Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về địa vị pháp lý của bị can

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.77 KB, 19 trang )

Bài tập học kì môn Luật Tố Tụng Hình Sự

MỤC LỤC
MỤC LỤC.......................................................................................................................................................1
BẢNG TỪ VIẾT TẮT........................................................................................................................................2
LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................................................................................3
NỘI DUNG.....................................................................................................................................................4

1.2. Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về địa vị pháp lý của
bị can.......................................................................................................................5
1.2.1. Quyền của bị can...........................................................................................5
Không phải trong mọi quyết định và hành vi tố tụng của CQTHTT, NTHTT đều
đúng theo quy định của pháp luật. Do vậy, để đảm bảo thực hiện tốt các quy định
của pháp luật cũng như đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bị can thì pháp
luật cho phép bị can có quyền khiếu nại các quyết định và hành vi tố tụng của
CQTHTT, NTHTT. Các chủ thể có thẩm quyền giải quyết khiếu nại phải xem xét
và giải quyết khiếu nại theo đúng quy định và thời hạn mà pháp luật đề ra. Kết
quả xem xét, giải quyết khiếu nại phải được thông báo bằng văn bản cho bị can
biết. 1.2.2. Nghĩa vụ của bị can...............................................................................8
2. ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA BỊ CÁO.......................................................................8
2.1. Khái niệm bị cáo và địa vị pháp lí của bị cáo..................................................8
2.2.1. Quyền của bị cáo...........................................................................................8
2.2.2. Những quy định về nghĩa vụ của bị cáo:.....................................................12
Như vậy, cũng giống như bị can, bị cáo cũng có nghĩa vụ phải có mặt theo giấy
triệu tập của CQTHTT và ở đây là tòa án.............................................................12
II. THỰC TRẠNG ĐẢM QUYỀN LỢI CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO TRONG TỐ
TỤNG HÌNH SỰ:.................................................................................................12
1. Những kết quả đã đạt được từ phía cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng...................................................................................................................12
1.1. Từ phía cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng..........................12
1.2. Từ phía bị can, bị cáo.....................................................................................13


Page 1


Bài tập học kì môn Luật Tố Tụng Hình Sự

1.3. Từ phía những người tham gia tố tụng khác..................................................14
2. Những hạn chế, vướng mắc còn tồn tại............................................................14
2.1. Từ phía người tiến hành tố tụng.....................................................................14
2.2. Từ phía bị can, bị cáo.....................................................................................15
2.3. Từ phía những người tham gia tố tụng khác..................................................15
III. HƯỚNG HOÀN THIỆN NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ ĐỊA
VỊ PHÁP LÝ CỦA BỊ CAN BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ................16
KẾT LUẬN....................................................................................................................................................18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................................................19

BẢNG TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS
BLHS
TNHS

Bộ luật tố tụng hình sự
Bộ luật hình sự
Trách nhiệm hình sự
Page 2


Bài tập học kì môn Luật Tố Tụng Hình Sự

CQTHTT
NTHTT

NTGTT
CQĐT
VKS
NBC

Cơ quan tiến hành tố tụng
Người tiến hành tô tụng
Người tham gia tố tụng
Cơ quan điều tra
Viện kiểm sát
Người bào chữa

LỜI MỞ ĐẦU
Trong TTHS các chủ thể tham gia vào quá trình tố tụng gồm có CQTHTT,
NTHTT và NTGTT. Trong đó bị can, bị cáo là những NTGTT, là đối tượng bị
buộc tội bởi cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Bộ luật tố tụng hình
sự Việt Nam quy định như thế nào là bị can, như thế nào là bị cáo? Và địa vị pháp
lí của bị can, bị cáo ra sao? Để hiểu rõ được những câu hỏi trên, em đã lựa chọn đề
Page 3


Bài tập học kì môn Luật Tố Tụng Hình Sự

tài: “Địa vị pháp lí của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự” để giải quyết cho bài
tập lớn học kì môn luật tố tụng hình sự của mình.

NỘI DUNG
Theo từ điển Luật học, địa vị pháp lí là vị trí của chủ thể pháp luật trong
mối quan hệ với những chủ thể khác trên cơ sở các quy định của pháp luật. Địa vị
pháp lí của chủ thể pháp luật thể hiện thành tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lí

của chủ thể, qua đó xác lập cũng như giới hạn khả năng của chủ thể trong các hoạt
động của mình. Thông qua địa vị pháp lí ta có thể phân biệt được chủ thể pháp luật
này với chủ thể pháp luật khác, đồng thời cũng có thể xem xét vị trí, tầm quan trọng
của chủ thể pháp luật trong mối quan hệ pháp lý. Trong tố tụng hình sự, việc nắm
vững địa vị pháp lí của các chủ thể trong quan hệ pháp luật có vai trò đặc biệt quan
trọng bởi vì khi giải quyết một vụ án phải trải qua rất nhiều giai đoạn khác nhau, và
tại mỗi giai đoạn thì địa vị pháp lí của các chủ thể tham gia tố tụng cũng không
giống nhau. Khi đó việc nắm vững địa vị pháp lí của các chủ thể này sẽ đảm bảo
cho việc thực hiện đúng các thủ tục tố tụng hình sự, đảm bảo xác định đúng sự thật
vụ án, xử lí kịp thời, đúng người đúng tội.
Cùng là đối tượng bị buộc tội trong vụ án hình sự nên quyền và nghĩa vụ của
bị can bị cáo có nhiều điểm giống nhau nhưng địa vị pháp lí của họ có nhiều điểm
khác nhau là do tư cách tham gia tố tụng của bị can bị cáo được hình thành trong
các giai đoạn tố tụng khác nhau. Sau đây, ta sẽ tìm hiểu về khái niệm bị can, bị cáo
và địa vị pháp lí của họ.
I. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
HIỆN HÀNH VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO:
1. ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA BỊ CAN
1.1. Khái niệm bị can và địa vị pháp lí của bị can
Muốn hiểu được địa vị pháp lí của bị can là gì trước hết ta phải nắm được
khái niệm bị can. Theo khoản 1 Điều 49 BLTTHS năm 2003: “bị can là người đã
bị khởi tố về hình sự”. Một người có tư cách bị can kể từ khi có quyết định khởi tố
bị can, họ tham gia vào giai đoạn điều tra, truy tố và một phần của giai đoạn xét xử
sơ thẩm. Tư cách này chấm dứt khi cơ quan điều tra đình chỉ điều tra, Viện kiểm
sát, Tòa án đình chỉ vụ án đối với bị can hoặc Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét
xử.
Page 4


Bài tập học kì môn Luật Tố Tụng Hình Sự


Địa vị pháp lí của bị can là tổng thể các quyền và nghĩa vụ của người đã bị
khởi tố về hình sự trong quá trình tham gia tố tụng hình sự. Địa vị pháp lí của bị
can được phân biệt với địa vị pháp lí của các chủ thể khác chính bằng các quyền và
nghĩa vụ của bị can.
1.2. Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về địa vị pháp lý của
bị can
1.2.1. Quyền của bị can
(1) Quyền được biết mình bị khởi tố về tội gì:
Theo điểm a khoản 2 Điều 49 BLTTHS bị cáo có quyền: “được biết mình bị
khởi tố về tội gì”. Không phải vô cớ mà các nhà làm luật đặt quyền này lên đầu tiên
khi xây dựng các quy định pháp luật về quyền của bị can, bởi đây là quyền rất quan
trọng, quyền đầu tiên và là quyền ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện các quyền
khác của bị can. Thông qua hành vi giao các quyết định tố tụng và giải thích các
quyền và nghĩa vụ của CQTHTT hoặc NTHTT cho bị can thì quyền này được xác
lập. Với sự tống đạt quyết định khởi tố bị can, người bị nghi ngờ phạm tội sẽ biết
được mình bị pháp luật truy tố về tội danh gì, theo điều nào của BLHS để từ đó có
thể tiến hành tự bào chữa hoặc nhờ NBC - bảo đảm quyền lợi cho mình.
Tuy nhiên trên thực tế việc thực hiện quyền này của bị can vẫn chưa thực sự
được đảm bảo vì nhiều lí do. Có thể kể đến như do NTHTT không giải thích cụ thể
cho bị can biết họ bị khởi tố về tội gì; cũng nhiều trường hợp do chính nhận thức
pháp luật của bị can chưa cao, không hiểu cặn kẽ nội dung của các quyết định tố
tụng. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến việc chuẩn bị các tài liệu, chứng cứ của bị
can cũng như tự bào chữa cho mình, gây khó khăn hơn cho công tác điều tra, xác
định sự thật vụ án.
(2) Quyền được giải thích quyền và nghĩa vụ:
Tại điểm b khoản 2 Điều 49 quy định bị can: “được giải thích về quyền và
nghĩa vụ”. Việc giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị can là điều vô cùng cần thiết,
nhất là trong điều kiện nhận thức về pháp luật của nhiều người dân Việt Nam chưa
cao. Việc giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị can cũng chính là việc CQTHTT,

NTHTT chỉ ra cho bị can hiểu rõ địa vị pháp lý của mình. Từ đó họ có thể biết
mình đang trong tình trạng pháp lý nào, đang có quyền và phải có nghĩa vụ gì.
Muốn đảm bảo quyền này yêu cầu CQTHTT, NTHTT có nghĩa vụ giải thích
tường tận cho bị can hiểu rõ họ có những quyền và nghĩa vụ gì khi có tư cách bị
can.

Page 5


Bài tập học kì môn Luật Tố Tụng Hình Sự

Trong thực tế, có nhiều trường hợp bị can không được giải thích cụ thể, chi
tiết về quyền và nghĩa vụ, chỉ được nêu chung chung. Và còn có trường hợp bị can
không hề được giải thích về nghĩa vụ (nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập) của
mình dẫn đến việc bị can vi phạm nghĩa vụ này nên bị truy nã, áp giải trong khi họ
không hề có ý định bỏ trốn.
(3) Quyền được trình bày lời khai:
Tại điểm c khoản 2 Điều 49 BLTTHS 2003 quy định bị can có quyền: “trình
bày lời khai”. Việc khai báo, trình bày lời khai là quyền chứ không phải là nghĩa vụ
của bị can. Do đó bị can có thể khai báo hoặc không khai báo trước CQTHTT,
NTHTT. Pháp luật không đặt ra trách nhiệm cho bị can trong trường hợp bị can
không khai báo hay khai báo không đúng sự thật. Tuy nhiên bị can được pháp luật
khuyến khích khai báo sự thật một cách thành khẩn để giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự cho mình (Điều 46 BLHS).
Đặt ra quyền này pháp luật yêu cầu cơ quan điều tra phải tôn trọng phần trình
bày lời khai của bị can để có thể xác định sự thật một cách khách quan, không
phiến diện. Đặc biệt NTHTT không được phép dùng các biện pháp trái pháp luật
(mớm cung, bức cung, nhục hình,…) để buộc bị can phải khai báo, điều đó xâm hại
nghiêm trọng đến quyền của bị can và có thể dẫn tới sai lầm trong kết quả điều tra.
(4) Quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu:

Theo điểm d khoản 2 Điều 49 bị can có quyền cung cấp những tài liệu, đồ
vật có liên quan đến vụ án cũng như những yêu cầu như: trưng cầu giám định, giám
định bổ sung... Khi cơ quan điều tra nhận được các tài liệu, đồ vật đó thì họ phải
tiến hành kiểm tra, đánh giá khách quan để xác định các tài liệu đồ vật đó có phải là
chứng cứ trong vụ án hay không.
Thực tế, CQTHTT và NTHTT không xem xét một cách khách quan những
chứng cứ hay yêu cầu mà bị can đưa ra đã vội vàng bác bỏ khi thấy chúng không
phù hợp với hướng điều tra của mình. Ta có thể thấy biểu hiện của sự vi phạm ngay
trong cách đặt câu hỏi với bị can. Những câu hỏi chỉ có dạng trả lời là “có” hay
“không” đã không gợi mở và tạo cho bị can cơ hội được đưa ra những chứng cứ và
yêu cầu của mình.
(5) Quyền được đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định,
người phiên dịch:
Sự thật vụ án chỉ được xác định một cách chính xác nếu các chủ thể trên thực
hiện tốt được vai trò của mình trong mỗi giai đoạn của tố tụng hình sự. Bởi vậy, khi
có căn cứ rõ ràng để cho rằng NTHTT, người giám định, người phiên dịch không
Page 6


Bài tập học kì môn Luật Tố Tụng Hình Sự

vô tư trong khi làm nhiệm vụ thì bị can có quyền đề nghị việc thay đổi để đảm bảo
vụ án được điều tra xét xử một cách công khai minh bạch, sự thật của vụ án được
xác định một cách khách quan, công bằng.
(6) Quyền được tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa:
Đây là một quyền quan trọng của bị can trong TTHS quy định tại điểm e
khoản 2 Điều 49, bị can có quyền: “tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa”.
Theo đó bị can có quyền dùng những lý lẽ và chứng cứ để gỡ tội và để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Quyền tự bào chữa không phải là quyền độc
lập mà nó chính là sự tổng hòa các quyền của bị can trong TTHS. Ngoài việc bị can

đưa ra những lý lẽ, chứng cứ để gỡ tội cho mình thì bị can còn thực hiện quyền tự
bào chữa của mình thông qua việc thực hiện các quyền như quyền trình bày lời
khai, quyền đưa ra tài liệu đồ vật, yêu cầu… Việc thực hiện các quyền này của bị
can không chỉ nhằm gỡ tội cho bị can mà còn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
khác của bị can.
Thông qua quyền tự bào chữa của bị can thì Nhà nước đã cho phép bị can tự
vệ, chống lại sự buộc tội của CQTHTT, NTHTT. Nhận thấy, quy định này của
pháp luật đã thể hiện sự bình đẳng giữa bị can với NTHTT. Ngoài ra, bị can còn có
quyền nhờ người khác bào chữa cho mình. Người được bị can nhờ bào chữa phải là
người có đủ tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật.
(7) Quyền được nhận các quyết định và văn bản tố tụng:
Theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 49 thì bị can có quyền: “được nhận
các quyết định khởi tố, quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn
chặn, bản kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra, quyết định
đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; bản cáo trạng, quyết định truy tố và các quyết định tố
tụng khác theo quy định của bộ luật này”. Các quyết định và các văn bản tố tụng
trên có liên quan trực tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ của bị can. Được nhận các loại
văn bản trên nhằm tạo điều kiện cho bị can có thể thực hiện tốt quyền bào chữa và
các quyền tố tụng khác của mình. Đồng thời, quyết định này đòi hỏi các CQTHTT,
NTHTT phải tiến hành các trình tự tố tụng đúng quy định của pháp luật, các quyết
định tố tụng cũng phải được đưa ra dưới hình thức văn bản, có căn cứ và đúng pháp
luật.
(8) Quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng:

Page 7


Bài tập học kì môn Luật Tố Tụng Hình Sự


Không phải trong mọi quyết định và hành vi tố tụng của CQTHTT, NTHTT
đều đúng theo quy định của pháp luật. Do vậy, để đảm bảo thực hiện tốt các quy
định của pháp luật cũng như đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bị can thì pháp
luật cho phép bị can có quyền khiếu nại các quyết định và hành vi tố tụng của
CQTHTT, NTHTT. Các chủ thể có thẩm quyền giải quyết khiếu nại phải xem xét
và giải quyết khiếu nại theo đúng quy định và thời hạn mà pháp luật đề ra. Kết quả
xem xét, giải quyết khiếu nại phải được thông báo bằng văn bản cho bị can biết.
1.2.2. Nghĩa vụ của bị can
Bị can là đối tượng bị buộc tội, còn CQTHTT là chủ thể có nghĩa vụ phải
chứng minh hành vi phạm tội và đưa ra kết luận cuối cùng để giải quyết vụ án, do
đó pháp luật không quy định nhiều về nghĩa vụ của bị can.
Bị can phải có mặt theo giấy triệu tập của CQĐT, VKS. Trong trường hợp bị
can được tại ngoại, khi cần triệu tập bị can để tiến hành các hoạt động điều tra hoặc
các hoạt động tố tụng khác, CQTHTT phải triệu tập bị can bằng giấy triệu tập theo
đúng thủ tục luật định. Bị can có nghĩa vụ phải có mặt theo giấy triệu tập của
CQTHTT, nếu vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể bị áp giải; nếu bỏ
trốn thì bị truy nã.
2. ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA BỊ CÁO
2.1. Khái niệm bị cáo và địa vị pháp lí của bị cáo
Theo quy định tại khoản 1 Điều 50 BLTTHS 2003: “bị cáo là người đã bị
Tòa án quyết định đưa ra xét xử”. Bị cáo tham gia tố tụng từ khi có quyết định đưa
vụ án ra xét xử đến khi bản án hoặc quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Cũng tương tự như bị can, địa vị pháp lí của bị cáo là tổng thể các quyền và
nghĩa vụ của người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử trong quá trình tham gia
tố tụng hình sự. Địa vị pháp lí của bị cáo được phân biệt với địa vị pháp lí của các
chủ thể khác chính bằng các quyền và nghĩa vụ của bị cáo.
2.2. Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về địa vị pháp lý của
bị cáo
2.2.1. Quyền của bị cáo
(1) Quyền được nhận các quyết định, văn bản tố tụng:

Điểm a khoản 2 Điều 50 BLTTHS quy định bị cáo có quyền: “được nhận
quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện
pháp ngăn chặn, quyết định đình chỉ vụ án, bản án, quyết định của Tòa án, các
quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này”. Quyền được nhận quyết
định đưa vụ án ra xét xử là quyền quan trọng của bị cáo. Quyết định đó sẽ khiến
Page 8


Bài tập học kì môn Luật Tố Tụng Hình Sự

người bị buộc tội chuyển từ tư cách bị can sang tư cách bị cáo. Dựa vào nội dung
của quyết định đưa vụ án ra xét xử, bị cáo được biết tội danh họ bị đưa ra xét xử,
thời gian, địa điểm mở phiên tòa, tên của NTGTT,… Trên cơ sở đó, họ mới có thể
thực hiện các quyền của mình như quyền tham gia phiên tòa, quyền đề nghị thay
đổi người tiến hành hoặc tham gia tố tụng, quyền yêu cầu xem xét thêm vật chứng
mới… và nhất là quyền được bào chữa. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải được
giao cho bị cáo chậm nhất là 10 ngày trước khi mở phiên tòa. Nếu không được đảm
bảo quyền này, bị cáo có quyền yêu cầu hoãn phiên tòa.
Bị cáo cũng có quyền được nhận các quyết định khác có liên quan đến quyền
và nghĩa vụ của bị cáo như quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp
ngăn chặn; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án, bản án; quyết định của Tòa án
và các quyết định khác theo quy định của pháp luật. Các quyết định này là căn cứ
pháp lý để bị cáo thực hiện các quyền và nghĩa vụ có liên quan đến các quyết định
đó.
(2) Quyền tham gia phiên tòa:
Đây là quyền vô cùng quan trọng của bị cáo trong TTHS, vì phiên tòa là nơi
diễn ra hoạt động thẩm vấn xét xử công khai. Bản án quyết định của tòa án phải
dựa trên những chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa. Quyền này sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho việc bị cáo thực hiện các quyền bào chữa và bảo vệ các quyền
lợi hợp pháp của mình… Hơn nữa đây không chỉ là quyền mà còn là vấn đề có tính

nguyên tắc, thể hiện sự bình đẳng, khách quan trong TTHS đó là bình đẳng giữa
một bên là Hội đồng xét xử, kiểm sát viên – chủ thể mang quyền lực nhà nước và
một bên là bị cáo – người bị buộc tội. Tại phiên tòa bị cáo sẽ bình đẳng với Kiểm
sát viên và những người tham gia tố tụng khác trong việc đưa ra chứng cứ tài liệu
đồ vật yêu cầu và tranh luận dân chủ tại phiên tòa.
Đây đồng thời là quyền nhưng cũng là nghĩa vụ vì Điều 187 BLTTHS 2003
đã quy định rõ. Pháp luật quy định sự có mặt của bị cáo tại phiên tòa xét xử sẽ đảm
bảo cho bị cáo thực hiện tốt việc bảo vệ quyền lợi của mình. Hơn nữa, sự có mặt
của bị cáo tại phiên tòa còn thể hiện tính công khai minh bạch khi xét xử, đảm bảo
được quyền bình đẳng trước tòa của bị cáo. Tuy nhiên không phải trong mọi trường
hợp bị cáo đều thực hiện tốt quyền hay cũng là nghĩa vụ tham gia phiên tòa nên để
đảm bảo cho việc xét xử được tiến hành thuận lợi thì khoản 2 Điều 178 đã quy định
Tòa án có thể xét xử vắng mặt bị cáo.
(3) Quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ:

Page 9


Bài tập học kì môn Luật Tố Tụng Hình Sự

Theo quy định tại Điều 201 BLTTHS về thủ tục bắt đầu phiên tòa thì Chủ
tọa phiên tòa sẽ giải thích cho bị cáo biết về quyền và nghĩa vụ của họ. Từ đó giúp
bị cáo thực hiện hiệu quả hơn các quyền tố tụng của mình, đặc biệt là quyền tự bào
chữa và quyền đưa tài liệu, đồ vật yêu cầu và quyền kháng cáo.
Tuy nhiên thiết nghĩ việc bị cáo được Chủ tọa phiên tòa giải thích quyền và
nghĩa vụ trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa có phải là muộn hay không? Vì từ khi
có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì bị cáo đã có các quyền và nghĩa vụ luật định
và phải đến khi phiên tòa xét xử diễn ra thì bị cáo mới được giải thích rõ. Điều này
có thể gây ảnh hưởng lớn trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của bị cáo.
Do không được biết trước nên bị cáo thường không có sự chuẩn bị cho mình để

thực hiện các quyền và nghĩa vụ tốt nhất và trong nhiều trường hợp, bị cáo không
có sự chuẩn bị để đưa ra những tài liệu đồ vật hay yêu cầu có ý nghĩa đối với việc
gỡ tội hay xác minh sự thật của vụ án. Do vậy, nên kèm theo một văn bản có nội
dung về quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong khi trong khi giao quyết định đưa vụ án
ra xét xử.
(4) Quyền đề nghị thay đồi người tiến hành tố tụng, người giám định, người
phiên dịch theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự:
Bị cáo là đối tượng được đưa ra xét xử, là đối tượng buộc tội trong vụ án
hình sự, việc xét xử như thế nào ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của bị
cáo, vì vậy bị cáo có quyền được đề nghị thay đổi NTHTT, người giám định, người
phiên dịch khi có căn cứ rõ ràng để cho rằng những người này có thể không vô tư
trong khi làm nhiệm vụ. Bị cáo có thể thực hiện quyền này trước hoặc tại phiên tòa
xét xử trước khi Hội đồng xét xử hỏi. Chánh án Tòa án Hội đồng xét xử phải xem
xét và giải quyết yêu cầu của bị cáo, khi cần thiết phải hoãn phiên tòa.
(5) Quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu:
Bị cáo có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật tại phiên tòa xét xử. Những tài liệu, đồ
vật mà bị cáo đưa ra thông thường có ý nghĩa gỡ tội cho bị cáo, chứng minh bị cáo
không phạm tội hoặc chứng minh những tình tiết giảm nhẹ TNHS cho bị cáo. Hội
đồng xét xử phải kiểm tra, xác minh và đánh giá các đồ vật, tài liệu đó có phải là
chứng cứ trong vụ án không và giá trị của nó trong việc xác định sự thật của vụ án.
Bị cáo cũng có quyền đưa ra những yêu cầu như yêu cầu triệu tập thêm
người làm chứng hoặc yêu cầu đưa thêm vật chứng, tài liệu xem xét, yêu cầu hoãn
phiên tòa … Các yêu cầu này phải được Tòa án xem xét giải quyết.
(6) Quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa:

Page 10


Bài tập học kì môn Luật Tố Tụng Hình Sự


Quyền bào chữa được thực hiện ngay từ khi một người bị khởi tố về hình sự,
khi họ trở thành đối tượng buộc tội và được thực hiện quyền trong suốt quá trình
điều tra, truy tố, xét xử dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhưng quyền này được thể
hiện rõ nét nhất qua việc bị cáo tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa tại
phiên tòa. Trong khi tranh luận, bị cáo trình bày lời bào chữa, nếu bị cáo có người
bào chữa thì người này bào chữa cho bị cáo và bị cáo có quyền bổ sung ý kiến của
mình. Tòa án phải tông trọng quyền bào chữa của bị cáo. Việc tôn trọng quyền bào
chữa của bị cáo không chỉ là đảm bảo quyền lợi cho bị cáo, thể hiện tính nhân đạo
và dân chủ trong tố tụng hình sự mà còn là đảm bảo quan trọng để xác định sự thật
của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ.
(7) Quyền trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa:
Bị cáo có quyền đưa ra ý kiến, những lập luận của mình và đối đáp với
những ý kiến không thống nhất của các chủ thể khác. Quyền này được quy định tại
Điều 218 BLTTHS nó thể hiện sự bình đẳng, khách quan trong quá trình xét xử qua
việc bị cáo phát biểu ý kiến, đưa ra yêu cầu cũng như đối đáp với Kiểm sát viên tại
phiên tòa.
Trên thực tế quyền này của bị cáo nhiều khi chưa được đảm bảo do những
NTHTT không tôn trọng bị cáo, có thái độ xem nhẹ quyền này bằng việc cắt ngang
hoặc không lắng nghe bị cáo trình bày.
(8) Quyền nói lời sau cùng trước khi nghị án:
Sau khi Hội đồng xét xử kết thúc xét xử và tranh luận, bị cáo được nói lời
sau cùng trước khi nghị án. Pháp luật quy định quyền này là tạo điều kiện để bị cáo
có cơ hội được bày tỏ thái độ và nguyện vọng của mình trước khi Hội đồng xét xử
đưa ra những quyết định đối với vụ án. Trong khi nói lời sau cùng, bị cáo có quyền
trình bày mọi vấn đề liên quan đến vụ án, tỏ thái độ của mình đối với việc buộc
tội… Hội đồng xét xử phải chú ý và tôn trọng quyền nói lời sau cùng trước khi nghị
án. Nhiều trường hợp, khi nói lời sau cùng, bị cáo lại đưa ra những tình tiết có ý
nghĩa quan trọng đối với vụ án, khi đó Hội đồng xét xử phải quay lại việc xét hỏi.
(9) Quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án:
Kháng cáo là quyền chống lại bản án và quyết định của Tòa án, yêu cầu được

xét xử lại. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án và các quyết định đình chỉ và tạm
đình chỉ vụ án chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Khi kháng cáo hợp lệ, Tòa án
cấp phúc thẩm phải xem xét và giải quyết quyền kháng cáo của bị cáo. Để bị cáo có
thể yên tâm thực hiện quyền kháng cáo, luật tố tụng hình sự quy định nếu chỉ có
kháng cáo của bị cáo mà không có kháng cáo, kháng nghị theo hướng tăng nặng
Page 11


Bài tập học kì môn Luật Tố Tụng Hình Sự

nào khác thì Tòa cấp phúc thẩm không có quyền sửa án theo hướng bất lợi hơn cho
bị cáo.
(10) Quyền khiếu nại quyết định hành vi của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng:
Bị cáo có quyền khiếu nại quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng. Những quyết định này không thuộc đối tượng kháng cáo như quyết
định áp dụng, thay đổi hủy bỏ biện pháp ngăn chặn… Bị cáo cũng có quyền khiếu
nại hành vi tố tụng của cơ quan, người tiến hành tố tụng nếu các hành vi đó là trái
pháp luật.
2.2.2. Những quy định về nghĩa vụ của bị cáo:
Khoản 3 Điều 50 BLTTHS quy định: “Bị cáo phải có mặt theo giấy triệu tập
của Tòa án, trong trường hợp vắng mặt không có lí do chính đáng thì có thể áp
giải, nếu bỏ trốn thì bị truy nã”.
Như vậy, cũng giống như bị can, bị cáo cũng có nghĩa vụ phải có mặt theo
giấy triệu tập của CQTHTT và ở đây là tòa án.
II. THỰC TRẠNG ĐẢM QUYỀN LỢI CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO TRONG TỐ
TỤNG HÌNH SỰ:
1. Những kết quả đã đạt được từ phía cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng
1.1. Từ phía cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Bộ luật tố tụng năm 2003 đã có sự kế thừa những quy định của pháp luật
TTHS trước và tiếp nhận thêm những tư tưởng quan điểm mới đã hoàn thiện thêm
một bước đáng kể các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của những
CQTHTT và NTHTT. Các quy định này có ý nghĩa rất lớn trong việc đảm bảo cho
quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo được thực hiện nhanh chóng, hiệu quả, xác
định chính xác sự thật khách quan của vụ án. Bởi vì, khi những NTHTT thực hiện
tốt nhiệm vụ của mình sẽ đảm bảo cho quyền và nghĩa vụ của NTGTT và đặc biệt
là quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo được thực hiện trong thực tế.
Theo báo cáo tổng kết công tác năm 2010 của ngành tòa án thì đã thụ lí
71.680 vụ án và đã giải quyết, xét xử được 68.381 vụ án đạt 95%. Nhìn chung các
vụ án hình sự đều được giải quyết, xét xử trong thời hạn quy định của pháp luật.
Việc giải quyết nhanh chóng, kịp thời, đúng thời hạn các vụ án hình sự đã góp phần
không nhỏ trong việc đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong
tố tụng hình sự đặc biệt là bị can, bị cáo. So với những năm trước thì chất lượng xét
Page 12


Bài tập học kì môn Luật Tố Tụng Hình Sự

xử đã được nâng cao, án oan giảm, tình trạng vi phạm quyền lợi của bị can bị cáo
đã dần được khắc phục.
Như vậy, chúng ta có thể thấy việc đảm bảo các quyền và nghĩa vụ của bị
can, bị cáo như: quyền được nhận các quyết định, văn bản tố tụng, quyền được sự
bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa, quyền tham gia phiên tòa, quyền kháng
cáo…hay nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án đã được những NTHTT đảm bảo thực hiện tương đối tốt trong thời gian vừa
qua.
1.2. Từ phía bị can, bị cáo.
Bản thân bị can, bị cáo là những người bị buộc tội trong tố tụng hình sự.
Quyền và lợi ích của họ bị ảnh hưởng nhiều nhất khi tham gia vào quá trình tố

tụng. Do đó, họ đã có những hoạt động tích cực trong việc thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của mình.
Hiện nay, khi công nghệ truyền thông về giáo dục phát luật ngày càng phát
triển thì bị can, bị cáo cũng đã hiểu biết hơn về các quyền và nghĩa vụ của mình
trong tố tụng hình sự. Đặc biệt là quyền bào chữa và nhờ người khác bào chữa đã
được bị can, bị cáo thực hiện khá tốt, nhằm đảm bảo cho quyền và lợi ích hợp pháp
của mình. Tự bào chữa là một trong những hình thức để bị can, bị cáo bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật. Đây là quyền năng tố
tụng đặc thù của bị can, bị cáo, cho phép họ tự mình thực hiện các hành vi tố tụng
và biện pháp bào chữa theo quy định của pháp luật nhằm minh oan, bác bỏ sự buộc
tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho mình.
Ngoài ra còn quyền nhờ người bào chữa. Thực tiễn xét xử cho thấy các vụ án
có sự tham gia của người bào chữa đã thực sự mang lại những hiệu quả cho bị can,
bị cáo. Góp phần vào việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cuả bị can, bị cáo giúp
cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy
đủ. Có những trường hợp toà án đã xử nhẹ hơn so với mức đề nghị của Viện kiểm
sát hoặc tuyên bố bị cáo không phạm tội; đổi tội danh nhẹ hơn hoặc yêu cầu điều
tra bổ sung… Đặc biệt có một số trường hợp luận điểm bào chữa của luật sư không
được toà án cấp sơ thẩm chấp nhận nhưng lại được toà án cấp phúc thẩm chấp
nhận.
Bên cạnh đó, các quyền cơ bản khác như: quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu
cầu, quyền kháng cáo…đã được bị can bị cáo thực hiện tương đối tốt góp phần xác
định sự thật khách quan của vụ án.
Page 13


Bài tập học kì môn Luật Tố Tụng Hình Sự

1.3. Từ phía những người tham gia tố tụng khác.
Ngoài bị can, bị cáo và NTHTT thì những NTGTT khác cũng góp phần

không nhỏ trong việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo, đặc
biệt là người bào chữa, người giám định và người phiên dịch. Họ đã có những đóng
góp rất lớn trong việc xác định sự thật vụ án đảm bảo cho bị can, bị cáo có thể thực
hiện và đảm bảo tốt quyền và nghĩa vụ của mình.
2. Những hạn chế, vướng mắc còn tồn tại.
2.1. Từ phía người tiến hành tố tụng.
Năm 2005 đến năm 2009, số lượng án đình chỉ của cả hai ngành Viện kiểm
sát và Cơ quan điều tra là 10.925 vụ với 17.130 bị can, ta cũng thấy được rằng
những NTHTT, CQTHTT đã không thực hiện tốt quyền hạn và trách nhiệm của
mình dẫn đến việc truy tố không đúng người, đúng tội, xâm hại đến quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân là bị can.
Theo báo cáo tổng kết của ngành Tòa án nhân dân năm 2010 thì tỉ lệ các bản
án bị hủy là 0.75% trong đó do nguyên nhân chủ quan là 0.44% và nguyên nhân
khách quan là 0.31%. Tỉ lệ án bị sửa là 5.1% trong đó do nguyên nhân chủ quan là
0.45% và do nguyên nhân khách quan là 4.65%. So với cùng kì năm trước thì tỉ lệ
các bản án, quyết định bị hủy do nguyên nhân chủ quan tăng 0.06% , bị sửa do
nguyên nhân khách quan giảm 0.09%.
Như vậy, tỉ lệ các bản án bị hủy, sửa vẫn còn cao. Nguyên nhân phần lớn là
do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, cấp sơ thẩm điểu tra, thu thập chứng cứ
không đầy đủ…Bên cạnh đó việc chậm ban hành các bản án tại các tòa vẫn chưa
được khắc phục làm ảnh hưởng đến công tác thi hành bản án cũng như quyền lợi
của bị can, bị cáo.
Ngoài ra, sự chuẩn bị của một số thẩm phán chưa tốt, thể hiện ở việc điều
khiển phiên tòa và đặc biệt là phần xét hỏi. Có những trường hợp thẩm vấn bị cáo
còn chưa được khách quan. Trong một số vụ án, thẩm phán lúng túng khi vụ án
xuất hiện những tình tiết mới. Tên tuổi bị cáo, số hiệu còn nhầm lẫn. Một số bản án
không thể hiện những ý kiến quan trọng của công tố và luật sư. Những điều đó đã
làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc xác định sự thật vụ án cũng như đảm bảo quyền
lợi hợp pháp của bị cáo.
Bên cạnh đó, trong TTHS vẫn còn tồn tại những vấn đề như mớm cung, ép

cung, dùng nhục hình. Việc làm trái quy định pháp luật đó của những NTHTT đã
xâm hại nghiêm trọng đến quyền lợi của bị can, bị cáo và làm sai lệch nghiêm trọng
sự thật khách quan của vụ án.
Page 14


Bài tập học kì môn Luật Tố Tụng Hình Sự

2.2. Từ phía bị can, bị cáo.
Bị can bị cáo là người có quyền và lợi ích ảnh hưởng nhiều nhất trong TTHS
nhưng nhiều trường hợp bị can bị cáo chưa thực sự có ý thức bảo vệ quyền lợi của
mình, đặc biệt là ở vùng sâu vùng xa, nơi có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn,
trình độ dân trí kém phát triển.
Là người bị buộc tội nhưng trong thực tế vì những lí do khác nhau mà bị can,
bị cáo thường tự mình thực hiện quyền bào chữa chứ không nhờ người khác bào
chữa cho mình. Thời gian vừa qua số vụ án mà bị can, bị cáo thực hiện quyền bào
chữa của mình bằng hình thức tự bào chữa chiếm gần 90% so với tổng số vụ án mà
các toà án đã xét xử. Hiện nay, quyền tự bào chữa đang dần được phát huy, tuy
nhiên hiệu quả đạt được là không cao, tiếng nói của bị can, bị cáo chưa thực sự
được tôn trọng, và bảo vệ, quyền này hầu như chỉ mang tính hình thức.
Nguyên nhân của việc này là do trình độ hiểu biết pháp luật của người dân
còn hạn chế; số lượng bị can, bị cáo có khả năng lập luận, chứng minh trong khi
trình bày còn rất ít. Chính những điều này đã làm hạn chế khả năng tự bảo về quyền
và lợi ích của mình trong TTHS.
Bên cạnh hình thức tự bào chữa, bị can bị cáo có thể nhờ người khác bào
chữa cho mình. Tuy nhiên số vụ án có người bào chữa tham gia chiếm tỉ lệ rất
thấp. Theo số liệu thống kê của TANDTC: năm 2007 có 61822 vụ án được đưa ra
xét xử với 5933 vụ án có sự tham gia của người bào chữa; năm 2008 là 65073 vụ
án với 7533 vụ án có sự tham gia của người bào chữa và năm 2009 là 7255 vụ án
có sự tham gia của người bào chữa trên tổng số 68425 vụ án được đưa ra xét xử.

Qua đó ta có thể thấy rằng số vụ án có sự tham gia của người bào chữa,
người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự vẫn còn rất thấp, chưa đáp ứng được
đòi hỏi của công tác điều tra, truy tố, xét xử nhằm xác minh sự thật vụ án cũng như
đảm bảo quyền lợi của các đương sự trong TTHS, đặc biệt là bị can, bị cáo.
Nguyên nhân là số vụ án nhiều, trong khi số luật sư hành nghề thì ít. Người
dân chưa có thói quen nhờ người bào chữa vì chi phí lớn hoặc chưa tin cậy luật sư.
Theo thống kê thì ít khi luật sư tham gia các phiên toà do tòa án nhân dân cấp
huyện xử. Số vụ án hình sự có người bào chữa tham gia chiếm tỉ lệ hết sức khiêm
tốn, chiếm khoảng hơn 10% so với tổng số vụ án mà các toà án đã xử và chủ yếu là
bào chữa theo yêu cầu của CQTHTT.
2.3. Từ phía những người tham gia tố tụng khác.
Trong một số trường hợp những người tham gia tố tụng khác như người bào
chưa, người phiên dịch, người giám định …không làm tốt nhiệm vụ của mình đã
Page 15


Bài tập học kì môn Luật Tố Tụng Hình Sự

gây ảnh hưởng không nhỏ đến quyền lợi của bị can bị cáo và việc xác định sự thật
khách quan của vụ án.
Trong đó, có những trường hợp tại phiên tòa người bào chữa đã từ chối bào
chữa cho bị cáo, mặc dù bị cáo bị truy tố tội giết người với khung hình phạt cao
nhất là tử hình. Cụ thể như vụ án Nguyễn Trọng Nhân và Lương Hoài Sang sát hại
phó bí thư quận ủy Phú Nhuận- Đặng Thu Hồng. Sau khi kết thúc phần xét hỏi, luật
sư Phạm Quốc Hưng bào chữa cho cả hai bị cáo Nhân và Sang bất ngờ đứng lên từ
chối bào chữa cho bị cáo Sang với lí do “lời khai tại tòa hôm nay hai bị cáo mâu
thuẫn nhau, nếu bào chữa cho cả hai sẽ làm ảnh hưởng đến quyền lợi cho các bị
cáo”. Mặc dù tòa giải thích, Nhân đã có hai luật sư khác bào chữa và yêu cầu luật
sư Hưng bào chữa cho bị cáo Sang nhưng vị luật sư này đã từ chối. Điều này ảnh
hưởng không nhỏ đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo Sang.

III. HƯỚNG HOÀN THIỆN NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA BỊ CAN BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Từ thực trạng thực hiện quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo trong TTHS ở
phần trên và qua việc phân tích những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó, em xin
đưa ra những ý kiến đóng góp nhằm nâng cao việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ
của bị can, bị cáo trong công tác tố tụng như sau:
1. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung những quy định của BLTTHS 2003 về địa vị pháp
lý của bị can, bị cáo và những quy định liên quan:
Do pháp luật quy định chỉ mới khái quát rằng “bị can là người bị khởi tố về
hình sự” gây khó khăn cho việc xác định thời điểm chuyển hóa tư cách bị can thành
bị cáo, nên cần có hướng dẫn chi tiết cho quy định này trong các văn bản dưới luật
hoặc sửa đổi lại khoản 1 Điều 49 BLTTHS theo hướng quy định rõ thời điểm xác
định tư cách bị can.
Nên sửa đổi quy định tại Điểm b khoản 1 Điều 179 BLTTHS thành “khi có
căn cứ cho rằng bị can, bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác” để
tránh tình trạng không xác định được thời điểm chuyển tư cách từ bị can sang bị
cáo.
Vì người bào chữa có quyền lợi, nghĩa vụ trực tiếp liên quan đến quyền lợi,
nghĩa vụ của bị can, bị cáo. Do đó tăng cường quyền của người bào chữa cũng
chính là tăng cường quyền lợi của bị can, bị cáo.
Theo điểm b khoản 2 Điều 58 BLTTHS thì người bào chữa phải đề nghị
CQĐT báo trước về thời gian và địa điểm “hỏi cung” bị can, vì vậy, CQĐT không
Page 16


Bài tập học kì môn Luật Tố Tụng Hình Sự

có trách nhiệm thông báo cho người bào chữa nếu như không có yêu cầu và nếu chỉ
thông báo mà không phải là thông báo “hợp lệ” qua email, nhắn tin, fax hoặc
chuyển văn bản qua đường bưu điện thì người bào chữa nhiều khả năng không

nhận được thông báo. Mặt khác, quy định này chỉ yêu cầu thông báo về lịch “hỏi
cung” còn các hoạt động tố tụng khác thì CQĐT không phải thông báo. Cần phải
sửa đổi bổ sung những quy định này nhằm nâng cao hơn nữa các quyền khác cho
người bào chữa.
Luật không quy định cụ thể CQTHTT phải chịu chế tài thế nào nếu không
tạo điều kiện cho luật sư hành nghề nên nhiều quyền của người bào chữa không
được thực hiện và hầu như bị vi phạm. Do vậy cần quy định các chế tài đối với các
hành vi cản trở của Điều tra viên cũng như CQĐT đối với sự tham gia của luật sư.
2. Các giải pháp khác:
Để bị can, bị cáo thực hiện tốt được các quyền và nghĩa vụ của mình thì việc
nâng cao nhận thức và kiến thức pháp luật cho không chỉ bị can, bị cáo mà cho
đông đảo quần chúng nhân dân là vô cùng cần thiết. Công tác tuyên truyền, phổ
biến và giải thích pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong việc đưa bộ luật vào thực
hiện trên thực tế. Do vậy cần phải tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo
dục pháp luật, thực hiện trợ giúp pháp lý cho người dân thông qua các trung tâm tư
vấn pháp luật. Sự hỗ trợ về các dịch vụ pháp lý miễn phí cho bị can, bị cáo có hoàn
cảnh khó khăn là rất thiết thực.
Ngoài ra, công tác đào tạo nâng cao chất lượng đội ngũ NTHTT cũng có ý
nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo. Những
chủ thể này là người bảo vệ pháp luật, nhưng cũng chính những người có khả năng
xâm phạm đến quyền của bị can, bị cáo là cao nhất nếu như chính họ không nhận
thức rõ trách nhiệm tuân thủ pháp luật của mình.
Đảng và Nhà nước cần đưa ra những chủ trương chính sách thu hút nguồn
nhân lực có năng lực lên công tác tại các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa để có thể
cải thiện trình độ dân trí cũng như năng lực của đội ngũ cán bộ ngành tư pháp. Đặc
biệt là chính sách khuyến khích, tạo điều kiện để thu hút các luật sư có năng lực
làm việc tại khắp các tỉnh thành trên cả nước mà không chỉ tập chung ở các thành
phố lớn. Có như vậy quyền lợi của bị can, bị cáo mới được bảo đảm cho dù bị can,
bị cáo đó tham gia tố tụng tại bất cứ địa phương nào trên cả nước.


Page 17


Bài tập học kì môn Luật Tố Tụng Hình Sự

KẾT LUẬN
Qua bài viết về địa vị pháp lí của bị can, bị cáo trong TTHS đã cho chúng ta
thấy được nét riêng biệt trong phần quyền và nghĩa vụ của từng đối tượng trong tố
tụng hình sự, và cụ thể ở đây là bị can, bị cáo. Hiểu biết rõ được địa vị pháp lý một
cách cặn kẽ sẽ giúp cho những người mang tư cách bị can, bị cáo, và những người
có liên quan trong đến thủ tục tố tụng thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ, đồng thời
tôn trọng và bảo vệ những quyền lợi đó nhằm đạt được những kết quả tốt đẹp, thực
hiện đúng nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh đó bài viết cũng chỉ ra những thực trạng đang tồn tại trong việc
thực hiện các quyền lợi của bị can, bị cáo, phân tích những nguyên nhân dẫn đến
tình trạng đó. Từ đó em đã mạnh dạn đưa ra những ý kiến đóng góp nhằm nâng cao
việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo theo quy định của pháp
luật.
Tuy nhiên, do nhận thức còn hạn chế nên khi tiếp cận vấn đề không tránh
khỏi những sái sót. Kính mong nhận được sự bổ sung, đánh giá của các thầy, cô
giáo để bài viết của em được hoàn thiện.

Page 18


Bài tập học kì môn Luật Tố Tụng Hình Sự

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
− Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nxb
Chính trị quốc gia

− Tòa án nhân dân tối cao (2010) báo cáo tổng kết công tác năm 2010 và
phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2011.
− Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam trường Đại học luật Hà Nội. Nxb
Tư pháp.
− Bình luận khoa học bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Võ Khánh Vinh. Nxb
công an nhân dân
− Khóa luận tốt nghiệp Trường đại học luật Hà Nội: Địa vị pháp lí của bị can,
bị cáo trong tố tụng hình sự - Vũ Thị Kim Thùy
− Cần sửa đổi bổ sung một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về khởi tố
bị can, thay đổi, bổ sung, phê chuẩn quyết định khởi tố bị can – Nguyễn Tiến
Sơn – Tạp chí kiểm sát số 23/12/2008.
− . Bài viết: Thực trạng thực hiện quyền tự bào
chữa và quyền nhờ người khác bào chữa của bị can, bị cáo
− . Bài viết: Cần hoàn thiện quy định về bị can, bị cáo
− . Bài viết: Hoàn thiện các quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự về quyền, Nghĩa vụ của bị can, bị cáo và cơ chế bảo đảm
thực hiện

Page 19



×