TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
Khoa lý luận chính trị
-------***-------
BÀI TẬP LỚN MÔN
CỘNG SẢN VIỆT NAM
LỊCH SỬ ĐẢNG
ĐỀ TÀI Phân: tích vai trị lãnh đạo của Đảng trong Cách mạng
tháng 8 năm 1945. Em hãy nêu nhận thức của mình về vai trị lãnh
đạo của ĐCSVN đối với Cách mạng VN trong giai đoạn hiện nay.
Họ và tên SV: Lê Thùy Dương
Khóa
: K62
Lớp
: Bất động sản 62A
Mã SV
:11203923
Giáo viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Hữu Công
HÀ NỘI -2021
Mục Lục
I. LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................................................4
II. CHỦ ĐỀ CHÍNH ............................................................................................................................................4
A. Quan điểm chủ nghĩa Mác Lê Nin và HCM về vai trò lãnh đạo của ĐCS đối với thắng lợi
của Cách mạng 4
B. Sự lãnh đạo của Đảng trong CM tháng 8 năm 1945 ......................................................................6
1. Bối cảnh lịch sử giai đoạn 1939- 1945 ...........................................................................................6
2. Lãnh đạo về mặt đường lối..............................................................................................................7
3. Lãnh đạo về tổ chức thực hiện .......................................................................................................7
C. Nhận thức của bản thân về vai trò lãnh đạo của ĐCSVN đối với CMVN trong giai đoạn hiện
nay ............................................................................................................................................................11
1. Nêu bối cảnh lịch sử của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay ................................................11
2. Trách nhiệm của bản thân trong việc đấu tranh chống lại các quan điểm nhận thức sai
trái, xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của ĐCSVN đối với CMVN hiện nay.......................14
3. Khẳng định sự cần thiết phải có sự lãnh đạo của Đảng đối với CMVN trong gia đoạn
hiện nay ...................................................................................................................................................15
III. Lời kết........................................................................................................................................................15
Tài liệu tham khảo.........................................................................................................................................16
I.
LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam là một trong những mơn học lý luận chính
trị có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc giáo dục chính trị tư tưởng cho học viên, hình
thành ở họ nhận thức và hành động cách mạng, đáp ứng mục tiêu xây dựng đội ngũ
cán bộ vừa hồng vừa chuyên, phục vụ cho yêu cầu xâydựng và phát triển đất nước.
Nghiên cứu lịch sử Đảng tức là nghiên cứu quá trình Đảng ta vận dụng chủ nghĩa
Mác-LêNin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam để định ra đường lối, chính sách và
phương pháp cách mạng qua các giai đoạn và các thời kỳ; tuyên truyền, vận động và
tổ chức quần chúng, đưa quần chúng ra đấu tranh thực hiện đường lối, chính sách đó
bằng những phương pháp thích hợp, tùy theo phong trào lên hay là xuống. Sự nghiệp
của Đảng ta thật là vĩ đại. Chúng ta có quyền tự hào về Đảng Cộng sản Việt Nam,
Đảng của Bác Hồ. Việc nghiên cứu lịch sử Đảng có ý nghĩa to lớn về lý luận cũng
như về thực tiễn vì vậy ta sẽ đi tìm hiểu, tích vai trị lãnh đạo của Đảng trong Cách
mạng tháng 8 năm 1945. Từ đó nhận thức được vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản
Việt Nam đối với Cách mạng VN trong giai đoạn hiện nay.
II. CHỦ ĐỀ CHÍNH
A. Quan điểm chủ nghĩa Mác Lê Nin và HCM về vai trò lãnh đạo của ĐCS đối với
thắng lợi của Cách mạng
1.
Nêu quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê Nin
Theo Lê-nin, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản giữ vai trị quyết định tồn
bộ q trình phát triển, chiến đấu, chiến thắng của quân đội vô sản, do vậy
Người hết sức quan tâm xây dựng, củng cố, phát triển, phát huy hiệu lực của bộ
máy đảng trong lực lượng vũ trang, tăng cường các đảng viên cộng sản ở các
đơn vị. Trong toàn bộ hoạt động của Đảng Cộng sản, công tác tổ chức và công
tác tư tưởng của Đảng trong quân đội là một điều kiện bảo đảm cho quân đội
tác chiến thắng lợi. Thơng qua các chính ủy, các cơ quan chính trị và các chi bộ
đảng, Đảng đã củng cố kỷ luật trong quân đội, giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ
giác ngộ về chính trị, động viên cán bộ, chiến sĩ Hồng qn hăng hái lập cơng.
Lê-nin nói: “... ở đâu kỷ luật giữ nước được giữ vững nhất, ở đâu mà cơng tác
chính trị trong qn đội, cơng tác của các ủy viên chính trị làm được chu đáo
nhất, thì ở đấy... khơng hề có tình trạng lỏng lẻo trong quân đội; quân đội đó
giữ được trật tự tốt hơn và tinh thần của họ cũng cao hơn; ở đấy cũng thu được
nhiều thắng lợi hơn”. Nhận thức sâu sắc vai trò lãnh đạo của Đảng đối với việc
xây dựng quân đội về chính trị, ngay từ tháng 10/1917, các tổ chức đảng bước
đầu được xác lập trong một số đơn vị Hồng quân Liên Xô. Đến tháng 4/1918,
hệ thống tổ chức đảng, cơ quan chính trị được thiết lập và thực hiện thống nhất
trong Hồng quân, làm nịng cốt xây dựng Hồng qn vững mạnh về chính trị.
Không những vậy, thông qua các tổ chức đảng và các cơ quan chính trị, Đảng
đã giáo dục chủ nghĩa yêu nước nồng nàn của người Xô-viết cho các chiến sĩ
quân đội, củng cố lập trường tư tưởng chính trị cao cho mọi cán bộ, chiến sĩ
Hồng quân. Nhờ làm tốt cơng tác xây dựng qn đội về chính trị, trong suốt
thời gian quân đội Xô-viết tiến hành xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, những phẩm
chất tinh thần tốt đẹp của Hồng quân Liên Xô đã được củng cố vững chắc. Đó
là sự kiên định, lịng quyết tâm khắc phục mọi khó khăn, gian khổ, tinh thần
dũng cảm, bình tĩnh, hy sinh quên mình, tinh thần hăng say, kỷ luật tự giác, ý
chí quyết thắng quân thù... Nhiều chuyên gia quân sự tư sản đều phải thừa nhận
uy lực chiến đấu mạnh và tinh thần chiến đấu cao của Qn đội Xơ-viết. Uy
lực và tinh thần đó do hậu phương đất nước Xơ-viết và tồn bộ hệ thống cơng
tác Đảng, cơng tác chính trị xây dựng nên.
2.
Quan điểm của Chủ Tịch Hồ Chí Minh
Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trò lãnh đạo nhân dân Việt Nam cùng một
lúc vừa làm tư sản cách mạng, vừa làm dân tộc cách mạng và làm giai cấp cách
mạng. Đây là đặc điểm lớn nhất của cách mạng vô sản ở Việt Nam do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo và cũng là một đặc điểm của sứ mệnh lịch sử của Đảng đối
với giai cấp và dân tộc Việt Nam. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt,
Chương trình tóm tắt và Lời kêu gọi của Đảng khi Đảng mới thành lập, đó là: "Chủ
trương làm tư sản dân quyền cách mạng (révolution démocratique bourgeoise) và
thổ địa cách mạng (révolution agratire) để đi tới xã hội cộng sản";..." Đánh đổ đế
quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến";... Làm cho nước Việt Nam được độc
lập;... Giải phóng cơng nhân và nơng dân thốt khỏi ách tư bản; Mở mang công
nghiệp và nông nghiệp;... Đem lại mọi quyền lợi tự do cho nhân dân". Trải qua gần
90 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước thực hiện
thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình. 15 năm sau khi thành lập, Đảng ta đã lãnh đạo
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, đánh đuổi đế quốc, thực dân, lật đổ
chế độ phong kiến, lập ra nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á; mở ra
một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập, tự do và
chủ nghĩa xã hội.
B. Sự lãnh đạo của Đảng trong CM tháng 8 năm 1945
1. Bối cảnh lịch sử giai đoạn 1939- 1945
Trên thế giới, ngày 09/5/1945, phát xít Đức đầu hàng vơ điều kiện, chiến
tranh kết thúc ở châu Âu. Ngày 08/8/1945, Hồng quân Liên Xô tiến công như vũ
bão vào quân đội Nhật. Ngày 14/8/1945, phát xít Nhật đầu hàng vơ điều kiện,
chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc. Theo thỏa thuận của các nước Đồng
minh, sau khi phát xít Nhật đầu hàng, quân đội Anh và Tưởng sẽ vào Đông
Dương để giải giáp quân đội Nhật. Trong khi đó, thực dân Pháp dựa vào Đồng
minh lăm le khơi phục địa vị thống trị của mình; đế quốc Mỹ đứng sau các thế lực
này cũng sẵn sàng can thiệp vào Đông Dương. Những phần tử phản động, ngoan
cố trong chính quyền tay sai Nhật đang âm mưu thay đổi chủ, chống lại cách
mạng.
Ở Việt Nam: Mâu thuẫn Nhật - Pháp gay gắt đến cực độ “hai con chó đế
quốc không thể ăn chung một miếng mồi béo như Đông Dương”(1). Trước tình
hình sớm muộn quân Đồng minh sẽ tiến vào Đơng Dương, phát xít Nhật càng xúc
tiến âm mưu diệt Pháp để trừ mối lo về sau. Đêm 09/3/1945 phát xít Nhật làm
cuộc đảo chính lật đổ Pháp độc chiếm Đơng Dương, đúng như nhận định của
Đảng ta.
Tình hình cách mạng nước ta lúc này đang tiến dần tới cao trào tổng khởi
nghĩa. Từ ngày 15 đến ngày 20/4/1945, tịa làng Liễu Ngạn, tổng Hồng Vân
(Hiệp Hịa), Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp Hội nghị quân sự cách mạng
Bắc Kỳ do đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư của Đảng chủ trì, nhằm giải
quyết cụ thể những vấn đề quân sự, chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa giành chính
quyền. Hội nghị đã đặt ra nhiệm vụ quân sự lên trên tất cả các nhiệm vụ quan
trọng và cần kíp trong lúc này. Hội nghị quyết định xây dựng 7 chiến khu trong cả
nước, Bắc Giang nằm trong chiến khu Hoàng Hoa Thám. Nghị quyết của Hội
nghị đã tác động mạnh đến phong trào cách mạng Bắc Giang.
2. Lãnh đạo về mặt đường lối
Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin được vận dụng
sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam; là thắng lợi của tư
tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng ta gắn độc lập dân tộc với
chủ nghĩa xã hội, gắn sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; là sự thể nghiệm
thành công đầu tiên chủ nghĩa Mác-Lênin tại một nước thuộc địa ở châu Á. Đây
cịn là q trình phát triển tất yếu của lịch sử dân tộc trải qua mấy nghìn năm
phấn đấu, đỉnh cao của ý chí quật cường, sức mạnh cố kết cộng đồng, tầm cao trí
tuệ của dân tộc hòa quyện với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với
xu thế của thời đại vì hịa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội, vì độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội.
3. Lãnh đạo về tổ chức thực hiện
Sự lãnh đạo của Ðảng trước hết ở sự bổ sung, phát triển hoàn chỉnh hệ thống
các quan điểm về cách mạng giải phóng dân tộc; ở sự lựa chọn hình thức và
phương pháp cách mạng phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể; ở sự tổ chức xây
dựng lực lượng cách mạng, bao gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang; ở
sự nhận thức tình thế và thời cơ cách mạng để đưa quần chúng vào hành động
cách mạng; ở sự chỉ đạo kiên quyết, tập trung, thống nhất trong giờ phút có ý
nghĩa quyết định đến thắng lợi. Ðể đưa cao trào giải phóng dân tộc (1939-1945)
đến thắng lợi bằng cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, có ba thời điểm lịch sử thể
hiện bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo đặc biệt của Ðảng ta: đó là các hội
nghị Trung ương từ cuối năm 1939 đến đầu năm 1941 phát triển hồn chỉnh, sáng
tạo đường lối giải phóng dân tộc; những quyết sách quan trọng cuối năm 1944
đầu năm 1945 thổi bùng lên cao trào kháng Nhật cứu nước; quyết định Tổng khởi
nghĩa của Hội nghị Ðảng toàn quốc tháng 8-1945. Các Hội nghị Trung ương
Ðảng (11-1939), (11-1940) và nhất là Hội nghị Trung ương tám (5-1941) đã đề ra
những quan điểm và biện pháp cơ bản chỉ đạo cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc.
Một là, phải đặt nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
Hội nghị Trung ương 11-1939 chủ trương "Phải đưa cao cây cờ dân tộc lên".
"Bước đường sinh tồn của các dân tộc Ðông Dương không có con đường nào
khác hơn là đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận da trắng
hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập" . Hội nghị Trung ương tám do Hồ
Chí Minh chủ trì (5-1941) nhấn mạnh: "Nhiệm vụ giải phóng dân tộc, độc lập cho
đất nước là một nhiệm vụ trước tiên của Ðảng ta" . "Trong lúc này quyền lợi của
bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới quyền lợi giải phóng của tồn thể dân tộc" .
Hai là, động viên, tổ chức và đoàn kết lực lượng của toàn dân trong Mặt trận
dân tộc thống nhất và lựa chọn hình thức tổ chức Mặt trận Việt Minh. Nếu Hội
nghị Trung ương chủ trương lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Ðơng
Dương thì Hội nghị Trung ương tháng 5-1941 chủ trương lập Mặt trận riêng của
Việt Nam đó là Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh). Tổ chức Mặt trận trong
khuôn khổ dân tộc Việt Nam nhằm khơi dậy mạnh mẽ tinh thần dân tộc, yêu nước
nhằm vào mục tiêu độc lập dân tộc. Mặt trận được xây dựng hệ thống tổ chức
chặt chẽ và bao gồm các đoàn thể cứu quốc. Ðảng lãnh đạo Mặt trận bằng cách
đưa quan điểm, chính sách vào các đồn thể và hoạt động của Mặt trận và thông
qua các đảng viên tham gia Mặt trận và đoàn thể.
Ba là, Ðảng chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng.
Sau khởi nghĩa Bắc Sơn (27-9-1940), Ðảng chủ trương phát triển lực lượng vũ
trang từ đội du kích Bắc Sơn, xây dựng căn cứ địa Bắc Sơn - Vũ Nhai, xây dựng
cứu quốc quân. Ngày 28-1-1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước và trực tiếp chỉ
đạo xây dựng căn cứ địa cách mạng ở Cao Bằng. Tại các căn cứ địa lực lượng
chính trị của quần chúng tập hợp trong Mặt trận Việt Minh ngày càng phát triển
rộng lớn. Từ lực lượng chính trị đó phát triển lực lượng vũ trang. Những vấn đề
về chính quyền, về kinh tế, xã hội cũng được đặt ra và thực hiện ở vùng căn cứ
địa cách mạng.
Bốn là, Ðảng đặt nhiệm vụ khởi nghĩa vũ trang để giành độc lập, giành chính
quyền là nhiệm vụ trung tâm. Hội nghị Trung ương (11-1939) đã chủ trương: dự
bị những điều kiện bước tới bạo động làm cách mạng giải phóng dân tộc. Hội
nghị trung ương (5-1941) xác định: "Cuộc cách mạng Ðông Dương phải kết liễu
bằng một cuộc khởi nghĩa võ trang". Phải chuẩn bị lực lượng sẵn sàng để có thể
"lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể
giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn".
Các hội nghị Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn phân tích tình hình
chiến tranh thế giới, âm mưu thủ đoạn của thực dân Pháp, phát-xít Nhật và dự báo
thời cơ, chỉ đạo xây dựng lực lượng về mọi mặt, chú trọng công tác xây dựng
Ðảng để Ðảng có thể hồn thành sứ mệnh lãnh đạo thành cơng cách mạng giải
phóng dân tộc. Năm 1944, tình hình thế giới có những chuyển biến mau lẹ, phong
trào cách mạng trong nước đã phát triển mạnh mẽ, Ðảng và Mặt trận Việt Minh
đã chủ trương về sửa soạn khởi nghĩa và sắm võ khí đuổi thù chung. Hồ Chí Minh
trong thư gửi đồng bào toàn quốc 10-1944 đã chỉ rõ Cơ hội cho dân tộc ta, giải
phóng chỉ ở trong một năm hoặc một năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải
làm nhanh. Người chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
(22-12-1944). Ngày 9-3-1945 phát-xít Nhật đã làm đảo chính gạt bỏ thực dân
Pháp để độc chiếm Ðông Dương. Thường vụ Trung ương Ðảng đã kịp thời ra bản
chỉ thị lịch sử: Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta (12-3-1945). Chỉ
thị nêu rõ kẻ thù của cách mạng là phát-xít Nhật, vì vậy khẩu hiệu là Ðánh đuổi
phát-xít Nhật. Ðảng đã phát động cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ để làm
tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Ðây là thời kỳ tiền khởi nghĩa, phải thay đổi
mọi hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh cho phù hợp. Sẵn sàng
chuyển sang tổng khởi nghĩa. Chỉ thị của Trung ương cũng phân tích thời cơ cách
mạng và cho rằng những cơ hội tốt đang giúp cho những điều kiện khởi nghĩa
mau chín muồi. Những điều kiện thuận lợi đó là: Chính trị khủng hoảng, kẻ thù
hoang mang khơng rảnh tay đối phó với cách mạng; nạn đói ghê gớm làm cho
quần chúng căm ghét quân cướp nước; chiến tranh thế giới đến giai đoạn quyết
liệt; Ðồng minh sẽ đổ bộ vào Ðông Dương để đánh Nhật. Ðó là sự vận dụng tư
tưởng của Mác và Lê-nin về khởi nghĩa vũ trang phù hợp với thực tiễn cách mạng
Việt Nam. Những điều kiện để khởi nghĩa mà chỉ thị của Trung ương nêu ra đã là
định hướng quan trọng để các đảng bộ địa phương chủ động phát động và lãnh
đạo khởi nghĩa. Bản Chỉ thị cịn chủ trương phá kho thóc gạo của đế quốc để cứu
đói, lập Ủy ban quân sự cách mạng và xây dựng chính quyền (các Ủy ban dân tộc
giải phóng và Ủy ban nhân dân cách mạng).
Dưới sự lãnh đạo của Ðảng, cao trào cách mạng phát triển mạnh mẽ. Theo tư
tưởng của Ðề cương văn hóa 1943 của Ðảng, tổ chức văn hóa cứu quốc đã tập
hợp đơng đảo các nhà văn hóa vào trận tuyến đấu tranh cách mạng của dân tộc.
Tháng 5-1945, Hồ Chí Minh từ Cao Bằng chuyển về Tuyên Quang. Tại Tân Trào
(Tuyên Quang) đã diễn ra Hội nghị toàn quốc của Ðảng họp ngày 14 và 15-81945. Hội nghị của Ðảng họp ở thời điểm lịch sử phong trào cách mạng của toàn
dân ta diễn ra sơi sục trong cả nước và phát-xít Nhật đầu hàng vô điều kiện (158). Ðảng ta nhận định "cơ hội rất tốt cho ta giành quyền độc lập đã tới" (6). Mục
đích cuộc chiến đấu của ta giành quyền độc lập hoàn toàn. Tiến hành cuộc tổng
khởi nghĩa theo ba nguyên tắc: a) Tập trung -tập trung lực lượng vào những việc
chính; b) Thống nhất - thống nhất về mọi phương diện quân sự, chính trị, hành
động và chỉ huy; c) Kịp thời - kịp thời hành động, không bỏ lỡ thời cơ. Khẩu hiệu
đấu tranh của Ðảng là Phản đối xâm lược, hồn tồn độc lập, chính quyền nhân
dân. Hội nghị Ðảng tồn quốc cơng bố mười chính sách của Việt Minh và nhấn
mạnh chủ trương "Lập nên một nước Việt Nam dân chủ Cộng hịa hồn toàn độc
lập". Lệnh khởi nghĩa (Quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa) được ban bố:
“Chúng ta phải hành động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vơ
cùng thận trọng!” Cuộc thắng lợi hồn tồn nhất định sẽ về ta. Cũng ở thời điểm
lịch sử đó Hồ Chí Minh có Thư kêu gọi tổng khởi nghĩa nêu rõ: "Giờ quyết định
cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà
tự giải phóng cho ta". Ngày 16-8-1945, Quốc dân Ðại hội họp và ra Nghị quyết
về giành chính quyền tồn quốc và thi hành mười chính sách lớn của Việt Minh.
Ủy ban dân tộc giải phóng là tổ chức tiền thân của Chính phủ Việt Nam dân chủ
Cộng hòa. Nghị quyết của Quốc dân Ðại hội nhấn mạnh mục tiêu: "Giành lấy
chính quyền, xây dựng một nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa trên nền tảng hoàn
toàn độc lập".
Thực hiện Nghị quyết của Ðảng và Quốc dân Ðại hội, chỉ trong vòng hai
tuần từ 14 đến 28-8-1945, nhân dân cả nước ta đã giành thắng lợi vẻ vang trong
cuộc Cách mạng Tháng Tám. Sự lãnh đạo kiên quyết, sáng suốt và kịp thời của
Trung ương Ðảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa quyết định thắng lợi. Khi
nghiên cứu về vai trò lãnh đạo của Ðảng, cần phải thấy rõ tinh thần trách nhiệm
cao, sự năng động, chủ động, sáng tạo của các đảng bộ địa phương, tức các xứ ủy,
tỉnh ủy, huyện ủy và tổ chức đảng ở cơ sở. Các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu ở Hà
Nội (19-8), Huế (23-8), Sài Gòn (25-8) và cả những tỉnh xa xôi, điều kiện liên lạc
khó khăn đã thể hiện điều đó. Vai trị của hệ thống tổ chức đảng từ Trung ương
đến cơ sở, của các đảng viên kiên trung của Ðảng, từ người lãnh đạo cao nhất đến
người đảng viên ở cơ sở, đã bảo đảm cho Ðảng sự lãnh đạo, điều hành tập trung,
thống nhất ở giờ phút quyết định của lịch sử.
C. Nhận thức của bản thân về vai trò lãnh đạo của ĐCSVN đối với CMVN trong giai
đoạn hiện nay
1. Nêu bối cảnh lịch sử của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Trong nhiệm kỳ Đại hội XII, nắm bắt thuận lợi, thời cơ, vượt qua khó khăn,
thách thức, nhất là tác động nặng nề của cuộc khủng hoảng, suy thối kinh tế tồn
cầu do đại dịch COVID-19; tồn Đảng, tồn dân, tồn qn đã đồn kết, chung
sức, đồng lịng nỗ lực phấn đấu, thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ, đạt
được nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật. Kinh
tế vĩ mơ ổn định, lạm phát được kiểm sốt, tăng trưởng được duy trì ở mức khá
cao; tiềm lực, quy mô và sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên. Các lĩnh
vực xã hội, mơi trường có nhiều tiến bộ. Đời sống nhân dân được cải thiện đáng
kể. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và xây dựng hệ thống chính trị được đặc
biệt chú trọng, triển khai tồn diện, đồng bộ, hiệu quả. Cơng tác kiểm tra, giám
sát, kỷ luật và đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực chuyển biến
mạnh mẽ, có bước đột phá gắn kết chặt chẽ giữa "xây" và "chống", có hiệu quả,
ngày càng đi vào chiều sâu. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
không ngừng được củng cố vững mạnh. Công tác lãnh đạo của Đảng với Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội được tăng
cường, mối quan hệ phối hợp ngày càng chặt chẽ, đồng bộ. Chính trị - xã hội ổn
định; quốc phịng, an ninh khơng ngừng được củng cố, kiên quyết, kiên trì giữ
vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia, dân
tộc; quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và hiệu quả; vị thế,
uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Đặc biệt, trong năm
2020, đại dịch COVID-19 gây ra nhiều thiệt hại về kinh tế - xã hội, song nhờ phát
huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, sự ưu việt của chế độ xã hội chủ
nghĩa, sự tham gia đồng bộ, quyết liệt của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng, sự đồng lòng ủng hộ của nhân dân, đất nước ta đã từng bước
kiểm sốt có hiệu quả đại dịch COVID-19; từng bước phục hồi sản xuất, kinh
doanh và các hoạt động kinh tế - xã hội; ổn định đời sống nhân dân; góp phần
củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã
hội chủ nghĩa; khẳng định bản lĩnh, ý chí, truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta,
dân tộc ta.
Trong tình hình dịch COVID-19 đang hồnh hành trên phạm vi tồn thế giới, thì
Việt Nam, dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng, đã tiếp tục khơi dậy và phát huy
tinh thần đoàn kết dân tộc, với tinh thần “Chống dịch như chống giặc”, huy
động cả hệ thống chính trị vào cuộc, thống nhất tư tưởng, minh bạch thông tin,
phát huy truyền thống “lấy dân làm gốc”, thiết lập tư duy mới, cách làm mới
trong thời đại công nghệ 4.0, vừa tập trung chống dịch, vừa tiếp tục phát triển
kinh tế - xã hội, coi là nhiệm vụ kép để thoát ra khỏi khủng hoảng. Cả thế giới
đã nhìn nhận Việt Nam là một điểm sáng trong phịng, chống dịch COVID-19,
nhưng vẫn duy trì phát triển về kinh tế.
Không những thế, năm 2020, với vai trị Ủy viên khơng thường trực Hội đồng
Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch luân phiên Ủy ban ASEAN cùng với các sự
kiện chính trị trọng đại của đất nước, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng,
Việt Nam đã có những đóng góp tích cực và quan trọng trong việc giải quyết
các vấn đề phức tạp trên thế giới, được các nước trên thế giới đánh giá cao.
Thực tế đó ai cũng thấy.
Khẳng định những thành quả qua thực tiễn của cách mạng Việt Nam, trong diễn
văn tại Lễ kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổng Bí
thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh thông điệp: “Đất nước ta
chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay”.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc hồn thiện thể chế, đổi mới mơ hình
tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, cơng nghiệp hố, hiện đại hố cịn chậm,
chưa tạo được chuyển biến căn bản; năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức
cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao. Giáo dục và đào tạo, khoa học và công
nghệ chưa trở thành động lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Lĩnh vực văn hố, xã hội chưa có nhiều đột phá, hiệu quả chưa cao; đời sống
của một bộ phận nhân dân cịn khó khăn. Quản lý tài ngun, bảo vệ mơi
trường và khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu cịn bất cập. Các lĩnh vực
quốc phịng, an ninh, đối ngoại còn một số mặt hạn chế. Sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa có lúc, có nơi chưa được quan tâm
phát huy đầy đủ. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
có mặt chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và quản lý đất nước
trong tình hình mới. Cơng tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng cịn một số hạn chế.
Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm
1991), lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng hồn thiện và từng bước được hiện thực
hố. Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển
mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Trong bối cảnh tình hình
thế giới có nhiều biến động nhanh, phức tạp, Cương lĩnh của Đảng tiếp tục là
ngọn cờ tư tưởng, ngọn cờ chiến đấu, ngọn cờ quy tụ sức mạnh đại đồn kết
tồn dân tộc phấn đấu vì một nước Việt Nam "dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh".
2. Trách nhiệm của bản thân trong việc đấu tranh chống lại các quan điểm nhận
thức sai trái, xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của ĐCSVN đối với CMVN
hiện nay.
Hiện nay, các thế lực thù địch đang ra sức tuyên truyền những quan điểm sai
trái, xuyên tạc, với mưu đồ xóa bỏ vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam mà trọng tâm là xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng. Vì vậy, bản thân em
cần đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, trọng yếu,
cấp bách của công tác bảo vệ an ninh tư tưởng; đồng thời là trách nhiệm của
bản thân em nói riêng và các bạn học sinh, sinh viên, các cấp ủy, tổ chức đảng,
hệ thống chính trị và các cán bộ, đảng viên nói chung, nhất là trong thời điểm
Đảng ta vừa tổ chức thành công Đại hội lần thứ XIII của Đảng. Em luôn kiên
định với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tin tưởng vào Cương
lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Trận địa tư tưởng chính trị được giữ vững, khẳng định địa vị chủ đạo của chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong đời sống chính trị - tinh thần
ở Việt Nam. Bản thân em sẽ tích cực, chủ động đấu tranh phản bác các thông
tin, quan điểm sai trái, đi tuyên truyền nâng cao nhận thức của toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân về công tác bảo vệ an ninh tư tưởng của Đảng . Là người luôn
tin tưởng vào Đảng em luôn Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù
địch về chủ quyền biển, đảo của Việt Nam trên mạng xã hội để bảo vệ chủ
quyền biển đâor và chống những thế lực thù địch, cảnh giác với chiêu trò
xuyên tạc vai trò cán bộ và công tác cán bộ của Đảng ta. Trong tình hinhg dịch
bệnh , ln tin tưởng vào cá chue trương của đảng và nhà nước để giúp đỡ
đảng ,củng cố lòng tin của mọi người và chung tay chống dịch tốt hơn , không
để các thế lực thù địch có cơ hội chống phá cách mạng .
3. Khẳng định sự cần thiết phải có sự lãnh đạo của Đảng đối với CMVN trong gia
đoạn hiện nay
Bài học về sự lãnh đạo của Ðảng trong Cách mạng Tháng Tám là Ðảng đã
đề ra đường lối giải phóng dân tộc đúng đắn, đã tập hợp đoàn kết rộng rãi lực
lượng của toàn dân tộc trong Mặt trận Việt Minh, đã lựa chọn và kết hợp đúng
đắn các hình thức tuyên truyền, tổ chức và phương pháp đấu tranh thích hợp
tạo nên sức mạnh tổng hợp, đã xây dựng, phát triển thực lực cách mạng, thúc
đẩy phong trào, đồng thời dự kiến và chớp đúng thời cơ hành động. Trong việc
thực hiện sứ mệnh nặng nề trước dân tộc và lịch sử, Ðảng đã rất coi trọng xây
dựng Ðảng về tư tưởng chính trị và tổ chức, rèn luyện phương pháp đấu tranh
và cách lãnh đạo. Trong Cách mạng Tháng Tám đã nổi bật năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Ðảng. Ðó là bài học quý báu cho nhiệm vụ xây dựng
Ðảng hiện nay và thực hiện vai trò lãnh đạo của Ðảng trong cơng cuộc đổi mới,
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ngày nay.
III.
Lời kết
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã mở ra bước ngoặt vĩ
đại của cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới - kỷ
nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; nhân dân ta từ thân phận
nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Thắng
lợi này đã chính thức chấm dứt ách đơ hộ hơn 80 năm của thực dân Pháp đối
với nước ta, mở kỷ nguyên độc lập, lần đầu tiên tên nước Việt Nam có tên bản
đồ thế giới; đồng thời đã mở ra mối quan hệ ngoại giao với các nước trên thế
giới với tư cách và vị thế của một quốc gia - dân tộc có độc lập, có chủ quyền.
Thời gian đã lùi xa nhưng tầm vóc ý nghĩa thắng lợi, bài học kinh nghiệm của
Cách mạng Tháng Tám vẫn cịn ngun giá trị và ngày càng tỏa sáng. Đó là
một trong những trang chói lọi nhất trong lịch sử của dân tộc ta, một dấu mốc
lớn trên con đường phát triển trong suốt chiều dài mấy nghìn năm dựng nước
và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình
2. Slice và bài giảng của thầy
3. [3] - V.I. Lê-nin tuyển tập, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1959, quyền 2, phần 2, tr.
234.
4. Hồ Chí Minh, Tồn tập,tập 7, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011
5. Văn kiện ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ XIII