơ bản vẫn trên nền tảng của BLTTHS năm 2003 và khơng có nhiều
khác biệt. Do đó, những hạn chế trong thực tiễn áp dụng BLTTHS năm 2003 chưa được BLTTHS năm 2015
sửa đổi, sẽ tiếp tục là hạn chế trong phòng ngừa tra tấn trong thời gian tới.


5

Kết quả nghiên cứu của Luận án góp phần bổ sung cơ sở lý luận về nội luật
hóa các ĐƯQT mà Việt Nam đã ký kết nói chung và Cơng ước Liên Hợp quốc về
chống tra tấn nói riêng; làm rõ những điểm tương đồng, hạn chế trong quy định về
LLK, HCBC trong BLTTHS năm 2015 so với Công ước Liên Hợp quốc về chống
tra tấn và thực tiễn thực hiện phịng ngừa tra tấn tại Việt Nam. Từ đó có một góc
nhìn tồn diện về phịng ngừa tra tấn và là cơ sở để phát triển thêm các công trình
nghiên cứu khoa học khác có liên quan.
Những kiến nghị hoàn thiện dựa trên các căn cứ khoa học sẽ là nguồn tài
liệu, là cơ sở để cơ quan có thẩm quyền tiếp tục nghiên cứu, có thể vận dụng khi
hoàn thiện BLTTHS Việt Nam. Đồng thời, là nguồn tài liệu cho sinh viên, giảng
viên luật học, các nhà khoa học trong quá trình giảng dạy và để cho ĐTV, cán bộ
điều tra, KSV, kiểm tra viên nhận thức được tầm quan trọng của phòng ngừa tra tấn
bảo đảm quyền con người trong hoạt động tố tụng hình sự.



6

TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1 Tình hình nghiên cứu ở nước ngồi
Qua tìm hiểu trên thế giới, hiện nay có nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan
đến đề tài Luận án như: thực hiện ĐƯQT của quốc gia; bình luận chung về tra tấn,
quyền con người; phòng ngừa tra tấn và bảo đảm quyền con người của một số quốc
gia khi tham gia Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn... Các tài liệu này có thể
được chia thành các nhóm vấn đề sau:
Thứ nhất, cơng trình nghiên cứu về thực hiện ĐƯQT của quốc gia thành viên

Trên thế giới, có hai trường phái giải quyết về mối quan hệ giữa ĐƯQT và hệ
thống pháp luật quốc gia. Trường phái nhất nguyên luận (monism) cho rằng ĐƯQT và
luật pháp quốc gia là hai mặt thống nhất của hệ thống luật pháp, khi đã ký kết hoặc
tham gia ĐƯQT thì có thể áp dụng trực tiếp quy định của ĐƯQT trong nội bộ quốc gia.
Trong khi đó, trường phái nhị nguyên luận (dualism) cho rằng luật pháp quốc tế và
pháp luật quốc gia là hai hệ thống pháp luật tách biệt. ĐƯQT có hiệu lực thi hành trong
phạm vi quốc gia sau khi đã được “chuyển hóa” hay nội luật hố một cách thích hợp
bằng văn bản pháp luật. Tuy nhiên, có một số quốc gia kết hợp cả hai quan điểm nhất
nguyên luận và nhị nguyên luận cho vấn đề thực hiện ĐƯQT tại quốc gia của mình.
Trong cơng trình nghiên cứu “The incorporation of public international law
into municipal law and regional law against the background of the dichotomy between
7

monism and dualism” (tạm dịch, kết hợp luật quốc tế vào luật quốc gia và luật khu
vực trên nền tảng thuyết nhất nguyên luận và nhị nguyên luận), (2014) của tác giả G
Ferreira & A Ferreira-Snyman. Các tác giả đã bàn luận về lý thuyết Nhất nguyên luận
và Nhị nguyên luận và cho rằng các học thuyết này đại diện cho hai cách tiếp cận khác
nhau đối với mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Theo cách tiếp

cận Nhất nguyên luận, pháp luật quốc tế được thực thi trước Tòa án quốc gia mà không
cần đưa vào pháp luật quốc gia. Trái lại, cách tiếp cận Nhị nguyên luận lại cho rằng
pháp luật quốc tế phải được chính thức đưa vào pháp luật quốc gia khi Tòa án quốc gia
thực hiện. Tuy nhiên, không phải tất cả hệ thống pháp luật điều rõ ràng theo nhất
nguyên luận hoặc nhị nguyên luận. Sự tách biệt giữa nhất nguyên luận và nhị nguyên
luận là không còn phù hợp để chỉ mối quan hệ giữa pháp luật
7

Xem />

7

quốc tế và pháp luật quốc gia. Bên cạnh đó, cơng trình thảo luận việc tiếp cận nhất
ngun luận và nhị nguyên luận của Tòa án Hiến pháp Nam Phi trong vụ
“Glenister” và Tịa án Cơng lý Châu âu trong vụ “Hungary” để minh họa cho áp
dụng thực tế giữa nhất nguyên luận và nhị nguyên luận trong hệ thống pháp luật
quốc gia và trên cấp độ khu vực.
Cơng trình “The relationship between international law and national law in the
8

case of Kosovo: A constitutional perspective” (tạm dịch, mối liên hệ giữa luật quốc tế
và luật quốc gia trong trường hợp của Kosovo: quan điểm hiến pháp), (2011) tác giả
Visar Morina, Fisnik Korenica, Dren Doli. Cơng trình đề cập đến mối quan hệ giữa
pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia ở Kosovo. Đồng thời, dùng Hiến pháp để trả lời
các câu hỏi về mối quan hệ giữa ĐƯQT và trật tự pháp lý trong nước ở Kosovo; mối
quan hệ giữa pháp luật tập quán quốc tế và trật tự pháp lý trong nước ở Kosovo; mối
quan hệ giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia trong lĩnh vực nhân quyền. Tác
giả bài viết cũng cho rằng, căn cứ vào quy định Hiến pháp, Kosovo đi theo thuyết nhất
nguyên luận cho mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia, đồng thời
thừa nhận tính áp dụng ĐƯQT vào pháp luật trong nước.


Thứ hai, công trình nghiên cứu bình luận về tra tấn; hình thức tra tấn
trong thực tiễn
9

“The United Nations Convention Against Torture,” (tạm dịch, Công ước Liên
Hợp quốc về chống tra tấn), (2008) tác giả Manfred Nowak, Elizabeth McArthur. Đây
được xem là nguồn tài liệu đầy đủ nhất, được nghiên cứu, biên soạn bởi những tác giả
là nhà nghiên cứu nổi tiếng về vấn đề nhân quyền. GS. Manfred Nowak (người được
Chủ tịch Ủy ban nhân quyền Liên Hợp quốc chỉ định là báo cáo viên đặc biệt về chống
tra tấn) đã giải thích về Tra tấn tại Điều 1 của Cơng ước Liên Hợp quốc về chống tra
tấn như sau: “Tra tấn được hiểu là bất kỳ hành vi nào cố ý gây đau đớn hoặc khổ đau
nghiêm trọng về thể chất hay tinh thần cho một người, vì những mục đích như lấy
thơng tin hoặc lời thú tội từ người đó hay một người thứ ba, hoặc để trừng phạt người
đó vì một hành vi mà người đó hay người thứ ba thực hiện hay bị nghi ngờ đã thực
hiện”. Tác giả đã đi vào phân tích “Tra tấn” khơng chỉ là các hành vi đánh đập về thể
chất như: sốc điện vào các bộ phận sinh dục, rút móng tay… mà

8

International Journal of Constitutional Law, Oxford Academic, Volume 9, Issue 1, 1 January
2011, P. 1-4
9 Manferd Nowak, Elizabeth McArthur (2008), “The United Natrions Convention Against Torture”, Oxford
University Press.


8

cịn có các hành vi tra tấn về tinh thần: bỏ đói, uy hiếp về tinh thần, thẩm vấn xuyên
đêm kéo dài, tra tấn tình dục… làm cho nạn nhân đau khổ và lâm vào tình trạng khủng

hoảng tinh thần, tuyệt vọng. Việc cấm tra tấn về thể chất và tinh thần được bảo đảm
theo các điều khoản mạnh nhất theo luật quốc tế. Nó được bảo vệ như một quyền tuyệt
đối, không được phương hại đến ngay cả trong thời chiến tranh hoặc tình trạng khẩn
cấp. Bên cạnh đó, tác giả cịn đi vào phân tích khi tham gia Công ước Liên Hợp quốc
về chống tra tấn, quốc gia thành viên phải có nghĩa vụ phịng ngừa các hành vi tra tấn
bằng nhiều hình thức như: hình sự hóa hành vi tra tấn, có các biện pháp bảo vệ trong
giai đoạn điều tra sơ bộ, đào tạo nhân viên thực thi cơng vụ; q trình thẩm vấn tù
nhân; các quyền khiếu nại của phạm nhân khi bị tra tấn, quyền được bồi thường thiệt
hại khi phát hiện tra tấn…Đặc biệt, trong cơng trình nghiên cứu, tác giả cịn nêu lên các
trình tự, thủ tục, hoạt động giám sát của Ủy ban chống tra tấn; phân biệt giữa tra tấn và
đối xử vô nhân đạo hay hạ nhục, tàn nhẫn và nguyên tắc không chấp nhận bằng chứng
do bị tra tấn. Đây là một trong những nội dung quan trọng để tác giả có thể nhận diện
được thế nào là tra tấn nhằm xây dựng hệ thống cơ sở lý luận tại chương
1. Ngồi ra, tồn văn của bài bình luận về Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn
cũng cung cấp bối cảnh lịch sử và phân tích kỹ lưỡng về luật pháp và thực tiễn từ các
Tòa án quốc tế và khu vực và các cơ quan giám sát. Các quy định pháp lý liên quan đến
các Tòa án trong nước (như của House of Lord trong vụ kiện của Pinochet) cũng như
thảo luận về các quy định của các uỷ ban chống tra tấn khi kiểm tra nhà tù. “The
Torture Reporting Handbook”

10

(tạm dịch, sổ tay báo cáo tra tấn), (2000) của tác giả

Camille Giffard. Đây là tài liệu ghi lại các cáo buộc tra tấn và trả lời các cáo buộc tra tấn
trong hệ thống quốc tế bảo vệ quyền con người. Trong tài liệu này đưa ra cách hiểu về tra
tấn (What’s Torture) theo quy định tại Điều 1 của Công ước Liên Hợp quốc về chống tra
tấn. Từ quy định của Điều 1 tài liệu đã nêu ra ba vấn đề quan trọng của Tra tấn đó là:
Tra tấn phải gây đau đớn về thể chất hoặc tinh thần; được thực hiện bởi người của cơ quan
nhà nước hoặc được sự đồng ý của cấp trên; nhằm mục đích lấy thơng tin từ người bị tra

tấn. Đồng thời cũng đưa ra cách hiểu về đối xử tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con
người sẽ có mức độ đau khổ ít nghiêm trọng (thấp hơn) so với tra tấn. Các hình thức đối xử
được cho là không phải tra tấn khi không được gây ra cho một mục đích cụ thể.

Nhưng phải có ý định đưa các cá nhân đến các điều kiện hoặc dẫn đến việc đối xử tệ.
Cơng trình cũng đi đến phân tích nạn nhân của tra tấn có thể là bất kỳ ai: đàn ông, đàn

10

Camille Giffard (2000), The Torture Reporting Handbook, Human Rights Centre, University of Essex.


9

bà, người già, trẻ em, tơn giáo, khơng có tơn giáo, trí thức hay nơng dân đều có thể là nạn
nhân của tra tấn và thường tập trung là những người có liên quan đến vấn đề chính trị (bất
đồng quan điểm chính trị) phản đối chính quyền, hồi giáo, những người bị buộc tội đang
đối mặt với hệ thống tư pháp hình sự… Đồng thời đưa ra các bằng chứng cho rằng nạn
nhân đã bị tra tấn về thể chất (màu sắc da, vết bỏng, bầm tím của bất kỳ thương tích
nào….) hoặc tra tấn tinh thần. Tuy tra tấn tinh thần không để lại bất cứ dấu vết vật

lý nào nhưng sẽ để lại những ảnh hưởng tâm lý, tư tưởng sâu sắc cho nạn nhân. Có
thể xác định qua tư tưởng, hành vi, nỗi sợ hãi, các cơn ác mộng bị đe dọa giết…
Vấn đề này cần phải có một chuyên gia về tâm lý để xác định cụ thể.
“A History of Torture,”

11

(tạm dịch, lịch sử của tra tấn), (2007), của tác giả Jame


Ross cung cấp thông tin về lịch sử về tra tấn và chống tra tấn của nhân loại. Theo tác giả,
Tra tấn đã có từ rất xưa, ngay cả trong lý luận và thực tiễn. Mọi tình huống sử dụng tra tấn
để gây đau đớn (cả thể chất và tinh thần) đối với người khác điều bị lên án. Tất cả các ý
kiến về chống hành vi tra tấn đều dựa trên cách tiếp cận từ vấn đề từ đạo đức và quyền con
người. Bên cạnh đó, tác giả đã chỉ ra rằng: mọi ý kiến chống đối tra tấn dường như được
tìm thấy trong các nội dung của văn bản pháp lý về quyền con người. Điều này được ông
kết luận sau khi nghiên cứu về cách thức sử dụng tra tấn trong lịch sử tư pháp thế giới, bất
cứ hình thức tra tấn nào cũng phản ảnh bản chất đi ngược công lý, vô đạo đức và xâm
phạm nhân quyền. “The shape of modern Torture”

12

(tạm dịch, hình thức của tra tấn hiện

đại), (2005), của tác giả John T.Parry. Đây là bình luận của tác giả qua xem xét các cuộc
tranh luận quốc tế hiện nay về “tra tấn” trong khuôn khổ quyền lực của Nhà nước hiện đại.
Mục tiêu của bình luận này là kết hợp hai cách suy nghĩ về “tra tấn” và các hình thức
“cưỡng bách điều tra và thẩm vấn có liên quan”. Phân tích pháp lý về một số vấn đề liên
quan đến tra tấn, đặc biệt liên quan đến việc thực hiện diễn ra bất thường (sử dụng vũ lực,
chứ khơng phải là q trình pháp lý).
“Extraordinary renditions and the protection of human rights” 13 (tạm dịch, những
đề xuất về bảo vệ quyền con người), (2010), của tác giả Manfred Nowak, Roland Schmidt.
Đây là kết quả của cuộc Hội thảo của viện nhân quyền Ludwig Boltsmann tổ chức vào
ngày 6,7 tháng 10 năm 2008. Trong đó nêu lên sau hậu quả khủng bố ngày 11/9 tại Mỹ,
chính quyền Bush cùng với đồng minh đã bắt cóc các đối tượng bị tình nghi khủng bố mà
khơng theo đúng thủ tục và đưa họ đến những nơi bí mật giam giữ. Tại

11

Kenneth Roth and Minky worden,Amy D.Bernstein ,“A Human Rights Perspective”,

(2007), P. 1-17. 12Xem .

13

Xem />

10

đây, họ đã bị thẩm vấn tăng cường bằng nhiều biện pháp khác nhau. Đây được gọi là
những hành vi vi phạm nhân quyền trầm trọng nhất trong cái gọi là “cuộc chiến chống
khủng bố”. Các nghi phạm đã được vận chuyển trong các máy bay riêng của CIA,
không tuân thủ luật hàng không quốc tế và đưa cho các đồng minh sẵn sàng tra tấn.
14

“Does it Make Us Safer? Is it Ever Ok? A Human Right Perspective” , (tạm dịch, có
thật sự làm cho chúng ta an tồn, có bao giờ ổn chưa, quan điểm về nhân quyền),
(2007), được biên tập bởi Kenneth Roth và Minky Worden hợp tác xuất bản. Trong
cuốn sách này có 12 bài luận của các nhà tư tưởng hàng đầu và các chuyên gia về lịch
sử và các lục địa, cung cấp một thăm dò chi tiết của chủ đề tra tấn. Bao gồm Reed
Brody trên đường tới Abu Ghraib và “những người bị ma quỷ”; Eitan Felner về kinh
nghiệm của Israel; Tom Malinowski về vi phạm “cấm thực hành” của Bộ Ngoại giao tại
Abu Ghraib và ở Afghanistan; Kenneth Roth về sự thay đổi của chính phủ Hoa Kỳ từ
sự che đậy sang biện minh; Minky Worden về một cuộc khảo sát toàn cầu về các quốc
gia đang tra tấn… Tác giả Roth cho rằng các hình thức ngược đãi thường là kênh để
dẫn đến tra tấn. Do đó, tra tấn phải được cấm trong mọi trường hợp, một số câu hỏi
chính bao gồm làm thế nào để xác định tra tấn, cho dù tra tấn có hiệu quả hay khơng và
liệu nó có thể chấp nhận được hay khơng.

Thứ ba, các cơng trình phịng ngừa tra tấn trong lĩnh vực tố tụng hình sự
của một số quốc gia

Phịng ngừa tra tấn là một trong những yêu cầu đặt ra của Công ước Liên Hợp
quốc về chống tra tấn đối với các quốc gia thành viên khi đã phê chuẩn. Hình thức
phịng ngừa bao gồm: quy trình cụ thể quá trình thẩm vấn, quy trình bắt người bị nghi
thực hiện tội phạm, tuyên truyền cho các nhân viên thực thi pháp luật để phịng ngừa
15

tra tấn… có thể nêu lên một số cơng trình như: “A handbook for public officials” ,
(tạm dịch, sổ tay cảnh sát), (2008), của tác giả Wayne K.Lemieux. Đây là cẩm nang
cung cấp thông tin hướng dẫn pháp luật cho nhân viên thực thi pháp luật làm thế nào để
chấm dứt hành vi tra tấn trong công việc thường ngày của họ. Bên cạnh đó cịn nêu lên
trách nhiệm bảo vệ quyền con người và sự tôn trọng đối với cá nhân và nêu lên một số
vụ việc cụ thể sử dụng quá mức, trái pháp luật để tra tấn nhằm có một lời thú tội hoặc
thơng tin từ một nghi can trong VAHS. “Police and criminal Evidence Act

14

Kenneth Roth, Minky Worden (2007), “Does it make Us Safer? Is it Ever Ok? A Human right
Perspective”, New York.

15

Wayne K.Lemieux (2008), “A handbook for public officials”, United States of America.


11

1984”

16


(tạm dịch, Đạo luật Cảnh sát và chứng cứ phạm tội). Đây là đạo luật của quốc

hội nhằm tạo ra một khuôn khổ pháp lý cho quyền lực của nhân viên Cảnh sát tại Anh
chống tội phạm, cũng như cung cấp các quy trình cho việc thực hiện những quyền lực.
Khi thực hiện quyền lực đối với trường hợp là người chưa thành niên, đạo luật quy định
chi tiết, cụ thể đối với từng hành vi của lực lượng Cảnh sát như: khi bắt giữ người chưa
thành niên, việc đầu tiên là nhân viên Cảnh sát phải thông báo với cha, mẹ của người bị
bắt giữ, người đỡ đầu, cơ quan địa phương… về lý do bị bắt giữ. Về quy trình thẩm vấn
người chưa thành niên, nếu trong trường hợp cha, mẹ, người đỡ đầu của người chưa
thành niên khơng thể có mặt thì nhân viên cảnh sát tiến hành lập văn bản có chữ ký của
người chưa thành niên để chứng minh cuộc thẩm vấn khơng có người lớn tham dự. Tuy
nhiên, việc làm này còn phụ thuộc vào các yếu tố: phải có xác nhận của người đứng
đầu về việc khi thẩm vấn không gây tổn hại xấu đến sức khỏe, tinh thần của người chưa
thành niên. Nếu thẩm vấn có mặt của người lớn thì họ phải khuyên bảo người chưa
thành niên trong quá trình thẩm vấn và giám sát cuộc thẩm vấn diễn ra một cách cơng
bằng và chính xác giúp cuộc điều tra được thuận lợi và tốt đẹp.
Thứ tư, cơng trình nghiên cứu về đối tượng, môi trường thường xảy ra tra tấn
“Understading torture”17 (tạm dịch, dưới sự tra tấn), (2011), của tác giả John
T.Parrty. Tác giả giải thích tra tấn là một bộ phận bình thường của bộ máy cưỡng bức của
nhà nước cho nhiều mục đích khác nhau, bao gồm trật tự cơng cộng; kiểm sốt các nhóm
thiểu số chủng tộc, sắc tộc và tơn giáo vì lợi ích của sự thống trị. Tác giả đưa ra trường hợp
Abu Ghraib liên tục bị cảnh sát bạo lực ở Hoa Kỳ; đàn áp bạo lực đối với các nhóm sắc tộc
thiểu số trong lịch sử Hoa Kỳ; thực hiện quyền lực trong một loạt các liên hệ chính trị, xã
hội và liên cá nhân. “Art of torture”, (tạm dịch, nghệ thuật tra tấn) của tác giả Jeanne
Sarson, Linda MacDonald. Đây là một bài báo nhấn mạnh sự phổ quát hành vi tra tấn mặc
dù đã cam kết của quốc gia, nhân viên nhà nước hoặc tra tấn được gây ra bởi bạo lực gia
đình. Cả hai nhóm này vi phạm quyền con người. Bài viết này tập trung đưa ra các hành vi
tra tấn gây ra bởi bạo lực gia đình hoặc nhóm nhân viên nhà nước dưới hình thức đầu tiên
là đánh đập, tra tấn tình dục và tinh thần. “Human Rights in Closed Environments”,18 (tạm
dịch, quyền con người trong môi trường khép kín), (2014), của tác giả Bronwyn Naylor,

Julie Debeljak, Anita Mackay. Cơng trình đưa ra

16

17

18

Xem />John T.Parrty (2011), “Understading torture”, University of Michigan Press.

Bronwyn Naylor, Julie Debeljak and Anita Mackay (2014), “Human Rights in Closed
Environments”, The Federation Press, Vol 31


12

các nội dung xem xét quyền con người trong môi trường kín: nhà tù, cảnh sát, trung
tâm di trú tạm giam. Tác giả cũng đã đưa ra mối quan tâm về sự tổn thương của người
bị tạm giam; sự căng thẳng giữa tôn trọng các quyền và mối quan tâm an tồn, đảm bảo
một nền văn hóa nhân quyền trong bối cảnh của sự mất cân bằng quyền lực; rút ra
những so sánh của mơi trường khép kín; xem xét vai trò của cơ chế giám sát độc lập
(Thanh tra, Ủy ban nhân quyền) trong việc đảm bảo môi trường khơng bị tra tấn.

1.2 Tình hình nghiên cứu trong nước
Những nghiên cứu về nội luật hóa Cơng ước Liên Hợp quốc chống tra tấn
đối với LLK, HCBC trong BLTTHS năm 2015 hiện nay là chưa có. Đến nay, chỉ có
một số cơng trình khoa học, bài viết trên các tạp chí khoa học chuyên ngành Luật,
các Hội thảo chuyên đề có các nội dung liên quan và tập trung ở một số khía cạnh
mà tác giả có thể tham khảo cho luận án cụ thể:
Thứ nhất, nhóm cơng trình nghiên cứu nội luật hoá quy định của điều

ước quốc tế vào pháp luật quốc gia
Đề tài cấp bộ “Nội luật hóa các quy định của Cơng ước chống tội phạm có tổ
chức xun quốc gia trong bộ luật hình sự Việt Nam” (2016) của PGS,TS Nguyễn Thị
Phương Hoa; Trường Đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh. Cơng trình nghiên cứu nêu
lên cơ sở lý luận cho hoạt động nội luật hoá các quy định của CTOC vào pháp luật Việt
Nam, mà cụ thể là vào BLHS, bao gồm hai nhóm yêu cầu: i) yêu cầu của CTOC về các
nghĩa vụ mà các quốc gia thành viên phải đảm bảo làm tiêu chí cho hoạt động nội luật
hố CTOC; ii) Yêu cầu từ điều kiện, hoàn cảnh tại Việt Nam, bao gồm các cam kết của
Việt Nam về vấn đề thực thi các ĐƯQT nói chung và CTOC nói riêng. Để thực thi
CTOC đáp ứng hai yêu cầu trên, tác giả đã nêu lên căn cứ pháp lý theo quy định của
Công ước Vienna về Luật các điều ước quốc tế năm 1969. Đồng thời dẫn chứng các
học thuyết nội luật hóa các ĐƯQT và một các quốc gia trên thế giới đã áp dụng (nhất
nguyên luận và nhị nguyên luận). Trong hệ nhất nguyên luận, cả pháp luật quốc tế và
quốc gia đều là những phần của một hệ thống pháp luật bao quát. Trong khi đó, ở hệ
nhị nguyên luận pháp luật quốc tế và quốc gia là hai hệ thống tách rời và chỉ có pháp
luật quốc gia có tính ràng buộc pháp lý đối với quốc gia đó. Các nước theo hệ nhị
nguyên luận có thể được chia làm hai loại: loại thứ nhất là những quốc gia nơi “sự phê
chuẩn chính thức của Quốc hội (thường được thực hiện dưới hình thức phê chuẩn
ĐƯQT) là đủ để nội luật hoá một ĐƯQT vào pháp luật quốc gia. ĐƯQT vẫn sẽ được
coi như pháp luật quốc tế sau khi nó được nội luật hố


13

với kết quả là nó sẽ được áp dụng trực tiếp trong hệ thống pháp luật quốc gia.”; hay
nói cách khác việc nội luật hoá chỉ diễn ra về mặt hình thức. Loại thứ hai là những
quốc gia, nơi sự phê chuẩn của Quốc hội khơng phải là chính thức, mà đóng vai trị
một bước trong tiến trình thực thi về mặt lập pháp nội dung của ĐƯQT. Ngoài ra,
tác giả căn cứ vào các văn bản quy phạm pháp luật tại Việt Nam và nhận định
rằng:“Việt Nam không ghi nhận một nguyên tắc nào cho việc xác định mối quan hệ

giữa các điều ước quốc tế và pháp luật trong nước, thực tế khi nói đến thực thi các
điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia thường đồng nghĩa với việc nội luật hố
các điều ước đó vào hệ thống pháp luật quốc gia”. Do đó, tác giả đã đưa ra quan
điểm rằng “nội luật hóa là sự chuyển hóa nội dung các quy phạm của điều ước
quốc tế vào các quy phạm pháp luật trong nước để thi hành”.
Đề tài khoa học cấp Bộ “Nội luật hóa các điều ước quốc tế Việt Nam ký kết
và tham gia phục vụ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế” (2007) do TS. Hoàng
Phước Hiệp làm chủ nhiệm - Cơ quan chủ quản Bộ Tư pháp. Ngoài các quan điểm
về nhất nguyên luật và nhị nguyên luận. Nội luật hóa được tác giả cho cho rằng “là
q trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành các hoạt động cần thiết để
chuyển hoá các quy phạm của điều ước quốc tế thành quy phạm của pháp luật quốc
gia bằng cách ban hành, sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật trong
nước.” Quan điểm này tương đương khái niệm “chuyển hố quy phạm ĐƯQT”, các
quốc gia khơng trực tiếp áp dụng các ĐƯQT mà “chuyển hoá” hay “nội luật hố”
các quy định của nó vào pháp luật quốc gia.
Ngồi 02 cơng trình nghiên cứu nêu trên có thể kể đến một số bài báo khoa
học có liên quan đến nội luật hóa như:
“Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chuyển hóa điều ước quốc tế vào
pháp luật quốc gia”(2003), của Ngô Đức Mạnh, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số
108/2003, Tr.60; “Cơ sở lý luận của hoạt động chuyển hóa Điều ước quốc tế”
(2003), của Lê Mai Anh, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 179/2003, Tr.48; “Nội
luật hóa và vai trị của Nội luật hóa trong việc thực hiện Điều ước quốc tế”(2013),
của Mạc Thị Hồi Thương, Tạp chí nhà nước và pháp luật số 10/2013, Tr.78; “Nội
luật hóa điều ước quốc tế trong luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế
năm 2005-thực trạng và giải pháp” (2015), của Nguyễn Thị Hồng Yến, Đỗ Q
Hồng, Tạp chí Luật học số 10/2015, Tr.71.


14


Thứ hai, nhóm cơng trình nghiên cứu liên quan đến nội luật hố quy định
Cơng ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn vào BLTTHS Việt Nam
Đề tài khoa học cấp cơ sở “Nội luật hóa các quy định của công ước chống tra
tấn về quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam” (2015), của Lương
Thị Mỹ Quỳnh - Trường Đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh. Tác giả tập trung phân
tích những vấn đề về lịch sử về tra tấn và chống tra tấn. Đây là nền tảng cốt lõi về
quyền con người, do đó quan điểm của tác giả cho rằng cần có một cơ chế bảo đảm
quyền của người bị buộc tội khỏi các hành vi tra tấn. Đồng thời, đánh giá mức độ nội
luật hố Cơng ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn về quyền của người buộc tội trong
BLTTHS Việt Nam, để đưa ra những định hướng cần hồn thiện nhằm phịng ngừa
hành vi tra tấn, theo quy định của Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn.

Một số bài viết “Vấn đề cấm tra tấn trong Luật nhân quyền quốc tế và việc
hoàn thiện khung pháp luật về phòng, chống tra tấn ở Việt Nam” (2014) của tác giả
Đào Trí Úc, tại Hội thảo về chống tra tấn - trường Đại học luật Thành phố Hồ Chí
Minh; “Nội luật hóa các quy định của Cơng ước quốc tế về chống tra tấn đối với
hoạt động hỏi cung bị can trong tố tụng hình sự Việt Nam” (2014) của tác giả Võ
Thị Kim Oanh, Lê Thị Thùy Dương (Tạp chí Khoa học pháp lý Trường Đại học luật
Thành phố Hồ Chí Minh, số 3/2014); “Thực hiện nghĩa vụ của quốc gia trong việc
nội luật hóa các quy định của Công ước chống tra tấn trong lĩnh vực tố tụng hình
sự” (2014) của tác giả Trần Văn Độ, tại Hội thảo về chống tra tấn - Trường Đại học
Luật Thành phố Hồ Chí Minh; “Những vấn đề lý luận và thực tiễn và một số giải
pháp giúp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, phạm nhân tự bảo vệ mình tránh
khỏi hành vi tra tấn” (2014) của tác giả Nguyễn Hải Anh, tại Hội thảo đảm bảo thực
thi Công ước chống tra tấn, Cục Pháp chế, Bộ Cơng an; “Trao đổi một số vấn đề về
tình hình tội phạm dùng nhục hình, nguyên nhân và giải pháp phịng ngừa” (2015)
của Nguyễn Bích Thủy, Nguyễn Ngọc Minh Thơng, Tạp chí Nghề Luật, số 05 tháng
10/2015… Các tác giả tập trung phân tích Luật nhân quyền quốc tế; phân tích, đánh
giá các quy định của BLTTHS Việt Nam trong mối tương quan với Công ước Liên
Hợp quốc về chống tra tấn; địa vị pháp lý của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, phạm

nhân và các nguy cơ mà họ có thể phải đối mặt bị tra tấn, nhục hình trong tố tụng
hình sự và vấn đề phòng chống tra tấn theo pháp luật Việt Nam hiện hành. Từ đó
đưa ra các vấn đề cần hồn thiện khung pháp luật Việt Nam (trong đó có BLTTHS)
để phịng ngừa hành vi tra tấn.


15

Thứ ba, nhóm đề tài có liên quan đến LLK, HCBC trong tố tụng hình sự
Sách chuyên khảo “Hỏi cung bị can người chưa thành niên phạm tội về trật
tự xã hội” (2016), của Tác giả Bùi Thành Chung, Nxb Công an nhân dân. Tác giả
cho rằng, Việt Nam là một trong những quốc gia trên thế giới, sớm tham gia Công
ước quốc tế về quyền trẻ em và đã cụ thể hóa nội dung Cơng ước vào hệ thống pháp
luật Việt Nam. Tuy nhiên, trong những năm qua tình hình người chưa thành niên
phạm tội về trật tự xã hội đang có chiều hướng gia tăng và có diễn biến phức tạp.
Trong khi các quy định của pháp luật hiện hành vẫn còn những bất cập nhất định,
chưa thể hiện rõ tính thân thiện phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của đối tượng. Cơ
sở vật chất phục vụ cho việc thu thập chứng cứ (HCBC là người chưa thành niên)
chưa có sự chuyên biệt. Chiến thuật HCBC chưa thể hiện được tính đặc thù dựa trên
cơ sở những đặc điểm tâm, sinh lý. Trình tự thủ tục tố tụng trong hoạt động HCBC
người chưa thành niên còn nhiều thiếu sót, nhiều trường hợp ĐTV khi tiến hành
HCBC người chưa thành niên còn vi phạm pháp luật gây hậu quả nghiêm trọng…
Từ những bất cập nêu trên, tác giả đã đưa ra một số định hướng giải pháp hoàn thiện
cho hoạt động thu thập chứng cứ (HCBC người chưa thành niên) để góp phần bảo
đảm thực thi các công ước quốc tế về quyền trẻ em và nâng cao chất lượng điều tra
khám phá các VAHS.
Luận án tiến sĩ “Sử dụng chứng cứ trong hỏi cung bị can - Những vấn đề lý
luận và thực tiễn” (2011), của tác giả Trần Nguyên Quân. Tác giả làm rõ những vấn
đề cơ bản về sử dụng chứng cứ và chiến thuật HCBC trong điều tra các vụ án của
Cơ quan Cảnh sát điều tra các cấp. Trong đó đưa ra khái niệm, đặc điểm và các

nguyên tắc của hoạt động HCBC, đồng thời đưa ra những hành vi nghiêm cấm trong
q trình HCBC đó là: ĐTV khơng được mạt sát, chửi mắng coi thường bị can;
nghiêm cấm các hành vi bức cung, dùng nhục hình đối với bị can. Đồng thời đã nêu
lên một số hành vi xem là tra tấn như: sử dụng thủ đoạn trái pháp luật buộc bị can
phải khai sai sự thật (thường là những hành vi tác động về thể chất, tâm lý).
Thứ tư, nhóm cơng trình nghiên cứu đảm bảo quyền con người của người
bị buộc tội nhằm phòng ngừa hành vi tra tấn
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Bảo đảm quyền con người trong tố tụng
hình sự Việt Nam” của Nguyễn Thái Phúc (2005). Đề tài nghiên cứu vấn đề quyền con
người, quyền công dân và Nhà nước pháp quyền, bảo đảm quyền con người trong tố
tụng hình sự. Trong đó, đã phát triển lý luận về quyền con người và đảm bảo quyền


16

con người; cơ chế đảm bảo quyền con người trong tố tụng hình sự và các thành tố
của cơ chế; mối quan hệ giữa cải cách tư pháp và mở rộng quyền con người, tăng
cường bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự nước ta. Bên cạnh đó, tác giả
đã làm rõ thực trạng bảo đảm quyền con người trong BLTTHS năm 2003 và đề xuất
các giải pháp hoàn thiện theo hướng mở rộng quyền con người và bảo đảm quyền
con người của những chủ thể tham gia tố tụng.
Luận án tiến sĩ luật học “Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam” (2011) của Lại Văn Trình, tác giả
nghiên cứu các quan niệm về Nhà nước và pháp quyền Xã hội chủ nghĩa và các đặc
trưng của nó; các quyền con người trong Nhà nước pháp quyền; các biện pháp bảo
đảm quyền con người trong nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam; vấn
đề lý luận bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố
tụng hình sự; thực trạng pháp luật Việt Nam về đảm bảo quyền con người của người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Qua đó, Luận án đưa ra một số giải pháp hồn thiện:
ngun tắc cơ bản trong tố tụng hình sự; địa vị pháp lý của các chủ thể; quy định về

biện pháp ngăn chặn; quy định về thủ tục điều tra, truy tố, xét xử…
Luận án tiến sĩ luật học “Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa
thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam” (2014), của Nguyễn Hữu Thế Trạch. Tác
giả đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền bào chữa của bị can, bị cáo là
người chưa thành niên, đưa ra được khái niệm, đặc điểm về quyền bào chữa của bị can,
bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam và quyền bào chữa của
người chưa thành niên của một số nước trên thế giới. Đánh giá thực trạng thực hiện
quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong BLTTHS 2003 và
đưa ra một số bất cập như: BLTTHS chưa có quy định cụ thể ai là người được xem là
người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo là người chưa thành niên để tham gia hoạt
động tố tụng hình sự; quy định về trường hợp cần thiết phải có mặt của đại diện gia
đình bị can trong khi HCBC tại CQĐT còn chưa hợp lý; quy định về thủ tục cấp giấy
chứng nhận bào chữa còn hạn chế do thực tế việc cấp giấy chứng nhận bào chữa không
đảm bảo đúng thời gian quy định… Từ những bất cập trên, tác giả đã đề xuất một số
giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa
thành niên hoạt động thu thập chứng cứ của Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
đảm bảo quyền con người, quyền công dân.


17

1.3 Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu
Đối với tình hình nghiên cứu nước ngồi, phịng ngừa tra tấn được rất nhiều học
giả quan tâm và có nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học ở những khía cạnh khác
nhau. Nhưng có mục đích chung là nhằm bảo vệ và nâng cao quyền con người chống
lại các hành vi tra tấn có thể xảy ra trong thực tế, ở một xã hội văn minh và nhân đạo.
Tuy nhiên, chưa có một cơng trình nghiên cứu về nội luật hố quy định của Công ước
Liên Hợp quốc về chống tra tấn đối với LLK, HCBC trong BLTTHS Việt Nam. Nhưng
tác giả có thể kế thừa một số nội dung để thực hiện luận án tiến sĩ như: giải thích như
thế nào là tra tấn, hình thức tra tấn; mơi trường có thể xảy ra tra tấn, định hướng phòng

ngừa tra tấn của một số quốc gia trong quá trình thẩm vấn… Đây chính là cơ sở và là
tiền đề để xác định có hay khơng “tra tấn” trong q trình giải quyết VAHS, mà cụ thể
là hoạt động thẩm vấn theo quy định của BLTTHS của mỗi quốc gia.

Đối với tình hình nghiên cứu trong nước, phịng ngừa tra tấn trong LLK,
HCBC khi Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ không phải
là chủ đề quá mới. Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu chỉ dưới dạng cơng bố bài
báo khoa học chưa có cơng trình chun sâu. Nhưng đã có những điểm tích cực
như: đánh giá thực trạng tra tấn trong hoạt động tố tụng hình sự, các vấn đề về bảo
vệ quyền con người, hoạt động thu thập chứng cứ và sử dụng chứng cứ là lời khai
để đấu tranh với tội phạm… Đây cũng là một trong những nội dung quan trọng mà
tác giả muốn kế thừa để tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện trong luận án.
Qua đánh giá, các cơng trình nước ngồi và trong nước đã có những điểm
tích cực để có thể học tập và tiếp tục nghiên cứu trong Luận án. Bên cạnh đó, vẫn
cịn có những điểm hạn chế nhất định:
Một là, các tác giả nghiên cứu ở những khía cạnh khác nhau của hoạt động
thu thập chứng cứ nói chung trong BLTTHS Việt Nam năm 2003, có một số bài
nghiên cứu dựa trên các quy định của BLTTHS Việt Nam năm 2015. Tuy nhiên,
chưa đi vào cụ thể đánh giá sự tương đồng và khác biệt quy định của Công ước Liên
Hợp quốc về chống tra tấn đối với LLK, HCBC trong BLTTHS Việt Nam năm 2015
để hiện có hiệu quả Cơng ước.
Hai là, các bài viết chủ yếu phân tích, đánh giá các quy định của BLTTHS Việt
Nam 2003 để làm rõ những bất cập của luật thực định. Từ đó đưa ra các đề xuất, kiến
nghị hồn thiện pháp luật nhằm phịng ngừa tra tấn. Nhưng chưa tiến hành khảo sát cụ
thể về thực trạng tra tấn trong các hoạt động tố tụng hình sự Việt Nam để làm


18

căn cứ cho các đề xuất phòng ngừa tra tấn. Do đó, các đề xuất kiến nghị vẫn mang

tính định hướng, chưa được cụ thể và chưa được đặt trong tổng thể về mối liên hệ
đối với hoạt động thu thập chứng cứ.
Ba là, đa phần các cơng trình chưa tham khảo kinh nghiệm trong quy định
LLK, HCBC (thẩm vấn) của các quốc gia thành viên Công ước Liên Hợp quốc về
chống tra tấn. Trong khi đó đây là nội dung quan trọng để định Việt Nam học tập
kinh nghiệm và hướng hoàn thiện pháp luật.
Với những vấn đề trên, có thể nói rằng chưa có cơng trình nghiên cứu về nội
luật hố quy định của Cơng ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn đối với LLK,
HCBC trong BLTTHS Việt Nam. Tác giả nghiên cứu vấn đề này trong giai đoạn
hiện nay, là rất phù hợp khi mà Đảng và Nhà nước ta, đang tích cực triển khai thi
hành Hiến pháp năm 2013. Nhằm bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền cơng
dân, hướng tới vấn đề hồn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân
dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
2.

Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu

2.1. Cơ sở lý thuyết
2.1.1. Câu hỏi nghiên cứu
Luận án tiến sĩ với đề tài “Nội luật hóa quy định của Cơng ước Liên Hợp
quốc về chống tra tấn đối với lấy lời khai, hỏi cung bị can trong Bộ luật tố tụng
hình sự Việt Nam” được thực hiện nhằm giải quyết các vấn đề được đặt ra dưới
dạng câu hỏi nghiên cứu như sau:
Câu hỏi nghiên cứu tổng qt: nội luật hóa quy định của Cơng ước Liên Hợp
quốc về chống tra tấn đối với LLK, HCBC trong BLTTHS Việt Nam như thế nào để
phòng ngừa tra tấn, nhằm bảo đảm và nâng cao quyền con người trong tố tụng hình
sự Việt Nam.
2.1.2. Lý thuyết nghiên cứu
Các tư tưởng, học thuyết về Nhà nước và pháp luật nói chung; mơ hình tố
tụng hình sự nói riêng.

-

Học thuyết nhất nguyên luận và nhị nguyên luận.

Lý luận về tra tấn theo quy định của Công ước Liên Hợp quốc về chống tra
tấn, các thành tựu về phòng ngừa tra tấn của các tác giả trong và ngoài nước
-

Lý luận về LLK, HCBC trong BLTTHS Việt Nam.


19

2.1.3. Các giả thuyết nghiên cứu
Với tư cách là câu trả lời sơ bộ, cần được chứng minh vào câu hỏi nghiên
cứu của đề tài, các giả thuyết nghiên cứu sau đây được đặt ra:
Giả thuyết tổng quát:
Để bảo vệ quyền con người ,Việt Nam đã gia nhập rất nhiều ĐƯQT (trong đó
có Cơng ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn) và đã đang ban hành, sửa đổi, bổ
sung một số quy phạm pháp luật tố tụng hình sự trong nước, để phịng ngừa tra tấn
trong q trình CQĐT giải quyết VAHS. Bên cạnh những mặt tích cực trong đấu
tranh phịng chống tội phạm để bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản của cơng dân thì
“tra tấn” vẫn còn xảy ra khi tiến hành LLK, HCBC trong hoạt động tố tụng hình sự.
Do cịn có những quy định chưa cụ thể, rõ ràng để phòng ngừa tra tấn. Nên nội luật
hóa các quy định của Cơng ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn đối với LLK,
HCBC trong BLTTHS Việt Nam là một đòi hỏi cần thiết để phòng ngừa tra tấn,
nhằm giải quyết đúng đắn VAHS, tránh tình trạng oan sai.
Giả thuyết cụ thể
Thứ nhất, thực tiễn thi hành ĐƯQT cho thấy có hai cách thức chủ yếu mà các
quốc gia thành viên phải thực hiện khi đã tham gia ký kết đó là: áp dụng trực tiếp hoặc

áp dụng gián tiếp (nội luật hóa). Khi tham gia Công ước Liên Hợp quốc về chống tra
tấn các quốc gia thành viên phải thực hiện các biện pháp hành pháp, lập pháp, tư pháp
để phòng ngừa tra tấn. Xuất phát từ yêu cầu đó, nhằm bảo đảm sự thống nhất, ổn định
trong hệ thống pháp luật quốc gia. Việt Nam cần nội luật hóa các quy định của Công
ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn mà không áp dụng trực tiếp.

Thứ hai, Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn quy định các quốc gia
thành viên phải tiến hành nhiều biện pháp để phòng ngừa tra tấn. BLTTHS năm
2015 tuy đã có một số điểm tương đồng như: quy định tương đối cụ thể về trình tự,
thủ tục, thẩm quyền LLK, HCBC… để phòng ngừa tra tấn. Nhưng vẫn còn một số
quy định chưa thật sự rõ ràng, mang tính tùy nghi khi áp dụng pháp luật. Dẫn đến
những hạn chế trong kỹ thuật lập pháp, do đó tra tấn có thể xảy ra khi người có
thẩm quyền tố tụng tiến hành LLK, HCBC.
Thứ ba, thời gian qua, các vụ án dùng nhục hình, bức cung vẫn còn xảy ra
khi LLK, HCBC như: vụ dùng nhục hình bảy thanh niên ở Sóc Trăng, Huỳnh Ngọc
Tịng ngun ĐTV Cơng an tỉnh Đồng tháp dùng nhục hình khi tiến hành LLK…


20

thực trạng này cho thấy quy định LLK, HCBC vẫn còn những hạn chế nhất định cần
phải được nghiên cứu để hồn thiện.
Thứ tư, hiện nay đã có rất nhiều quốc gia là thành viên của Công ước Liên
Hợp quốc về chống tra tấn. Đây là điều kiện thuận lợi cho Việt Nam để học tập kinh
nghiệm đối với LLK, HCBC trong BLTTHS của các quốc gia này. Đồng thời, căn
cứ vào những điểm cịn khác biệt so với Cơng ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn
và thực trạng LLK, HCBC, để đưa ra các giải pháp hoàn thiện quy định về LLK,
HCBC trong BLTTHS Việt Nam.
2.1.4. Hướng tiếp cận của đề tài nghiên cứu
Nghiên cứu các quy định của luật thực định có liên quan đến đề tài, để làm rõ

những vấn đề lý luận về nội luật hóa, cũng như những thiếu sót, hạn chế, vướng
mắc của quy định LLK, HCBC còn chưa bảo đảm phòng ngừa tra tấn của các Cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Kinh nghiệm của nước ngồi, đã tham gia Cơng ước Liên Hợp quốc về chống
tra tấn trong việc nội luật hóa các quy định của Cơng ước vào pháp luật quốc gia.

Thông qua việc nghiên cứu số liệu của Cục Thống kê tội phạm VKSND tối
cao, Cục điều tra VKSND tối cao, CQĐT các cấp; khảo sát phạm nhân đang chấp
hành án trong các Trại giam của Bộ Công an, khảo sát đối với ĐTV, KSV, luật sư;
thông tin từ báo cáo công tác hàng năm và thông báo rút kinh nghiệm trong giải
quyết án của các Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng cấp tỉnh và trung ương;
thông tin về vụ án bức cung, dùng nhục hình được đăng tải trên các phương tiện
thơng tin đại chúng; phỏng vấn những người tiến hành tố tụng hoặc trực tiếp nghiên
cứu các hồ sơ vụ án điển hình tại công an các đơn vị địa phương.
2.1.5. Dự kiến kết quả nghiên cứu của luận án
Tác giả dự kiến kết quả nghiên cứu của luận án như sau:
Bổ sung, hệ thống lý luận về tra tấn, LLK, HCBC, nội luật hố Cơng ước
Liên Hợp quốc về chống tra tấn vào BLTTHS.
Đánh giá mức độ đáp ứng yêu cầu theo quy định của Công ước Liên Hợp quốc về
chống tra tấn đối với LLK, HCBC trong BLTTHS Việt Nam. Từ đó, làm cơ sở tiến hành
khảo sát thực trạng phịng ngừa tra tấn khi LLK, HCBC trong BLTTHS Việt Nam.

Thực trạng phòng ngừa tra tấn khi tiến hành LLK, HCBC trong theo quy
định của BLTTHS Việt Nam.


21

Kinh nghiệm của nước ngồi về phịng ngừa tra tấn đối với LLK, HCBC trong
BLTTHS của một số quốc gia thành viên Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn.

Kiến nghị giải pháp hồn thiện phịng ngừa tra tấn đối với LLK, HCBC trong
BLTTHS Việt Nam phù hợp với quy định của Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn.

Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần hoàn thiện BLTTHS, đảm bảo
cam kết đối quốc tế về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của cơng dân
trên lãnh thổ Việt Nam. Góp phần nâng cao hiệu quả cơng tác đấu tranh phịng
chống tội phạm để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức giữ
vững an ninh quốc và trật tự an tồn xã hội. Nâng cao uy tín và sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam và các cơ quan thực thi pháp luật.
Luận án cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong các trường Đại học
chuyên ngành luật để phục vụ công tác giảng dạy, nghiên cứu của giảng viên, sinh
viên. Định hướng cho các cán bộ đang làm nhiệm vụ, bảo vệ quyền con người,
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Phát huy tối đa hiệu quả phòng
ngừa, đấu tranh, chống các loại tội phạm.
2.1.5. Nội dung, kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, tổng quan về vấn đề nghiên cứu, kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo, phụ lục thì Luận án cấu trúc gồm 5 chương:
Chương 1: Lý luận về nội luật hóa quy định của Công ước Liên Hợp quốc về chống
tra tấn đối với lấy lời khai, hỏi cung bị can trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam.

Chương 2: Đánh giá quy định về lấy lời khai, hỏi cung bị can trong Bộ tố tụng
hình sự Việt Nam so với quy định của Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn.

Chương 3: Đánh giá thực tiễn áp dụng quy định phòng ngừa tra tấn đối với
lấy lời khai, hỏi cung bị can trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam so với quy định
của Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn.
Chương 4: Kinh nghiệm lập pháp của nước ngồi về Nội luật hóa quy định
của Cơng ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn đối với lấy lời khai, hỏi cung bị can
Chương 5: Kiến nghị về nội luật hóa quy định của Cơng ước Liên Hợp quốc về chống
tra tấn đối với quy định lấy lời khai, hỏi cung bị can trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam.


2.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án vận dụng lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử; vận dụng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về


22

quyền con người, quyền công dân; lý thuyết về khoa học luật hình sự, luật tố tụng
hình sự để thực hiện phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp lịch sử: phương pháp này
được sử dụng ở tất cả các chương của Luận án nhằm trình bày các vấn đề, các nội
dung theo một trình tự, bố cục chặt chẽ, hợp lý, có sự gắn kết, kế thừa có chọn lọc
và phát triển các vấn đề, nội dung để đạt được mục đích và nhiệm vụ đã đề ra.
Phương pháp pháp luật so sánh: so sánh quy định LLK, HCBC với quy định
của Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn để đưa ra những điểm tương đồng và
sự khác biệt, phòng ngừa tra tấn trong BLTTHS Việt Nam năm 2015. Phương pháp
này chủ yếu được sử dụng trong chương 2.
Phương pháp thống kê và phân tích số liệu : sử dụng để điều tra, nghiên cứu
tài liệu, khảo sát thực tế và thống kê tình hình tra tấn, trong quá trình LLK, HCBC
của các Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, được sử dụng trong chương 3.
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm thực tiễn: trên cơ sở thực tiễn, tổng kết
đánh giá những kết quả, tài liệu thu được từ thực tiễn, được sử dụng chủ yếu trong
chương 3 và chương 4.
Phương pháp chuyên gia: tham khảo ý kiến của các chuyên gia nghiên cứu
các vấn đề có liên quan đến bảo đảm quyền con người, chống tra tấn, được sử dụng
chủ yếu trong chương 3 và chương 4.
Phương pháp điều tra điển hình: thu thập thơng tin một số vụ án điển hình có
liên quan và kết quả đảm bảo quyền con người không bị tra tấn trong BLTTHS Việt
Nam, được sử dụng chủ yếu trong chương 3.

Phương pháp điều tra xã hội học: tổ chức phát phiếu điều tra xã hội học để
khảo sát chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội, người bào chữa
về thực trạng tra tấn, được sử dụng trong chương 3.
Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu trên nhằm lý giải cho vấn đề
nghiên cứu và đề xuất các giải pháp hoàn thiện quy định của BLTTHS đối với quy
định LLK, HCBC.


23

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN VỀ NỘI LUẬT HÓA QUY ĐỊNH CỦA CÔNG ƯỚC LIÊN HỢP
QUỐC VỀ CHỐNG TRA TẤN ĐỐI VỚI LẤY LỜI KHAI, HỎI CUNG BỊ
CAN TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm của tra tấn
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm của tra tấn trong các văn kiện quốc tế và nghiên
cứu nước ngoài
Thuật ngữ “tra tấn” được xuất hiện đầu tiên trong bản Tuyên ngôn quốc tế về
nhân quyền ngày 10/12/1948 của Đại hội đồng Liên Hợp quốc tại Pa-ri, Cộng hồ
Pháp. Trong đó liệt kê các quyền cơ bản mà mọi cá nhân được hưởng và là một chuẩn
mực chung về quyền con người cho tất cả các quốc gia, dân tộc phấn đấu thực hiện.
Theo Tuyên ngôn, các quyền cơ bản của con người bao gồm: quyền tự do, bình đẳng về
phẩm giá và các quyền không bị phân biệt, đối xử về chủng tộc, màu da, giới tính, ngơn
ngữ, tơn giáo, chính trị hay quan điểm khác; quyền được sống, khơng bị bắt làm nô lệ,
nô dịch; không tra tấn, đối xử tàn bạo, vô nhân đạo và hạ nhục; quyền được thừa nhận
tư cách như một con người trước pháp luật ở bất cứ nơi nào; quyền được tự do không bị
bắt giữ vô cớ, bị giam cầm hoặc đầy ải; quyền được xét xử công bằng và công khai bởi
một Tịa án độc lập, khơng thiên vị… Tiếp đó, các văn kiện quốc tế khác cũng đề cập
đến quyền không bị tra tấn như: Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (The
International Convenant on Civil and Political Rights - ICCPR) và hai Nghị định thư bổ

sung của Công ước này;

19

Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng năm 1948

(Convention on the Prevention and Punishment of the Crime of Genocide);

20

Công ước

của Châu âu về nhân quyền 1950 (Convention for the Protection of Human Rights and
Fundamental Freedoms);

21

Tuyên bố về bảo vệ mọi người khỏi bị tra tấn và các hình

thức đối xử hay trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hay hạ nhục người khác 1975
(Declaration on the Protection of All Persons from Being

19

Từ Điều 4 đến Điều 21 thừa nhận các quyền dân sự, chính trị khác của con người gồm: tự do
khơng bị bắt làm nô lệ và nô dịch, tự do không bị tra tấn, đối xử tàn bạo, vô nhân đạo và hạ nhục

20

Công ước này liệt kê một số hành vi cố ý tàn phá toàn bộ hay một phần đất nước, dân tộc, chủng tộc

hay một nhóm tơn giáo như: giết người hàng loạt; gây tổn hại nghiêm trọng về thể chất hoặc tinh thần cho hàng
loạt người; chủ tâm bắt một nhóm người phải chịu những điều kiện sống theo dự tính trước nhằm mục đích phá
hoại một phần hay toàn bộ sức khỏe của họ

21

Article 3 of the European Convention on Human Rights “prohibits torture and "in human or
degrading treatment or punishment". There are no exceptions or limitations on this right. This provision
usually applies, apart from torture, to cases of severe police violence and poor conditions in detention”.


×