Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Tìm hiểu về ca dao Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.32 KB, 11 trang )

ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
Trung tâm Đào tạo Elearning

CODE:

-------------------

BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN: Tiếng Việt thực hành
ĐỀ BÀI: TÌM HIỂU VỀ CHỦ ĐỀ TRONG CA DAO VIỆT NAM

NĂM 2021

1


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU………………………………………………………………………
PHẦN I. KHÁI NIỆM CA DAO
PHẦN II. VAI TRÒ, TẦM QUAN TRỌNG CỦA CA DAO TRONG ĐỜI
SỐNG.
PHẦN III. CÁC CHỦ ĐỀ CA DAO……………………………………….
KẾT LUẬN ………………………………………………………………….

2


LỜI MỞ ĐẦU
Dân ca giữ một vị trí quan trọng và mang tính chất phổ biến trong đời sống tinh thần
cũng như trong lao động, sinh hoạt hằng ngày của nhân dân. Hai yếu tố quan trọng để
hình thành nên giai điệu và tiết tấu âm nhạc là ngữ điệu ngôn ngữ và nhịp điệu lao động.


Khởi đầu, các bài dân ca được sáng tạo một cách tự phát nhưng ln gắn với một mục
đích, đối tượng nhất định. Sự kế tục của người đời sau cùng với sự phát triển của xã hội
dần dần đưa các bài dân ca vào thực tiễn các hoạt động trong cuộc sống, gắn liền chúng
với các phong tục tập quán hay một loại hình sinh hoạt, lao động cụ thể. Trải qua thời
gian dài tồn tại, dân ca được truyền lại đời sau bằng cách truyền khẩu. Theo GS. TS Trần
Quang Hải:
Dân ca là những bài hát, khúc ca được sáng tác và lưu truyền trong dân gian mà không
thuộc về riêng một tác giả nào. Đầu tiên bài hát có thể do một người nghĩ ra rồi truyền
miệng qua nhiều người, từ đời này qua đời khác và được phổ biến ở từng vùng, từng dân
tộc… Các bài dân ca được gọt giũa, sàng lọc qua nhiều năm tháng bền vững cùng với
thời gian .
Theo Phạm Phúc Minh:“Dân ca là những bài hát cổ truyền do nhân dân sáng tác, được
lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và được nhân dân ca hát theo phong tục tập
quán của từng địa phương, từng dân tộc” .Cùng với khái niệm về dân ca của các tác giả
khác, ta có thể hiểu dân ca là những bài hát do nhân dân sáng tác, không rõ tác giả, lưu
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác theo lối truyền khẩu, được hát theo phong tục tập
quán từng địa phương và có nhiều dị bản.
1. Khái niệm ca dao
1.1. Ca dao và các khái niệm liên quan
Ca là hát, dao là bài hát ngắn gọn có vần điệu. Như vậy, theo nghĩa từ ngun thì ca
dao là những bài hát ngắn gọn có vần điệu. Ca dao được hình thành từ dân ca. Khi nói
đến ca dao, người ta thường nghĩ đến lời cạ. Khi nói dân ca thì thường nghĩ đến cả làn điệu
và những thể thức hát nhất định.

3


Thuật ngữ dân ca xuất hiện muộn hơn, vào khoảng cuối những năm 1950, trong
sách Tục ngữ và dân ca Việt Nam của Vũ Ngọc Phan. Hiện nay, các nhà nghiên cứu quan
niệm dân ca như sau : Dân ca bao gồm phần lời, phần giai điệu, phương thức diễn xướng và

cả môi trường, khung cảnh ca hát.
Tuy nhiên, cần phải lưu ý, sự phân biệt ca dao và dân ca chỉ có ý nghĩa tương đối và
vận dụng trong khuôn khổ sách vở nhà trường. Bởi xét về bản chất và nguồn gốc thì ca dao
và dân ca là một đối tượng, đó là những câu hát của dân gian, ra đời để người ta hát, phục
vụ nhu cầu giãi bày tình cảm và giải trí của người dân. Trước kia, trong dân gian chưa có
thuật ngữ ca dao hay dân ca, người bình dân thường dùng những từ ngữ khác nhau để chỉ
đối tượng này :
+ Đến đây rượu thịt bánh bò
Ai ca ca với, ai hò hò chơi
+ Em ơm bó mạ xuống đồng
Miệng hị tay cấy mà lòng nhớ ai
Các thuật ngữ phong dao và ca dao xuất hiện càng nhiều trong các sách quốc ngữ.
Phạm vi phản ánh của hai từ này có những chỗ giống nhau : Ca dao là phong dao vì có
những bài ca dao phản ánh phong tục của mỗi địa phương, mỗi thời đại, nhưng từ phong
dao ngày càng ít được sử dụng.
Từ đó có thể quan niệm rằng : Ca dao là những sáng tác văn chương của nhân dân lao
động, được phổ biến rộng rãi, được lưu truyền qua nhiều thế hệ mang những đặc điểm nhất
định, bền vững về phong cách.
Như vậy, ca dao và dân ca có mối liên hệ mật thiết với nhau nhưng ca dao có tính độc
lập tương đối của nó. Vì thế, việc nghiên cứu, tìm hiểu ca dao với tư cách là một thể loại
văn học dân gian là hợp lí (tất nhiên là có chú ý đến mối quan hệ với dân ca).
1.2. Quá trình hình thành và phát triển của ca dao
Ca dao có mặt rất sớm ở dạng thơ sơ, có những câu xuất hiện từ thời ngun thuỷ
trong các bài ca nghi lễ, các bài cúng tế, bài ca lao động… Người ta chỉ phỏng đoán như vậy

4


dựa vào một số câu ca dao nghi lễ sưu tầm được (bản thân các nghi lễ đó tồn tại từ thời xa
xưa).

Hiện nay, dạng thức cơ bản của ca dao là thể lục bát (95% số câu sử dụng thể thơ
này), cho nên quá trình phát triển của ca dao gắn liền với sự hình thành và phát triển thể lục
bát.
Khoảng thế kỉ XVI – XVI, thể lục bát hình thành và được vận dụng trong sáng tác
văn học (truyện thơ nôm). Đến thế kỉ XVII – XVIII, ca dao phát triển nở rộ, lúc này trình độ
ngơn ngữ phát triển cao, thể lục bát đạt đến độ hoàn chỉnh để có thể diễn đạt tâm tư, tình
cảm của con người.
2. Vai trò của dân ca trong đời sống
Bắt nguồn từ thực tế sinh động của đời sống, dân ca là bức tranh toàn cảnh phong
phú phản ánh cuộc sống sinh hoạt, tâm tư tình cảm của người dân Việt. Trải qua nhiều ngàn
năm dựng nước và giữ nước, người dân Việt đồng hành với những thăng trầm của dân tộc.
Trong đó âm nhạc chứa đựng những biến động mang tính cộng đồng, gia đình và cá nhân
mỗi người. Với sự ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống, âm nhạc đã trở thành một yếu tố quan
trọng để giúp con người vượt lên những khó khăn vất vả, giãi bày những tâm tư sâu kín,
cũng có khi âm nhạc phản ánh sự bất công hay ca ngợi cái đẹp của tình yêu, của thiên
nhiên...
Nội dung dân ca Việt Nam đã phản ánh một cách sinh động, thiết thực và phong phú
trên tất cả các mặt trong đời sống lao động và văn hóa xã hội.
Trong lao động vất vả, các bài hò, vè, hát đối đáp là những liều thuốc hữu ích để
con người quên đi mệt nhọc. Chúng ta có thể tìm thấy tính cộng đồng mạnh mẽ trong Hị
kéo thuyền (Dân ca Thanh Hóa) và nhiều bài khác.
Sự nhịp nhàng, mạnh mẽ nhưng khoan thai của hò vãi chài, hò kéo lưới Nam Bộ… là
những tác phẩm nghệ thuật dân gian độc đáo để giúp cho con người qn đi những khó
khăn trong cơng việc. Cùng với những điệu hò, điệu lý mềm mại, nhẹ nhàng, lời tỏ tình của
những chàng trai, cơ gái thơn q trở thành những câu hát giao duyên trên những con sông,
5


cánh đồng ruộng lúa. Có thể nói, nhân dân ta sử dụng câu hát như một ngôn ngữ đằng sau
ngôn ngữ tiếng nói để giãi bày tâm sự, suy nghĩ, chia sẻ kinh nghiệm, tỏ tình hay phản

kháng một vấn đề, có bao nhiêu ngành nghề là có bấy nhiêu nội dung dân ca.
Trong quan hệ gia đình, con cái, người ta hát để bày tỏ ước mơ tìm đến hạnh phúc:
nói “thương” khơng có nghĩa là “thương hại” mà bao hàm những nghĩa: cảm thương, dễ
thương, trìu mến, vừa yêu thương, vừa muốn che chở cho người mình yêu.
Trong dân ca Việt Nam, không thiếu những câu hát để mỉa mai, cười nhạo hay bày tỏ
sự oán trách, tâm trạng u uẩn...
Có thể nói dân ca đã gắn chặt với đời sống tinh thần của người dân Việt trên mọi lĩnh
vực, môi trường, điều kiện. Sự phong phú về thể loại, bài bản, làn điệu không chỉ bộc lộ khả
năng thơng minh, nhạy cảm vốn có mà cịn thể hiện rất rõ nét tính cách của người Việt: nhân
hậu, khoan dung, tế nhị nhưng cũng rất mạnh mẽ dám đối chọi với những cái đi ngược thuần
phong mĩ tục, sẵn sàng chống lại các thế lực áp bức, bất cơng.
Dân ca Việt Nam cịn là nguồn chất liệu vơ tận để các nhạc sĩ khai thác đưa vào
những sáng tác mới ở thể loại thanh nhạc và khí nhạc.
Các nhạc sĩ sử dụng âm điệu dân ca nhạc cổ trong những ca khúc theo cách thức
khác nhau. Chẳng hạn, Lời Bác dặn trước lúc đi xa (Trần Hoàn), Trên đỉnh phù vân (Phó
Đức Phương), Đất nước lời ru (Văn Thành Nho) dựa trên chất liệu ca trù. Một số ca khúc
khác lại mang nét âm điệu chung phổ biến trong các thể loại dân ca: Địu con đi nhà trẻ (Đào
Ngọc Dung), mang âm điệu dân ca Tày, Em nhớ Tây Nguyên (Văn Tấn - Trần Quang Huy)
mang âm hưởng dân ca Tây Nguyên.
Trong khí nhạc, nhiều nhạc sĩ cũng đã sử dụng dân ca ca làm chất liệu sáng tác như:
Nguyễn Văn Nam (Rủ nhau đi gánh lúa vàng), Tô Vũ - Tạ Phước (Trống ngày hội), Nguyễn
Văn Thương (Phi ngựa bắn cung)... Hay những năm gần đây, nhạc sĩ Đặng Hữu Phúc
với Tổ khúc (suite) cho piano solo "Chùm hoa Việt Nam" gồm 5 đoạn cho dàn nhạc dây lấy
cảm hứng từ những làn điệu dân ca và nhạc truyền thống của Việt Nam (dân ca Mèo, Dao,
Quan họ, Chèo, Chầu văn).
6


Trong bối cảnh của thời kì hội nhập và tồn cầu hóa, khi mà sự giao thoa và tiếp biến
các giá trị văn hóa nói chung và văn hóa dân gian nói riêng đã tạo nên những trào lưu mới

trong xã hội, và cũng tạo nên những ảnh hưởng không ít tới sự hình thành và phát triển
những nét tâm lý, tính cách của thế hệ trẻ. Chính vì vậy, giáo dục âm nhạc truyền thống,
trong đó có dạy hát dân ca hình thành cho thế hệ trẻ những tình cảm đúng đắn với âm nhạc
nói chung, với âm nhạc truyền thống nói riêng và để hình thành nhân cách của con người
Việt Nam chân chính.
3. Các chủ đề trong ca dao Việt nam
“Ca dao cũng là thơ nhưng là một loại thơ đặc biệt” (Chế Lan Viên). Lời nhận xét đó muốn
nhấn mạnh đến bản chất trữ tình của thể loại ca dao. Có nghĩa là ca dao lấy thế giới nội tâm,
tình cảm, cảm xúc của nhân vật trữ tình làm đối tượng miêu tả. Ca dao nhìn thế giới bằng
con mắt, bằng tâm trạng đầy cảm xúc của nhân dân.
Một điểm đáng lưu ý, cảm xúc trong ca dao không phải là của riêng một cá nhân.
Cảnh ngộ và tâm trạng của nhân vật trữ tình trong ca dao đại diện cho cả cộng đồng, chứa
đựng nếp cảm, nếp nghĩ của nhân dân lao động. Trong ca dao, nổi lên những đề tài chính :
3.1 Những câu hát về tình cảm gia đình
Ca dao về tình cảm gia đình có vị trí quan trọng trong đời sống của người bình dân,
chúng thường được diễn xướng bằng loại hình ca hát trong sinh hoạt của nhân dân, đặc biệt
là gắn với loại hình hát ru. Qua những câu hát ngọt ngào, tha thiết, những tình cảm chân
thành, sâu nặng được trao truyền, nhắn gửi cho những thế hệ sau. Mỗi lời ca tiếng hát đó
vun đắp những tình cảm, hình thành nhân cách cho con người.
Cơng cha như núi ngất trời,
Nghĩa mẹ như nước ở ngồi biển Đơng.
Núi cao biển rộng mênh mơng,
Cù lao chín chữ ghi lịng con ơi!
Câu ca dao sử dụng nghệ thuật so sánh, ngợi ca công lao sinh thành, dưỡng dục của
cha mẹ. Cơng cha được ví với chiều cao khơn cùng – “núi ngất trời”, nghĩa mẹ được tả với
7


chiều rộng vơ biên của nước “ngồi biển Đơng”, chiều nào cũng tận, như cơng lao của cha
mẹ khơng gì đo đếm được.

Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.
Câu ca dao bắt đầu bằng một mơ típ quen thuộc về thời gian “chiều chiều”. Buổi
chiều, đặc biệt chiều tối, chiều muộn là khoảng thời gian sắp tàn của một ngày, là giao hoà
giữa ánh sáng và bóng tối. Nhịp đi của thời gian vũ trụ vội vã bao nhiêu thì nhịp sinh hoạt
của con người cũng hối hả bấy nhiêu. Cùng với muôn vật, con người cũng vội vã trở về tổ
ấm. Do đó, với những người tha phương, xa xứ, buổi chiều là khoảng thời gian gợi buồn,
thời điểm gợi sự đoàn viên sum họp. Nhịp “chiều chiều” gợi tả sự đều đặn đến khắc khoải
của thời gian, là chiều muộn và cũng là sự lặp lại của thời gian. Chắc hẳn đây là lời tâm tình
của người con gái lấy chồng xa, đang gặp những nỗi buồn, tủi thân tủi phận, bởi lẽ cuộc
sống làm dâu xa nhà, khi cô đơn, bất hạnh, người con gái thường nhớ về mẹ để tìm một sự
cảm thông, chia sẻ. Người con gái mỗi khi nhớ đến quê nhà phương xa lại nao nao một nỗi
buồn, hết ngày này qua ngày khác vẫn mang nặng một nỗi buồn khôn nguôi. Người con gái
lấy chồng xa như cố nén nỗi nhớ nhà. “Ngõ sau” là khoảng không gian yên tĩnh, vắng vẻ,
khác hẳn vẻ xôn xao ngoài ngõ, trước cổng. Chọn một nơi khuất vắng như vậy, cơ gái bộc
bạch tâm trạng của mình, cả tấm lịng, tình cảm của mình về q nhà – nơi có những người
thân yêu, ruột thịt. Khoảng cách xa vời càng tăng thêm nỗi nhớ khắc khoải… Bài ca dao thể
hiện một cách sâu lắng và xót xa tâm trạng nhớ quê hương, gia đình của một người con gái
lấy chồng xa.
3.2 Những câu hát về tình yêu quê hương, đất nước, con người
Ca dao là tiếng hát tâm tình của người lao động, trong đó nổi bật là tình cảm nam nữ,
tình u lứa đơi. Bên cạnh đó, ca dao cũng ca ngợi vẻ đẹp của những miền quê, thể hiện tình
cảm, sự gắn bó với q hương đất nước của con người. Ca ngợi quê hương đất nước không
chỉ xuất hiện trong ca dao sinh hoạt, trong cuộc sống đời thường, trong hát ru, mà ngay cả
trong những lời đối đáp của nam nữ cũng gửi gắm tình yêu với những cảnh đẹp của núi
sông, ruộng đồng.
8


Ở đâu năm cửa nàng ơi …

Ở trên tỉnh Lạng có thành tiên xây.
Bài ca dao có cấu trúc đối đáp, là lời của nam nữ hát với nhau trong những hội hè
đình đám hay trong những sinh hoạt đời thường của người bình dân. Hình thức đối đáp là
dạng phổ biến của ca dao trữ tình, khiến chúng ta hình dung ra bối cảnh của những câu hát
đó, đồng thời chứa đựng tâm tình, xúc cảm của người đang đối đáp.
Bài ca dao không chỉ là lời đối đáp của nam và nữ mà cịn là hình thức hát đố. Hát đố
vừa để thử tài của người hát vừa để bộc lộ tình cảm, sự hiểu biết và thơng cảm với nhau.
Thơng qua cách đối đáp, người ta có thể cảm nhận về người khác ở khía cạnh hiểu biết, cách
ứng xử, tài năng…
Vế thứ nhất xuất hiện hai từ “nàng ơi”, cho chúng ta biết đây là lời của chàng trai.
Câu hỏi thử thách do đó trở nên mềm mại, tha thiết. Trong mỗi lời của chàng trai có một câu
hỏi, cần tìm một lời giải đố. Mục đích của người hát đố khơng phải là đưa ra những câu hỏi
hóc búa, khơng có đáp án mà điều quan trọng là anh ta lựa chọn những hình ảnh, những sự
vật độc đáo, gây ấn tượng với đối phương : “năm cửa – sông sáu khúc – sông bên đục bên
trong – núi thắt cổ bồng – đền thiêng – thành tiên xây”.
Tưởng chừng câu hỏi rất khó, nhưng đó đều là những địa danh nổi tiếng, với những
đặc trưng nổi bật mà chàng trai đã nêu thì cơ gái đáp lại đầy đủ và cũng rất chân tình. Cấu
trúc hai vế rất hài hoà, cân đối : Ở lời hỏi, chàng trai cất tiếng gọi tha thiết “nàng ơi” thì ở
câu đáp, cơ gái cũng rất nhẹ nhàng, tình tứ nhắn nhủ bằng từ “chàng ơi”. Cơ gái cũng đã rất
tài tình, sâu sắc trong câu trả lời vì khơng chỉ hồn thành tất cả những đáp án mà còn giữ
nguyên được đặc điểm những sự vật, hiện tượng trong lời hỏi của chàng trai. Tất cả tên
sông, tên núi đã được cô gái thay vào những từ để hỏi “sông nào, núi nào” trong lời chàng
trai. Như vậy, đây là dạng kết cấu hai vế tương hợp rất quen thuộc của ca dao, thể hiện sự
hoà hợp về tình cảm, tâm tình trong những câu hát dân gian.
3.3 Những câu hát than thân
Nếu như truyện cổ tích miêu tả người nông dân một cách chân thực, sinh động, lột tả
những nỗi cơ cực, bất công của họ trong cuộc đấu tranh giai cấp thì ca dao đã thể hiện hình
9



tượng người nông dân một cách đầy cảm xúc, với sự đồng cảm, chia sẻ và sự nâng niu trân
trọng phẩm chất của những người chân lấm tay bùn đó qua mảng ca dao chủ đề than thân.
Ca dao than thân trở thành tiếng hát tâm tình, gần gũi đầy xúc cảm của người lao động
thơng qua những hình ảnh ẩn dụ rất đỗi đời thường, giản dị : cái cò, cái kiến, dã tràng…
Đến thể loại ca dao, trong hệ thống những cái cua, cái ốc, cái tôm, cái tép thì cái cị trở
thành hình ảnh nổi bật, phổ biến không phải ở vẻ đẹp rực rỡ, to tát mà tiêu biểu cho những
thân phận nhỏ bé, đáng thương.
Nước non lận đận một mình,
Thân cị lên thác xuống ghềnh bấy nay.
Ai làm cho bể kia đầy,
Cho ao kia cạn, cho gầy cò con ?
3.4 Những câu hát châm biếm
Ca dao châm biếm, hài hước đã khéo léo lựa chọn những chi tiết đặc tả hình dáng,
tính cách, hoạt động của những kiểu người nhất định trong xã hội xưa. Những bức tranh
biếm hoạ đầy sinh động mang lại tiếng cười sảng khối, gửi gắm ý nghĩa phê phán những
thói hư tật xấu của những con người đó :
Con cị chết rũ trên cây …
Chim chích cởi trần vác mõ đi rao.
Nội dung của ca dao dẫu về đề tài nào cũng phong phú và sâu sắc. Nổi bật lên trong
ca dao vẫn là hình tượng người nơng dân với phẩm chất đẹp đẽ, giàu tình yêu thương, đằm
thắm, mặn mà trong cách nghĩ, trong cách ứng xử
Ca dao luôn gắn bó với các hình thức ca hát dân ca, sinh hoạt văn hố văn nghệ của nhân
dân. Khn khổ nhà trường cũng như nhu cầu thưởng thức vẻ đẹp ngơn từ của ca dao đã
khiến chúng ta có hình thức tiếp cận văn bản ca dao. Nhưng muốn phát hiện vẻ đẹp đầy
đủ và đúng với bản chất của thể loại ca dao thì chúng ta phải đặt mỗi tác phẩm trong mơi
trường, hồn cảnh diễn xướng, tồn tại của chúng. Mỗi câu ca dao được hát lên trong làn
điệu dân ca của nó sẽ bộc lộ đầy đủ vẻ đẹp, sự sinh động và giá trị biểu cảm. Ngồi ra,
ca dao cịn sử dụng đặc biệt thành cơng các biểu tượng (hoa, trăng, rồng – phượng ; trúc
10



– mai…) cũng như các biện pháp điệp từ, phong đại, nói ngược… để tăng cường khả
năng diễn đạt của ngơn ngữ trong việc biểu hiện tình cảm, tâm trạng của con người.

11



×