TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN NHĨM
MƠN LỊCH SỬ ĐẢNG
ĐỀ TÀI: HIỆP ĐỊNH GENÈVA 1954
VỀ KẾT THÚC CHIẾN TRANH, LẬP LẠI
HỊA BÌNH Ở ĐƠNG DƯƠNG
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Tổng thư ký Hội khoa học lịch sử Việt Nam, Dương Trung Quốc đã nói “ Nếu nhận
thức rằng lịch sử là cái tất yếu được định vị bằng thời gian của cái đã qua và ngoại giao là
cái tất yếu phản ánh tương quan và lợi ích của những bên tham gia, thì khơng thể đánh giá
sự kiện Geneva 1954 cách đây nửa thế kỷ bằng tâm thức của ngày hơm nay. Khơng thể địi
hỏi một nền ngoại giao của một quốc gia từ trong rừng sâu của chiến khu lần đầu tiên đến
một nghị quốc tế với sự tham dự của những cường quốc lớn nhất của hai khối chính trị đối
địch nhau giữa thời chiến tranh lạnh, lại có ngay được một tư thế hồn toàn độc lập, tự chủ
trong mọi quyết định trên bàn đàm phán” . Ý nghĩa to lớn và những bài học quý báu của
hiệp định Geneva sẽ trường tồn cùng thế giới, được nhân lên và phát huy hơn nữa trong
cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước trước đây và trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc. E. Smith Gravel đã tuyên bố: “ Hiệp định Geneva là một kết quả
tốt nhất mà chúng ta có thể đạt được. Nên nhớ rằng rất hiếm có trường hợp mà ngoại giao
có thể giành được trên bàn hội nghị những gì khơng thể giành được hoặc giữ được trên
chiến trường.”. Hội nghị Geneva là một điểm sáng trong suốt tiến trình cách mạng của
nhân dân ta, tạo tiền đề và cơ sở pháp lý quan trọng để chúng ta tiếp tục cuộc đấu tranh đi
tới thống nhất đất nước năm 1975 sau này. Hội nghị là sự kiện quốc tế quan trọng có ảnh
hưởng to lớn đối với quan hệ quốc tế, được các nước và thế giới quan tâm. Mặc dù với
những ý nghĩa, những thắng lợi to lớn vĩ đại không thể phủ nhận nhưng vẫn còn những
quan điểm cho rằng thắng lợi đạt được ở Geneva chưa trọn vẹn, ta có thể đạt được nhiều
hơn, như nữ luật gia người Pháp L.A. Be-le-xa viết: “Nếu chúng ta đi sâu vào chi tiết các
cuộc thương lượng, chúng ta sẽ nhận thấy rằng các điều khoản của hiệp định chỉ để nhằm
làm thỏa mãn các cường quốc...”. Như vậy, hiệp định Geneva có thật thỏa đáng khơng? Có
phản ánh đúng thắng lợi của ta trên chiến trường và so sánh lực lượng lúc đó khơng? Bài
tiểu luận “Hiệp định Geneva 1954 về kết thúc chiến tranh, lập lại hịa bình Đơng Dương”
sẽ đưa ra bức tranh toàn cảnh bàn về những vấn đề xung quanh hội nghị này. Bài tiểu luận
của chúng em được chia thành 3 chương:
Chương I: Hiệp định Geneve 1954
Chương II: Đánh giá về Hiệp định Geneve 1954
Chương III: Bài học kinh nghiệm cho hiện tại
Chúng em xin chân thành cảm ơn cơ Nguyễn Thị Tố Un đã giúp đỡ chúng em
hồn thành bài tiểu luận này!
CHƯƠNG 1. HIỆP ĐỊNH GENÈVE 1954
1.1. Bối cảnh lịch sử
Tháng 7 năm 1953,tướng Henri Navarre, chỉ huy mới của quân Pháp, đến
Đông Dương. Với sự hứa hẹn của Mỹ về việc tăng viện trợ quân sự, một cuộc tổng
phản công được chuẩn bị bởi vị chỉ huy mới này, báo chí Pháp và Mỹ gọi là "Kế
hoạch Navarre".
Ngày 18 tháng 7 năm 1953, Navarre hai cuộc hành quân nhằm phá hủy được
một số dụng cụ và máy móc của Việt Nam Dân chủ Cộng hịa. Đó là cuộc hành
qn Hirondelle ("Con én") vào Lạng Sơn và cuộc hành binh "Camargue" vào
Quảng Trị. Ở Lạng Sơn, quân Pháp lùng sục các kho tàng rồi vội vã rút chạy. Sau
đó, Pháp lại loan tin quân đội đã diệt được hai tiểu đoàn, một số căn cứ trong khu
tam giác là mối đe dọa trên quốc lộ số 1.
Trước đây, năm 1952, Nà Sản được Pháp chọn làm địa điểm để ngăn Quân đội
Nhân dân Việt Nam tiến công quân Pháp ở Lào. Tuy nhiên, sau liên tiếp với hai
cuộc hành quân trên, tới ngày 9 tháng 8 năm 1953, Pháp rút quân ra khỏi Nà Sản
bằng không vận..
Ngày 15 tháng 10 năm 1953, Pháp mở Cuộc hành quân Moutte vào Ninh Bình
và Thanh Hóa hịng đoạt lại thế chủ động trên chiến trường chính. Mục đích chính
là phá các căn cứ hậu cần tiền duyên của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong cuộc
tiến công 1953–1954 được cho là sẽ diễn ra ở đồng bằng. Tuy nhiên, thực tế trong
kế hoạch Quân đội Nhân dân Việt Nam được đề ra hồi tháng 9, đồng bằng Bắc Bộ
chỉ đơn giản là chiến trường phối hợp. Cuộc hành quân Moutte chỉ là sự suy đoán
sai lầm của Navarre khi bị đánh lừa bởi xuất sắc của bộ đội mật mã Việt Nam.
Tháng 11 năm 1953, cuộc hành quân Castor đánh chiếm Điện Biên Phủ – Khu
vực được Navarre cho là vị trí chiến lược chặn lại tuyến đường chính của Quân đội
Nhân dân Việt Nam sang Lào. Theo đó, căn cứ này vừa là một vị trí khóa chặn, vừa
là một cái bẫy để nhử đối phương vào một trận đánh lớn theo kiểu kinh điển mang
tính chất quyết định mà tại đó Qn đội Nhân dân Việt Nam sẽ bị tiêu diệt bởi ưu
thế pháo binh và hỏa lực không quân của Pháp. Điện Biên Phủ - vùng đất nằm trong
một thung lũng lớn, cách Hà Nội 200 dặm đường không, được chọn làm căn cứ
chính và sẽ được chi viện của khoảng 400 máy bay. Sau những trận đánh nống thất
bại, quân Pháp đã nhường các điểm cao xung quanh cho Quân đội Nhân dân Việt
Nam, Navarre suy đoán rằng Quân đội Nhân dân Việt Nam không đủ khả năng đưa
pháo lên Điện Biên Phủ nên nguy hiểm gì từ các điểm cao là không thể. Navarre
xem Điện Biên Phủ như là một "cái nhọt tụ độc", hút hết phần lớn chủ lực của Quân
đội Nhân dân Việt Nam và đảm bảo an tồn cho đồng bằng Bắc Bộ.
Với tình hình khi đó, Đại tướng Võ Ngun Giáp đang nghĩ tới một cuộc tấn
công, hy vọng sẽ mở được một con đường xuyên Lào thọc qua Campuchia. Từ đó,
đưa lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam tại miền Bắc vào chi viện bổ sung cho
lực lượng sẵn có ở Nam Bộ. Tháng 11 năm 1953, Bộ Quốc phòng Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa tổ chức một cuộc họp, các chỉ huy qn sự nhất trí mở Chiến cục
đơng xn 1953–1954 nhằm xé lẻ khối quân chủ lực của Pháp đang co cụm đồng
bằng Bắc Bộ. Vị trí tiến cơng được xác định ở Tây Bắc và Thượng Lào, Trung và
Hạ Lào, cuối cùng là Tây Nguyên. Ý tưởng tuyến đường chiến lược xuyên Lào sẽ
được thực hiện một phần trong tương lai thơng qua con đường mịn Hồ Chí Minh.
Quân đội Nhân dân Việt Nam đã nắm giữ mảng lớn còn lại của vùng Tây Bắc
và phần lớn vùng Trung và Nam Lào thông qua chiến dịch Lai Châu và Trung Lào
(12/1953-1/1954).
Navarre đã tăng cường và biến Điện Biên Phủ trở thành một "pháo đài bất khả
xâm phạm" đối với phương Tây. Tuy nhiên, Võ Nguyên Giáp đã lợi dụng cơ hội đặt
bẫy đối thủ. Đồng thời, Pháp đã mất đi những đơn vị thiện chiến nhất bởi việc xây
dựng một tập đoàn cứ điểm ở vùng núi Tây Bắc hiểm trở. Vì vậy một khoảng trống
khơng thể bù vào ở đồng bằng Bắc Bộ đã được tạo nên.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đưa bốn sư đoàn với một lượng pháo lớn như
quân Pháp vào Điện Biên Phủ, dù cơ số đạn hạn chế (đạn của Pháp là chủ yếu;
Trung Quốc rất ít viện trợ). Pháp khơng thể tập hợp một đội quân cơ động ứng cứu
do những cuộc tiến cơng liên tiếp trên tồn Đơng Dương. Hơn nữa, phe ta có sự
tham chiến của những đơn vị phịng khơng đầu tiên của Qn đội Nhân dân Việt
Nam được huấn luyện ở Liên Xô. Công tác vận tải cũng có sự tham gia của một lực
lượng dân cơng khổng lồ. Quân Pháp bị bao vây bởi các đơn vị mạnh nhất của Quân
đội Nhân dân Việt Nam ở Điện Biên Phủ.
Từ ngày 13 tháng 3 đến ngày 7 tháng 5, cuộc vây hãm ở Điện Biên Phủ diễn
ra cho đến khi Pháp đầu hàng. Trong khi đó, Cuộc tranh luận về việc Mỹ có nên
trực tiếp can thiệp bằng quân sự diễn ra ở Washington, nhưng do chính quyền Anh
sẽ không ủng hộ nên tổng thống Eisenhower đã quyết định loại bỏ khả năng này.
Cứ điểm Điện Biên Phủ thất thủ sau 56 ngày đêm, toàn bộ 16000 quân Pháp bị
tiêu diệt hoặc bị bắt làm tù binh,. Điện Biên Phủ là chiến thắng quân sự lớn nhất của
Quân đội Nhân dân Việt Nam trong tồn bộ chiến tranh Đơng Dương. Trên phương
diện quốc tế trận Điện Biên Phủ mang ý nghĩa rất lớn: Lần đầu tiên quân đội của
một quốc gia thuộc địa châu Á đánh thắng bằng quân sự một quân đội của một
cường quốc châu Âu. Trận Điện Biên Phủ đã đánh bại ý chí duy trì Đông Dương là
lãnh thổ thuộc Liên hiệp Pháp của Pháp và buộc Pháp ra khỏi Đông Dương. Vào
ngày 8 tháng 5, hội nghị Geneva bắt đầu họp bàn về vấn đề khơi phục hịa bình ở
Đơng Dương.
1.1. Thành phần tham dự
•
•
•
Hai đồng chủ tịch Hội nghị là Liên Xơ và Anh
Phái đoàn Pháp, do Georges Bidault làm trưởng đoàn.
Phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, do Phạm Văn Đồng làm trưởng
đồn.
• Phái đồn Quốc gia Việt Nam, Phái đồn Vương quốc Lào và Phái đoàn
Vương quốc Campuchia (bộ máy chính quyền tay sai ở Đơng Dương) khơng
tham gia đàm phán trực tiếp, ủy nhiệm cho người Pháp.
• Hai phái đồn Pathet Lào và Khmer Issarak khơng được chính thức tham gia
hội nghị mà ủy nhiệm cho phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tất cả các
nguyện vọng của hai đồn này được Việt Nam Dân chủ Cộng hịa trình bày
trước hội nghị.
• Ngồi ra, hội nghị cịn có sự tham dự của hai cường quốc khác là Hoa Kỳ và
Trung Quốc.
1.2. Lập trường và quan điểm các bên tham dự
1.2.1. Việt Nam Dân chủ Cộng hịa
Về phía của Việt Nam Dân chủ Cộng hịa, Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã
đề ra lập trường bao gồm 10 điểm:
1. Pháp cơng nhận độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ của Việt Nam,
Campuchia và Lào
2. Ký một hiệp định về việc rút quân đội nước ngoài ra khỏi 3 nước trong thời hạn
do các bên tham chiến ấn định. Và trước khi rút quân, phải đạt thỏa thuận về nơi
đóng quân của lực lượng Việt Nam hay Pháp trong một số khu vực hạn chế.
3. Tổ chức tổng tuyển cử tự do trong cả 3 nước nhằm thành lập một chính phủ duy
nhất cho mỗi nước.
4. Việt Nam Dân chủ Cộng hịa tun bố sẽ có ý định xem xét việc tự nguyện gia
nhập Liên hiệp Pháp cùng với những điều kiện của việc gia nhập đó.
5. Ba nước thừa nhận các quyền lợi văn hóa và kinh tế của Pháp tại mỗi nước. Sau
khi chính phủ duy nhất được thành lập, các quan hệ văn hóa và kinh tế được giải
quyết theo đúng các nguyên tắc củng cố và bình đẳng.
6. Hai bên cam kết sẽ không truy tố những người hợp tác với đối phương trong
khoảng thời gian chiến tranh.
7. Trao đổi dân thường và tù binh bị bắt trong chiến tranh
8. Ngừng bắn hoàn tồn và trên cả tồn bộ Đơng Dương, đình chỉ đưa quân đội và
thiết bị quân sự mới vào Đông Dương, lập Ủy ban Liên hợp quân sự hai bên và
có sự giám sát của Ủy ban Quốc tế để bảo đảm thực hiện Hiệp định đình chiến.
9. Giới tuyến quân sự không được phép coi là biên giới quốc gia và chỉ tồn tại cho
đến khi hoàn thành cuộc Tổng tuyển cử để thành lập chính phủ liên hiệp.
10. Chấp nhận nhượng bộ về việc có tồn tại giới tuyến quân sự, đổi lại các lực lượng
quân sự của nước ngoài phải rời khỏi Việt Nam. Ban đầu lập trường của Việt
Nam là tập kết ngay tại chỗ. Nếu khơng được thì sẽ chuyển sang lấy Vĩ tuyến
13, cắt ngang đèo Đại Lãnh giữa Khánh Hòa và Phú yên, làm giới tuyến quân sự
tạm thời. Giới tuyến quân sự phép không được coi là biên giới quốc gia.
Tuy nhiên, về mặt chủ trương, Việt Nam Dân chủ Cộng hịa có mục tiêu "độc
lập, thống nhất, dân chủ và hịa bình" với tất cả là 4 phương châm:
1. Mục đích khơng thay đổi nhưng để đạt được mục đích có con đường thẳng nhưng cũng
có con đường quanh co
2. Tơn trọng chủ quyền Việt Nam, bình đẳng và tự nguyện có lợi cả hai bên
3. Lực lượng chủ quan (nội lực của Việt Nam) chính là điều kiện căn bản để đi tới thắng lợi
4. Luôn luôn đặt lợi ích của Việt Nam trong lợi ích của phong trào hịa bình và dân chủ xã
hội chủ nghĩa
Phái đồn Việt Nam Dân chủ Cộng hịa phải dựa vào thơng tin từ phía Trung
Quốc và Liên Xơ. Vì vậy, mặc dù đã có những chuẩn bị trước nhưng Việt Nam Dân
chủ Cộng hịa đã khơng đánh giá được hết ý đồ của các nước lớn trong đó có tham
vọng của Anh và Hoa Kỳ và vai trò của Trung Quốc cũng như không nắm được hết
tất cả những mâu thuẫn giữa những nước lớn với nhau.
1.2.2. Pháp
Điện Biên Phủ thất thủ, sức ép nội bộ từ phong trào đình chiến dâng cao, giải
pháp của Bảo Đại khơng có kết quả, Pháp vẫn muốn bảo vệ các lợi ích cịn lại của
mình ở Đơng Dương và đạt được một lối thốt danh dự khỏi chiến tranh. Ban đầu,
phái đoàn Pháp tham dự Hội nghị có lập trường khá gay gắt: đàm phán với Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa là để xoa dịu dư luận, bảo đảm giải phóng qn Pháp ở
Đơng Dương, đồng thời giữ ổn định chính trị. Nhà nước khơng mất lịng tin. Và
Pháp đã bị thất bại nặng nề sau một thời gian kiên cường ở trận Điện Biên Phủ.
Mendès France thuộc phe chủ nghĩa hịa bình đã thành lập chính phủ mới sau
khi phe chủ chiến ở Pháp bị lật đổ. Chính phủ mới của Pháp muốn rút khỏi cuộc
chiến Đông Dương một cách nghiêm túc trong khi vẫn duy trì các lợi ích kinh tế và
ảnh hưởng văn hóa của mình ở Lào, Campuchia và Việt Nam. "Vấn đề Đơng
Dương chỉ có thể được giải quyết bằng cách nhượng bộ Trung Quốc, với sự công
nhận ngoại giao và dỡ bỏ lệnh cấm vận thương mại", Bộ trưởng Quốc phịng René
Pleven nói.
1.1.1. Liên Xơ
Liên Xơ là khơng muốn chiến tranh ngồi Đơng Dương, buộc phương Tây
đồn kết ủng hộ Hoa Kỳ và buộc Liên Xơ cam kết bảo vệ Trung Quốc. Liên Xô
cũng muốn ngăn không cho quốc hội Pháp thông qua kế hoạch thành lập Cộng đồng
Phịng thủ Châu Âu. Đồng thời, Liên Xơ muốn tạo ra hình ảnh người bảo vệ hịa
bình thế giới và củng cố vị thế của Trung Quốc trên trường quốc tế. Lúc đó Liên Xơ
chỉ quan tâm đến vấn đề châu Âu, cịn châu Á - Thái Bình Dương, Liên Xô để lại
mọi việc cho Trung Quốc.
1.2.3. Hoa Kỳ
Ngay trước khi Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc một tháng, Hoa Kỳ đã yêu
cầu Pháp bằng mọi cách không được thất bại do lo ngại phong trào Cộng sản sẽ lan
rộng khắp Đông Nam Á. Hoa Kỳ từ chối ký Hiệp định Genève nhưng ra Tuyên bố
nước này "sẽ coi mọi sự tái diễn của các hành động bạo lực vi phạm Hiệp định là
điều đáng lo ngại và là mối đe dọa nghiêm trọng đối với hòa bình và an ninh quốc
tế".
Trong Tuyên bố của mình, đối với sự chia cắt Việt Nam trái nguyện vọng của
hai miền Nam - Bắc, chính phủ Mỹ cũng nêu rõ quan điểm "tiếp tục cố gắng đạt
được sự thống nhất thông qua những cuộc tuyển cử tự do được giám sát bởi Liên
Hợp Quốc để bảo đảm chúng diễn ra cơng bằng"
Kết thúc Hội nghị Genève, trưởng phái đồn Chính phủ Mỹ tuyên bố ghi nhận
và cam kết tôn trọng quyết định của các bên tham gia Hội nghị Genève. Nhưng liền
sau đó, chính Tổng thống Mỹ lại tun bố: "Hoa Kỳ không tham dự vào những
quyết định của Hội nghị Genève và không bị ràng buộc vào những quyết định ấy".
1.2.4. Trung Quốc
Hội nghị Genevơ là cơ hội quan trọng để biến Trung Quốc thành một cường
quốc ở châu Á mà khơng nước nào có thể bỏ qua. Trung Quốc khơng quan tâm đến
lợi ích của những người cộng sản và dân tộc chủ nghĩa ở ba nước Đông Dương.
Trung Quốc đang đạt được thỏa hiệp với các nước phương Tây trong việc giải quyết
vấn đề phân chia lãnh thổ, điều này nhằm chống lại lực lượng bản xứ chống Pháp ở
các nước này. Mục tiêu của Trung Quốc là khơng thể để qn đội Mỹ hiện diện q
gần mình. Trưởng phái đoàn Trung Quốc Chu Ân Lai tuyên bố: “Ba nước Đông
Dương sẽ không tham gia bất kỳ liên minh qn sự nào, và khơng một nước ngồi
nào được phép thiết lập căn cứ quân sự trên lãnh thổ của họ”. Tuyên bố của Trung
Quốc, "Hãy có niềm tin lớn và tiếp tục chiến đấu để bảo vệ hòa bình thế giới"
1.2.5. Anh
Anh khơng muốn tham gia vào việc Pháp tái xâm lược Đông Dương cùng với
Hoa Kỳ, nhưng cũng không muốn làm tổn hại đến quan hệ đồng minh của mình với
Hoa Kỳ. Anh đã kiên định khuyên Mỹ nên hỗn các hoạt động qn sự ở Đơng
Dương, bao gồm cả việc thành lập khối SEATO, cho đến khi “các lực lượng cộng
sản đưa ra một giải pháp hịa bình được Mỹ chấp thuận” khác ngồi việc ủng hộ Mỹ
hay. Ngồi ra, Anh cịn thúc đẩy Pháp đàm phán về sức mạnh của mình. Đồng thời,
Anh cũng đề nghị các nước thân Anh, trong đó có Myanmar, tham dự hội nghị, loại
trừ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tuy nhiên, đề nghị của Anh đã bị Liên Xô bác bỏ
vì Việt Nam Dân chủ Cộng hịa là bên tham chiến trực tiếp với Pháp.
1.3. Diễn biến hội nghị
Ngày 26/4/1954, hội nghị Giơnevơ về Đơng Dương chính thức khai mạc. Từ
ngày 8 tháng 5 đến ngày 23 tháng 6, các bên đã trình bày lập trường của mình về
cách giải quyết các vấn đề Việt Nam và Đông Dương. Các cuộc đàm phán tiến triển
rất chậm do khoảng cách lớn về vị trí giữa các đồn. Sự nhượng bộ lẫn nhau đã nảy
sinh trong các cuộc thảo luận riêng tư. Pháp và Trung Quốc đã thống nhất một giải
pháp chung cho vấn đề Đông Dương: giải quyết vấn đề quân sự trước, tách giải
pháp chính trị ở ba nước Đông Dương. Từ 24 tháng 6 đến ngày 20 tháng 7, các đoàn
đại biểu của Pháp và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đàm phán trực tiếp để giải quyết
các vấn đề xoay quanh các vấn đề cụ thể: quyền tham dự hội nghị của các đại biểu
chủ chốt, chính phủ kháng chiến Lào và chính phủ kháng chiến Campuchia;
Ngay từ đầu, Pháp đã đề nghị tạm thời chia đôi Việt Nam và thành lập chính
phủ Liên hiệp. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chấp nhận ý kiến này và đưa ra các đề
xuất về đường phân giới, hai bên tự thương lượng với nhau, phía Pháp đề xuất vĩ
tuyến 18, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa yêu cầu vĩ tuyến 13. Ngày 9/7/1954, phái
đồn của Việt Nam Dân chủ Cộng hịa đề nghị hạ xuống vĩ tuyến 14, Pháp giữ lại vĩ
tuyến 18. Ngày 13/7, phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lại đề nghị hạ xuống
vĩ tuyến 16, đến ngày 19/7 hai bên đạt được thỏa thuận. Theo ý kiến của Anh và
Mỹ, biên giới tạm thời sẽ là vĩ tuyến 17. Ngày 20/7/1954, Hiệp định Giơnevơ về
Đông Dương bắt đầu được ký kết với nhiều văn kiện, đặc biệt là ba hiệp định chấm
dứt thù địch ở Việt Nam, Lào và Campuchia, và là bản tuyên bố cuối cùng của hội
nghị.
Hiệp định tạm thời chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam và Lào được ký kết bởi
hai quân chủ lực tham gia thay mặt Tổng tư lệnh quân đội Liên hiệp Pháp ở Đông
Dương, Thiếu tướng Delteil và Tạ Quang Bửu, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thay mặt Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam.
Hoa Kỳ từ chối công nhận Hiệp định Giơnevơ, nhưng tuyên bố rằng nước này sẽ
"xem xét bất kỳ sự lặp lại nào của các hành động bạo lực vi phạm và đe dọa nghiêm
trọng đến các hiệp định về hịa bình và an ninh quốc tế.".
1.4. Nội dung cơ bản của Hiệp định Genève 1954
Hiệp định Genève 1954 (tiếng Việt: Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954) là hiệp
định đình chiến dẫn đến chấm dứt sự hiện diện của qn đội Pháp trên bán đảo
Đơng Dương, chính thức chấm dứt chế độ thực dân Pháp tại Đông Dương. Sau 75
ngày đàm phán với 8 phiên họp rộng và 23 phiên họp hẹp cùng các hoạt động tiếp
xúc ngoại giao thì Hiệp định được ký ngày 20/7/1954 có nội dung:
•
Các nước tham dự hội nghị cam kết tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ của 3 nước Việt Nam, Lào, Campuchia, không can thiệp vào công
việc nội bộ 3 nước.
•
Các bên tham chiến thực hiện ngừng bắn, lập lại hịa bình trên tồn Đơng
Dương.
•
Các bên tham chiến thực hiện cam kết, chuyển quân, chuyển giao khu vực,
trao trả tù binh.
•
Dân chúng mỗi bên có quyền di cư sang lãnh thổ do bên kia kiểm soát trong
thời gian quân đội hai bên đang tập kết.
•
Cấm đưa quân đội, nhân viên qn sự,vũ khí nước ngồi vào Đơng Dương.
Nước ngồi khơng được đặt căn cứ qn sự tại Đơng Dương.
•
Thành lập Ủy hội Quốc tế Kiểm sốt Đình chiến Đông Dương gồm Ấn Độ,
Ba Lan và Canada, với Ấn Độ làm chủ tịch.
•
Sơng Bến Hải, vĩ tuyến 17, được dùng làm giới tuyến quân sự tạm thời chia
Việt Nam làm hai vùng tập kết quân sự tạm thời. Quân đội Nhân dân Việt
Nam tập trung về phía Bắc; Quân đội Liên hiệp Pháp (bao gồm cả Quân đội
Quốc gia Việt Nam) tập trung về phía Nam, tập kết chính trị tại chỗ, tập kết
dân sự theo nguyên tắc tự nguyện. Khoản a, điều 14 ghi rõ: "Trong khi đợi
tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam, bên nào có quân đội của mình tập hợp ở
vùng nào theo quy định của Hiệp định này thì bên ấy sẽ phụ trách quản lý
hành chính ở vùng ấy."
Điều 6 Bản Tuyên bố chung ghi rõ: "Đường ranh giới quân sự tạm thời này
không thể diễn giải bằng bất cứ cách nào rằng đó là một biên giới phân định về
chính trị hay lãnh thổ."
Hiệp định Genève không ghi rõ chi tiết về thời điểm và cách thức tổ chức
Tổng tuyển cử thống nhất hai miền Nam-Bắc Việt Nam. Nhưng Bản tuyên bố cuối
cùng của Hội nghị Genève ghi rõ cuộc Tổng tuyển cử sẽ được tổ chức vào tháng
7/1956.
1.5. Giai đoạn hậu hiệp định
a) Giới tuyến quân sự tạm thời, Lực lượng vũ trang tập kết và dân chúng di cư
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa miễn cưỡng chấp nhận vĩ tuyến 17 làm giới
tuyến quân sự tạm thời dù đã có chiến thắng ở trận Điện Biên Phủ và mục tiêu mà
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra với đồn đàm phán Việt Nam Dân chủ Cộng hịa là
quyết tâm đạt được điều khoản mà trong đó Việt Nam được thống nhất về mọi mặt.
Các nhà sử học Việt Nam cho rằng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chấp nhận đàm
phán do đó là thời điểm thuận lợi nhất để đạt được lợi ích tối đa. Tương quan lực
lượng Việt Minh - Pháp thật sự khơng có lợi cho Việt Minh nếu tiếp tục chiến đấu.
Điều Việt Minh cần lúc này là tạm hỗn chiến tranh để khơi phục thực lực, sử dụng
giải pháp chính trị để giành chiến thắng toàn diện. Đồng thời, khi phái đoàn Việt
Nam Dân chủ Cộng hịa sang Liên Xơ và Trung Quốc để kêu gọi sự ủng hộ thì hai
cường quốc này tuyên bố sẽ ngừng hỗ trợ Việt Nam nếu Việt Nam tiếp tục chiến
tranh. Trên trường quốc tế lúc đó thực sự bất lợi cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
khi cả Liên Xơ và Trung Quốc đều muốn hịa hỗn với phương Tây.
Pháp và Việt Minh ngừng bắn thực hiện các cuộc tập kết và di chuyển lực
lượng vũ trang. Quân đội Nhân dân Việt Nam tập kết trên vĩ tuyến 17. Pháp và tay
sai di chuyển vào dưới vĩ tuyến 17 và quân đội Pháp rút khỏi Việt Nam trong vòng
2 năm. Khi di chuyển Pháp đã tung tin bịa đặt để gây hoang mang, kích động dân
chúng, thúc ép đồng bào theo đạo Thiên Chúa rời bỏ nhà cửa, ruộng vườn di cư vào
Nam. Có nơi cung cấp tiền của, phương tiện cho bọn phản động gây rối trật tự trị an
như ở Bùi Chu (Nam Định), Phát Diệm (Ninh Bình), gây bạo loạn ở Ba Làng
(Thanh Hóa), Quỳnh Lưu (Nghệ An). Điều này nhằm gây khó khăn cho việc tiếp
quản chính quyền của Việt Minh. Hiệp định cịn quy định các lực lượng chính trị tập
kết tại chỗ. Cũng theo hiệp định, vào tháng 7 năm 1956,Việt Nam sẽ thực hiện
thống nhất bằng một cuộc tổng tuyển cử tự do trong cả nước, dưới sự kiểm soát của
ủy ban quốc tế.
b) Mĩ phá hoại hiệp định Geneva
Ban đầu, Mỹ tun bố ủng hộ nền hịa bình tại Việt Nam và thúc đẩy sự
thống nhất hai miền Nam Bắc Việt Nam bằng các cuộc bầu cử tự do dưới sự giám
sát của Liên Hợp Quốc. Tuy nhiên, những nguồn tin khác nhau chỉ ra cho Tổng
thống Mỹ Eisenhower thấy khoảng 80% dân số Việt Nam sẽ bầu cho Chủ tịch Hồ
Chí Minh nếu cuộc tổng tuyển cử được thi hành. Do đó Mỹ thực tế lại ủng hộ việc
Việt Nam Cộng Hịa (có tiền thân là chính quyền tay sai của Pháp) từ chối tổ chức
Tổng tuyển cử tự do thống nhất Việt Nam. Được Mỹ khuyến khích, Ngơ Đình
Diệm, tổng thống Việt Nam Cộng hịa kiên quyết từ chối tuyển cử. Mỹ muốn có
một chính phủ chống Cộng tồn tại ở miền Nam Việt Nam, bất kể chính phủ đó có
tơn trọng nền dân chủ hay khơng. Mỹ lo sợ chủ nghĩa Cộng sản lan ra toàn Đông
Nam Á.
Ngày 12/2/1955, Pháp rút các sĩ quan huấn luyện khỏi Việt Nam, trong khi
Mỹ bắt đầu giúp huấn luyện sĩ quan Việt Nam tại các căn cứ quân sự Mỹ ở Thái
Bình Dương; huấn luyện các lực lượng vũ trang của Quốc gia Việt Nam (sau là Việt
Nam Cộng hòa); xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ quân sự tại Philippines; bí mật
đưa một lượng lớn vũ khí và thiết bị quân sự vào Việt Nam; giúp đỡ phát triển các
kế hoạch "bình định Việt Minh và các vùng chống đối". Việc Hoa Kỳ viện trợ quân
sự cho Việt Nam Cộng hòa là hành vi vi phạm Hiệp định do tại Chương III Hiệp
định cấm tất cả các bên được tăng quân, tăng vũ khí, thành lập mới các căn cứ quân
sự. Phía Đảng, Chính phủ ta đã thực hiện rất nghiêm túc điều này, thậm chí số cơ sở
bán vũ trang của quân ta còn bị thu hẹp sau các biện pháp đàn áp của chính quyền
Ngơ Đình Diệm. Tới năm 1959 (q hơn 01 năm thời hạn tổ chức Tổng tuyển cử),
khi xác định chắc chắn rằng khơng thể có tổng tuyển cử mới bắt đầu có những hoạt
động hỗ trợ mang tính vũ trang đầu tiên cho lực lượng kháng chiến ở miền Nam
nhằm đáp trả các hành vi vi phạm Hiệp định từ phía Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng
hịa.
c) Chiến tranh tiếp diễn
Lo ngại trước việc những người kháng chiến cũ của chính quyền Việt Nam
Dân chủ Cộng hịa hoạt động bí mật kết hợp công khai tại miền Nam tiến hành hoạt
động tuyên truyền và tổ chức quần chúng đấu tranh chính trị địi thi hành Tổng
tuyển cử, chính phủ Việt Nam Cộng hoà mở Chiến dịch "tố Cộng, diệt Cộng" từ
mùa hè năm 1955. Chiến dịch này đã dẫn đến hàng nghìn người chiến sĩ bị bắt, bị
giết, thậm chí là bị thảm sát hàng loạt, số còn lại phải chạy về các vùng chiến khu
chống Pháp cũ để sống sót. Những người kháng chiến cũ phản cơng lại bằng cách
ám sát các viên chức Việt Nam Cộng hòa lãnh đạo các đợt "tố Cộng, diệt Cộng" qua
các chiến dịch "diệt ác ôn" và tập hợp lại thành các đơn vị bán vũ trang quy mô
trung đội, đại đội hoặc tiểu đồn tấn cơng vào quân đội tay sai. Đến cuối năm 1959,
đấu tranh ở miền Nam đã thay đổi từ phương thức chính trị đơn thuần sang đấu
tranh chính trị kết hợp đấu tranh vũ trang. Cũng trong năm 1959, đoàn cán bộ đầu
tiên của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà dưới tên gọi Đồn 559 bí mật vượt Trường
Sơn vào chi viện cho miền Nam. Đặc biệt, Luật 10-59 không chỉ tàn sát những
người chiến sĩ của quân ta mà còn cả những người dân vơ tội, đã buộc qn ta phải
có những hỗ trợ chi viện sức người, sức của kháng chiến cứu nước mà mặt trận
chính là ở miền Nam.
Tháng 9 năm 1960, trước các hành động vi phạm Hiệp định của chính quyền
Ngơ Đình Diệm, Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ ba của Đảng Lao động Việt
Nam quyết định cho chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa chính thức ủng hộ các
hoạt động đấu tranh vũ trang và chính trị của những người kháng chiến cũ ở miền
Nam (với nịng cốt là cơ sở chính trị của lực lượng Việt Minh tại miền Nam vốn
được hưởng quy chế tập kết tại chỗ của Hiệp định), mở ra một giai đoạn mới của
lịch sử dựng nước và giữ nước của nhân dân ta.
CHƯƠNG 2. ĐÁNH GIÁ VỀ HIỆP ĐỊNH GENÈVE 1954
2.1. Thành công của Hiệp định Genève 1954
Trải qua 7 phiên họp toàn thể và 24 phiên họp cấp trưởng đoàn rất căng thẳng
và phức tạp, nhưng với tinh thần chủ động và cố gắng của Chính phủ ta, ngày
20/7/1954, Hiệp định Genève về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam đã được ký kết. m
mưu phá hoại Hội nghị Genève của đế quốc Mỹ và bọn hiếu chiến Pháp hòng kéo
dài và mở rộng chiến tranh xâm lược Đông Dương đã thất bại.
Hiệp định Geneva bao gồm những thỏa thuận chung cho cả ba nước Việt Nam,
Lào, Campuchia. Theo đó, các nước tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng các quyền
dân tộc cơ bản là độc lập, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân
ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia; không can thiệp vào công việc nội bộ ba nước
đó; đình chỉ chiến sự trên tồn khu vực Đơng Dương.
Chính phủ Pháp cam kết rút hết quân viễn chinh về nước; cấm việc đưa quân
đội, nhân viên qn sự, vũ khí nước ngồi vào ba nước Đơng Dương.
Các nước Đơng Dương khơng được cho nước ngồi đặt căn cứ quân sự bên
trong lãnh thổ của mình; không được tham gia các khối liên minh quân sự. Các bên
không trả thù những người hợp tác với đối phương. Trao trả tù binh, những người bị
giam giữ.
Trách nhiệm thi hành Hiệp định Geneva thuộc về những người ký kết Hiệp
định và những người kế tiếp nhiệm vụ của họ.
2.1.1. Thành công của Hiệp định Genève 1954 đối với Việt Nam
Ở Việt Nam, Pháp và Mặt trận Việt Minh cùng thực hiện ngừng bắn, tập kết,
chuyển quân, chuyển giao khu vực; lấy vĩ tuyến 17 (dọc sông Bến Hải) làm giới
tuyến quân sự tạm thời cùng với một khu phi quân sự ở hai bên giới tuyến. Theo
Bản Tuyên bố cuối cùng thì: “Giới tuyến qn sự chỉ có tính chất tạm thời, hồn
tồn khơng thể coi là ranh giới về chính trị và lãnh thổ”. Hai bên có 300 ngày cho
việc tập kết, chuyển quân. Việc thống nhất đất nước sẽ thực hiện bằng cuộc tổng
tuyển cử tự do trong cả nước, tổ chức vào tháng 7/1956 có sự giám sát của Ủy ban
quốc tế (gồm Ấn Độ, Ba Lan, Canada, do Ấn Độ làm Chủ tịch).
2.1.2. Thành công của Hiệp định Genève 1954 đối với Lào, Campuchia
Đối với Lào, lực lượng kháng chiến (Pathet Lào) rút về tập kết tại hai tỉnh
Xamneua (Sầm Nưa) và Phongsaly (Phongsaly). Thời hạn rút quân, chuyển quân
trong vòng 120 ngày.
Riêng ở Campuchia, lực lượng kháng chiến (Khmer Itsarak) không có vùng
giải phóng, nên phải giải giáp tại chỗ với thời hạn 30 ngày, được bảo đảm các quyền
công dân Vương quốc Campuchia.
Ngoài ra, lực lượng kháng chiến của hai nước (Pathet Lào và Issarak Khmer)
cũng giành được quyền tham gia vào chính phủ liên hiệp mới thành lập sau hiệp
định.
2.1.3.
Ý nghĩa của Hiệp định Geneve: một số điểm chính
Như vậy, ngay cả khi cịn có những hạn chế, những nhượng bộ khó khăn (Việt
Nam mới giải phóng được một nửa nước từ vĩ tuyến 17 ra Bắc; Lào chỉ có hai tỉnh
Xamneua và Phongsaly, lượng lượng kháng chiến Campuchia phải giải giáp), thì
Hiệp định Geneva vẫn là một thắng lợi lớn của khơng chỉ nhân dân Việt Nam, mà
cịn của cả cách mạng Lào, Campuchia
Việc kí kết hiệp định cũng có ý nghĩa to lớn với phong trào giải phóng dân tộc
trên thế giới, thể hiện rõ nét nhất trên một số vấn đề cơ bản.
Một là, Hiệp định Geneva 1954 chính thức chấm dứt cuộc chiến tranh xâm
lược của thực dân Pháp, buộc Pháp phải rút quân về nước. Thất bại của Pháp khẳng
định thắng lợi chính nghĩa của nhân dân ba nước Đông Dương, cổ vũ mạnh mẽ
phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới.
Hai là, lần đầu tiên trong lịch sử, các nước lớn tham dự hội nghị đã cam kết
tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản là độc lập, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ ba nước thuộc địa Việt Nam, Lào, Campuchia. Đây là cơ sở pháp lý quốc tế
để nhân dân ba nước tiếp tục thực hiện đấu tranh chống lại mọi hành động xâm lược
của chủ nghĩa thực dân, đế quốc thời gian tiếp theo.
Ba là, miền Bắc Việt Nam được hồn tồn giải phóng, giành được nền hịa
bình q giá để từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội, trở thành hậu phương, căn cứ
địa vững chắc, chuẩn bị chi viện tiền tuyến lớn miền Nam và cả cách mạng Lào,
Campuchia trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975).
Khẳng định lại thắng lợi to lớn của Hiệp định Geneva 1954, Báo cáo Chính trị
Ban Chấp hành Trung ương Đảng do đồng chí Lê Duẩn trình bày tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ III đã nêu rõ: “Việc lập lại hịa bình ở Đơng Dương, hồn
tồn giải phóng miền Bắc Việt Nam, và đặt cơ sở pháp lý cho việc thống nhất nước
Việt Nam là một thắng lợi to lớn của nhân dân ta, đồng thời cũng là một thắng lợi
của các lực lượng xã hội chủ nghĩa, hịa bình và dân chủ trên thế giới. Nó phản ánh
tình hình lực lượng so sánh ở Đơng Dương và trên thế giới lúc bấy giờ.”
Đối với Lào và Campuchia, thời gian hịa hỗn của hiệp định tạo điều kiện
thuận lợi cho lực lượng kháng chiến của hai nước bạn có cơ hội, thời gian để tập
hợp, xây dựng lực lượng chờ thời cơ lật đổ chính quyền tay sai ở mỗi nước.
2.2.
Hạn chế của Hiệp định Genève 1954
Bên cạnh những thắng lợi vàng son ghi danh sử sách, cịn có những mặt hạn
chế như: vĩ tuyến phân vùng ở Việt Nam không chỉ là vĩ tuyến 17 mà cịn có thể lùi
về phía Nam; 2 năm mới diễn ra một cuộc tổng tuyển cử và không bao giờ diễn ra
sau đó; đại biểu kháng chiến Lào và Campuchia không được mời đến tham dự Hội
nghị và kháng chiến Campuchia khơng có vùng tập kết; như theo u cầu của Pháp
thời gian chuyển quân ở Việt Nam quá dài đến gần 300 ngày … Một số ý kiến cho
rằng Hiệp định không phản ánh đúng tương quan lực lượng trên chiến trương. Đại
tá Hà Văn Lâu, nguyên thành viên Đoàn đàm phán của chúng ta tại Hội nghị cho
rằng “Hiệp định phản ánh không đầy đủ xu thế thắng lợi của ta trên chiến trường và
xu thế của cuộc đấu tranh chính trị giữa ta và Pháp”. Minh chứng cho đánh giá này
là ở chỗ sau Điện Biên Phủ, ở Đông Dương Pháp thiệt hại lớn, mất gần một phần tư
quân số, co cụm ở thế phòng ngự, khả năng tiến cơng khơng có, nguy cơ bị tiêu diệt
là thực tế. Làm sao đảm bảo lực lượng còn lại tránh bị tiêu diệt là điều quan tâm
nhất của Pháp lúc đó. Thế của địch là thế thua, bị động về chiến lược và chiến đấu
trên khắp các chiến trường, trong khi khơng có khả năng tăng viện. Tướng Navarre
được Chính phủ Pháp cho quyền quyết định rút khỏi Hà Nội để “tránh Hà Nội là
một Điện Biên Phủ thứ hai”.
Mỹ muốn Pháp tiếp tục chiến tranh và với chủ trương chính nếu có can thiệp
thì can thiệp tập thể khi lập khối quân sự Đông Nam Á (SEATO). Nhưng Anh, Pháp
kiên quyết phản đối lập SEATO trước Hội nghị Genève vì lo sẽ phá Hội nghị và
Mỹ sẽ đóng vai trị chủ đạo. Vì vậy, có thể khẳng định: khơng có cơ sở để nói rằng
Mỹ sẽ can thiệp quân sự vào Đông Dương năm 1954. Như vậy, sau chiến dịch chấn
động địa cầu Điện Biên Phủ, chúng ta không đánh tiếp và ký kết Hiệp định Genève
là bỏ lỡ thời cơ giải phóng hồn tồn đất nước. Tất nhiên, có thể xảy ra trường hợp
chính quyền Mỹ thay đổi chính sách. Việc điều chỉnh chính sách phải cần có thời
gian. Các nhà nghiên cứu cho rằng Mỹ sẽ khơng kịp điều chỉnh chính sách khi ta
giải phóng cả nước. Tháng 11/1968, cố vấn Lê Đức Thọ gặp Phó Thủ tướng, Bộ
trưởng Ngoại giao Trần Nghị, Trần Nghị cho rằng việc ký Hiệp định Genève lúc đó
là sai lầm. Nhân dân miền Nam bị chết nhiều là vì nó. Quyết định ký Hiệp định
Genève của chúng ta cịn có nhân tố tác động từ chính phía Trung Quốc. Trung
Quốc luôn thổi phồng khả năng can thiệp của Mỹ để hù dọa chúng ta. Mục tiêu
chính của Trung Quốc tại Hội nghị Genève chính là phải ký được Hiệp định và chia
cắt Việt Nam, nhằm đẩy Mỹ ra xa và có khu đệm an ninh ở phía Nam Trung Quốc.
Tổng kết lại, qua nghiên cứu nhiều tư liệu mới, nên một số học giả đi đến
những đánh giá mới về Hiệp định Genève năm 1954 về Đông Dương trên ba vấn
đề: Hiệp định là một sai lầm; Việt Nam tham gia Hội nghị hoàn toàn bị động mặc
dù có khơng ít thời gian để chuẩn bị; và nguyên nhân việc chúng ta đã không triển
khai ý tưởng của Hồ Chí Minh về đàm phán trực tiếp với Pháp.
CHƯƠNG 3. BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO HIỆN TẠI
Hiệp định Giơ-ne-vơ về kết thúc chiến tranh lập lại hịa bình ở Đông Dương là
thắng lợi quan trọng của đường lối cách mạng, đường lối kháng chiến, đường lối
đối ngoại đúng đắn dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, là thành
quả của sự kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị, quân sự và ngoại giao, minh
chứng hùng hồn cho chính sách đồn kết tồn dân, đoàn kết quốc tế của Đảng và
Nhân dân ta. Hơn 60 năm lịch sử trôi qua kể từ ngày 20-7-1954, thành công của
hiệp định Giơ-ne-vơ đã để lại những bài học kinh nghiệm quý báu, làm hành trang
cho nền ngoại giao Việt Nam.
3.1. Ngoại giao chỉ phát huy sức mạnh tối đa khi kết hợp sức mạnh của đất nước
trên mọi phương diện
Ngoại giao chỉ phát huy vai trò và công dụng tối đa trên nền tảng sức mạnh
tổng hợp của đất nước được thể hiện trên mọi phương diện: kinh tế, chính trị, quân
sự... Thực sự, chúng ta chỉ có thể giành được thắng lợi trên bàn đàm phán khi chúng
ta giành được chiến thắng trên chiến trường. Thắng lợi về quân sự ở Điện Biên Phủ
góp phần quyết định vào thắng lợi về ngoại giao ở Giơ-ne-vơ. “Chiến dịch Điện
Biên Phủ đối với tình hình quân sự, chính trị ở Đơng Dương, đối với sự trưởng
thành của Quân đội ta, cũng như đối với công cuộc bảo vệ hịa bình thế giới có ý
nghĩa rất quan trọng, nhất là trong lúc Hội nghị Giơnevơ sắp họp. Bởi vậy ta phải
kiên quyết giành toàn thắng cho chiến dịch này”. Chiến thắng Điện Biên Phủ lừng
lẫy năm châu, chấn động địa cầu, là nơi đánh dấu “chủ nghĩa thực dân lăn xuống
dốc và tan rã” làm xoay chuyển cục diện chiến tranh ở Đông Dương, tạo cơ sở thực
lực về quân sự cho cuộc đấu tranh ngoại giao của ta tại Hội nghị Giơ-ne-vơ.
3.2. Bài học “dĩ bất biến ứng vạn biến” theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Theo nhà ngoại giao lão thành Võ Văn Sung, chiến thắng của Hiệp định
Geneva và Hiệp định Paris sau này là bài học về trường phái ngoại giao Hồ Chí
Minh. Phân tích về bài học “dĩ bất biến, ứng vạn biến” được vận dụng trong Hiệp
định Geneva, ông Sung cho rằng: “Trong Hiệp định Geneva, cái "bất biến" là Việt
Nam độc lập, thống nhất, tồn vẹn lãnh thổ. Đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đến Hiệp
định Paris sau này. Còn "vạn biến" là trong lúc chưa thực hiện được mục tiêu đầy
đủ, có thể nghĩ ra hàng vạn cách, kể cả để một nửa nước tạm thời chưa được giải
phóng, rồi từng bước, từng bước tiến tới đạt được mục tiêu bất biến. Đó là một
phương pháp ngoại giao, trong trường phái ngoại giao Hồ Chí Minh.” - Báo điện tử
chính phủ nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam VGP.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói "Mục đích bất di bất dịch của ta vẫn là hồ
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng
sách lược của ta thì linh hoạt". Bên cạnh đó, muốn “ứng vạn biến” thì phải đánh giá
đúng về thế và lực của ta, của đối tác, về chiều hướng chuyển biến so sánh lực
lượng, về cái thuận và nghịch của tình hình quốc tế trong từng giai đoạn và thời
điểm cụ thể để từ đó xác định giới hạn của nhân nhượng, xác định bước đi thích
hợp, sẵn sàng khắc phục mọi thử thách.
Một cách tổng quát, thực hiện triết lý “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Bác
trong hoạt động đối ngoại là nắm vững, kiên định mục tiêu, bản lĩnh vững vàng,
quyết đoán, khơn khéo, mau lẹ, kịp thời để ứng phó thích hợp với từng hồn cảnh,
từng tình thế, từng đối tượng trong từng trường hợp, từng vấn đề cụ thể, nhằm nhận
biết, tạo dựng, nắm bắt cơ hội để bảo vệ và thực hiện tốt nhất lợi ích của quốc gia,
dân tộc.
3.3.
Bài học trong việc đánh giá chính xác tình hình quốc tế, chiến lược, thái độ của
các nước lớn để tìm ra đối sách phù hợp nhất, đảm bảo lợi ích quốc gia, dân tộc
trong công tác ngoại giao
Đảng và Chính phủ hiểu rằng, để tiến hành cuộc chiến tranh không cân sức
với Pháp, nhân dân đã phải chịu rất nhiều gian khổ, hy sinh. Hơn thế, mặc dù Pháp
đã phải chịu thất bại nặng nề ở Điện Biên Phủ “nhưng nói chung tồn quốc, sức ta
so với địch mới là xấp xỉ”. Bên cạnh đó, Pháp chưa phải đã hết khả năng tăng viện
trợ cho chiến trường Đông Dương. Nếu chiến tranh kéo dài, rất có thể sẽ dẫn đến
hiện tượng mệt mỏi và khó khăn cho ta nhiều hơn. Sức dân cần phải được phục hồi
thì mới có thể “xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”. Trong tương quan lực lượng cụ
thể như vậy, việcta chấp nhận ký hiệp định Giơ-ne-vơ khi điều bất biến là độc lập
dân tộc đã được thừa nhận cũng là điều hợp lý.
Đó là sự nhận định vơ cùng sáng suốt của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh
về bối cảnh quốc tế, so sánh tương quan lực lượng của ta với đối phương lúc bấy
giờ. Trên cơ sở đó, Đảng cũng đề ra đường lối lãnh đạo, chỉ đạo sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc đúng đắn. Đó chính là nghệ thuật “biết người, biết ta”, biết
“điểm dừng” cần thiết để củng cố, xây dựng, phát triển lực lượng, tích lũy vật chất,
tạo thế và lực mới. Đó sẽ là bàn đạp để ta tiến từng bước vững chắc trên con đường
sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc.
3.4. Bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
Sức mạnh dân tộc đã đem lại chiến thắng đông – xuân 1953-1954 và chiến
dịch Điện Biên Phủ (1954). Kết quả này đã đập tan những cố gắng cuối cùng của
thực dân Pháp cùng sự giúp sức của đế quốc Mĩ, buộc Pháp phải ngồi vào bàn đàm
phán với ta tại hội nghị Giơ-ne-vơ. Ta đã vạch trần ý định xâm lược của Mỹ, tố cáo
địch chà đạp Hiệp định Giơ-ne-vơ, chống hiệp thương tổng tuyển cử, âm mưu chia
cắt Việt Nam lâu dài nhờ nghệ thuật vận dụng triệt để tính pháp lý của Hiệp định
Giơ-ne-vơ và đấu tranh toàn diện trên tất cả lĩnh vực. Đặc biệt là lúc đế quốc Mỹ
đưa quân vào xâm lược nước ta (năm 1965), mở rộng chiến tranh, Chính phủ ta đã
dựa trên cơ sở pháp lý về quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam được quy định trong
Hiệp định Giơ-ne-vơ, đưa ra lập trường bốn điểm nổi tiếng. Đây vừa là cơ sở vững
chắc để đấu tranh chống đế quốc Mỹ, lại vừa tạo được sự đồng tình, ủng hộ đơng
đảo nhân dân và nhiều chính giới ở nhiều nước, cũng như của những người u
chuộng hịa bình, bảo vệ cơng lý trên tồn thế giới.
3.5. Trong đấu tranh ngoại giao, số phận của dân tộc mình phải do chính mình tự
định đoạt
Sự duy trì lợi ích trong mối quan hệ quốc tế là một thực tế hiển nhiên. Nếu
trong đấu tranh cách mạng, phải “mang sức ta mà giải phóng cho ta” thì trong đấu
tranh ngoại giao, số phận của dân tộc mình phải do chính mình tự định đoạt. Hội
nghị Giơ-ne-vơ đã đem lại nhiều bài học kinh nghiệm giúp chúng ta độc lập, tự chủ
hơn, vững vàng hơn để đến Hội nghị Pari năm 1973, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
tiến hành đàm phán trực diện với Mỹ. Sự độc lập, tự chủ của ta thể hiện rõ, từ thành
phần, nội dung, thời gian đàm phán đến hình thức đàm phán tại Hội nghị Pa-ri đã
chứng minh giá trị đó.
KẾT LUẬN
Hội nghị Geneva là một thắng lợi lớn của Nhân dân Việt Nam và phong trào
đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới, đánh dấu bước mở đầu có tính quyết định
cho sự sụp đổ hệ thống thực dân thống trị trên quy mơ tồn cầu, góp phần quan
trọng cổ vũ cuộc đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa trên thế giới. 50 năm đã
qua những hiệp định Geneva vẫn in đậm dấu ấn trong tâm trí của các thế hệ người
dân Việt Nam và lồi người tiến bộ. Mặc dù vẫn còn rất nhiều quan điểm cho rằng
Việt Nam chưa đạt được những gì xứng đáng thuộc về chúng ta và nếu Việt Nam
tiếp tục đánh chắc chắn sẽ giành độc lập và thống nhất đất nước, hai miền Nam Bắc
không bị chia cắt bởi vĩ tuyến 17. Tuy nhiên, theo lời chủ tịch Hồ Chí Minh: “ có
người thấy thắng ln, muốn đánh bừa, đánh đến cùng, họ chỉ thấy cây mà không
thấy rừng, chỉ thấy Pháp rút mà không thấy âm mưu của chúng, chỉ thấy Pháp,
không thấy Mỹ…Họ đề ra những điều kiện q cao, việc gì họ cũng muốn mau,
khơng biết đấu tranh cho hịa bình là gian khổ và phức tạp..”, chúng ta thấy rằng để
đạt thắng lợi hoàn toàn khơng hề dễ dàng, cần nhìn bao qt tình thế lúc đó cũng
như tương quan so sánh lực lượng giữa ta và địch. Hội nghị Geneva đã đánh dấu
mốc lịch sử quan trọng của cách mạng Việt Nam, là thắng lợi vĩ đại có tầm thời đại
và quốc tế của một nước nhỏ đánh thắng một đế quốc to, là bài học đàm phán, ký
kết Ngoại giao đầu tiên làm tiền đề cơ bản và kinh nghiệm quý báu cho đàm phán
trong hội nghị Paris sau này. Cho đến nay, hội nghị Geneva vẫn còn giữ mãi giá trị
thời sự sâu sắc, ý nghĩa thời sự nóng hổi đối với việc xây dựng và bảo vệ nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Hơn hết, Hội Nghị Giơnevơ đã đánh dấu
một bước tiến quan trọng cho Ngoại Giao Việt Nam ra tầm quốc tế, Ngoại Giao đa
phương. Thông qua Hội Nghị, Việt Nam đã đạt được những bài học kinh nghiệm
quý báu, từ đó xây dựng nền Ngoại Giao Việt Nam thêm trưởng thành và lớn mạnh
hơn.
Bài tiểu luận chắc chắn cịn nhiều thiếu sót và cần được sửa chữa, rất mong
nhận được những ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GS. TS. Vũ Dương Huân, “Một số suy nghĩ mới về Hội nghị Giơ-ne-vơ năm
1954 về Đông Dương”, nghiên cứu quốc tế, ngày 13/09/2021, xem tại:
/>2. “Hiệp định Genève, 1954”, cổng thông tin điện tử phường Phúc Lợi,
30/06/2017, xem tại: Cổng thông tin Điện tử phường Phúc Lợi Quận Long Biên
- Thành phố Hà Nội
3. “Diễn biến Hội nghị và nội dung chính Hiệp định Geneva”, VOV, 16/07/2014,
xem tại: />fbclid=IwAR0UWLlFJsqHo1c5Lz2skFx9TLwvR3IyX4zEk9Ehb_RNmsuqdrYhFxtdgY
4. wikipedia
/>5. Tuyengiao.vn, Hiệp định Geneva 1954 - Thắng lợi và bài học lịch sử, Thứ Hai,
20/7/2020 13:52'(GMT+7)
Link: />[Accessed: 27/11/2021]
6. Phịng Lý luận chính trị - Lịch sử Đảng - Ban Tuyên giáo Thành ủy TPHCM,
Hiệp định Genève - Dấu son của ngoại giao Việt Nam, Cập nhật: 16:00 20-072021
Link: />[Accessed: 27/11/2021]
7. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam - Hệ thống Tư liệu, Văn kiện Đảng, Hiệp
định Giơnevơ về Lào năm 1962, Thứ Sáu, 26/1/2018 11:40'(GMT+7)
Link:
/>[Accessed: 27/11/2021]