Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

TIỂU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐÁNH GIÁ VỀ CÁC PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM TRƯỚC KHI ĐẢNG CỘNG SẢN RA ĐỜI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.89 KB, 28 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
--------♣♣♣♣♣--------

HỌC PHẦN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN:
ĐÁNH GIÁ VỀ CÁC PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CỦA
NHÂN DÂN VIỆT NAM TRƯỚC KHI ĐẢNG CỘNG SẢN RA
ĐỜI


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................................................... 5
PHẦN NỘI DUNG.............................................................................................................9
I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ CỦA THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM CUỐI THẾ KỶ XIX
ĐẦU THẾ KỈ XX........................................................................................................... 9
1. Tình hình thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỉ XX.................................................. 9
2. Tình hình Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX............................................ 10
II. PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM TRƯỚC KHI
ĐẢNG CỘNG SẢN RA ĐỜI....................................................................................... 14
1. Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến.................................... 14
1.1. Các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu trong phong trào chống Pháp ở Nam Kỳ.........14
1.2. Phong trào Cần Vương (1885-1896)................................................................15
1.3. Phong trào nông dân Yên Thế (1885-1913).....................................................17
2. Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản...............................18
2.1. Phong trào Đông Du........................................................................................ 18
2.2. Phong trào Duy Tân.........................................................................................19
2.3. Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản nổi bật.............20
3. Các xu hướng cải cách........................................................................................... 22
3.1. Tư tưởng canh tân vê kinh tế, chính trị............................................................22
3.2. Tư tưởng canh tân vê giáo dục, văn hóa.......................................................... 23


3.3. Tư tưởng canh tân vê quân sự, ngoại giao....................................................... 24
4. Phong trào của tổ chức Việt Nam Quốc dân Đảng................................................ 24
5. Nguyên nhân thất bại và ý nghĩa lịch sử................................................................25
KẾT LUẬN......................................................................................................................27
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................29
1. Tính cấp thiết của đề tài

LỜI MỞ ĐẦU

Tinh thần yêu nước đã trở thành truyên thống đấu tranh bất khuất trong lịch sử dân tộc,
có vai trò hết sức to lớn trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, trong các phong
trào cách mạng Việt Nam. Ngay từ năm 1858, khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước
ta thì phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam đấu tranh để bảo vệ nên độc lập dân
tộc đã bắt đầu. Từ năm 1858 đến trước năm 1930 đã nổ ra các cuộc khởi nghĩa, phong


trào đấu tranh với mục tiêu giành lại nên độc lập dân tộc. Đó là cuộc chiến đấu của quân
và dân ta dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu; khởi nghĩa của Trương
Định, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trung Trực... Đó là các cuộc khởi nghĩa theo tiếng gọi
"Cần Vương" của Phan Đình Phùng, Nguyễn Thiện Thuật, Đinh Công Tráng... Những
cuộc đấu tranh vô cùng oanh liệt đó của Nhân dân ta chống thực dân Pháp đêu bị đàn áp
tàn bạo và thất bại. Mặc dù bị đàn áp dã man nhưng các phong trào yêu nước vẫn tiếp
tục phát triển mạnh. Đã xuất hiện các phong trào yêu nước theo chủ trương mới và có xu
hướng tư sản như các phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân, các cuộc
khởi nghĩa của tiểu tư sản, trí thức trong Việt Nam Quốc dân Đảng do Nguyễn Thái Học
lãnh đạo... Tuy nhiên, các phong trào đó cũng không đi đến thành công. Nguyên nhân cơ
bản là do các phong trào khơng tìm được đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc và con
đường phát triển đúng đắn, chưa phản ánh đúng nhu cầu phát triển của xã hội Việt Nam.
Nhưng nhìn chung, các phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam mang ý nghĩa sâu
sắc: Để lại nhiêu bài học kinh nghiệm vê tổ chức hoạt động, tác chiến. phong trào yêu

nước có vị trí, vai trị cực kỳ to lớn trong quá trình phát triển của dân tộc Việt Nam. Là
giá trị văn hoá trường tồn trong văn hoá Việt Nam. Phong trào yêu nước mang đậm
khuynh hướng phong kiến và dân chủ tư sản là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự kết hợp
các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nước ta đi đến độc lập được như ngày hôm nay đêu dựa vào công sức của mỗi người,
đặc biệt là các phong trào yêu nước của nhân dân dân Việt Nam. Chính những phong
trào đó


đã góp phần vào cách mạng Việt Nam Tiến lên một bậc, là nên tảng cho những thế hệ
anh hùng sau học hỏi. Cho nên, các phong trào yêu nước trước khi có Đảng là cột mốc
vô cùng quan trọng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc, đánh dấu vê ý thức
hệ tư tưởng sâu sắc.
Từ tình hình trên, em nhận thấy việc tìm hiểu, nghiên cứu vê tình hình lúc bấy giờ, các
phong trào yêu nước, xu hướng cải cách trước khi Đảng ra đời là một cột mốc quan
trọng trong lịch sử nước nhà. Với lý do đó, nhóm em quyết định chọn đê tài:
“Đánh giá về các phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam trước khi có Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời”
2. Tổng quan nghiên cứu
Từ xa xưa, đấu tranh vì độc lập dân tộc đã trở thành truyên thống tốt đẹp của người dân
Việt Nam, và truyên thống đó được phát huy qua từng thời kỳ, trong đó phải kể đến
phong trào yêu nước trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Từ thực tiễn đó, bài
nghiên cứu sẽ chỉ ra những nét tiêu biểu, những bài học kinh nghiệm lớn từ các phong
trào yêu nước thời kì này, dựa trên những ghi chép vê thực tiễn của lịch sử Việt Nam với
những nghiên cứu đi sâu vào các phong trào yêu nước tiêu biểu nhất, cụ thể là các phong
trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến như phong trào Cần Vương (1885 - 1896),
phong trào nông dân Yên Thế (1885 - 1913)... và các phong trào yêu nước theo phong
cách dân chủ tư sản như phong trào Duy Tân, Đông Du… Đồng thời nêu lên những xu
hướng cải cách thời bấy giờ và các phong trào của Việt Nam Quốc dân Đảng. Để từ đó
làm rõ tính bức thiết đòi hỏi phải có một chính Đảng lãnh đạo, một con đường cứu nước

đúng đắn, đáp ứng xu thế tất yếu thời bấy giờ.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu hoàn cảnh lịch sử của thế giới và Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu
thế kỉ XX, đê tài tìm hiểu kĩ hơn các phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam trước
khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, củng cố và hoàn thiện nguyên nhân thất bại và ý ý


nghĩa lịch sử của các phong trào yêu nước của nhân dân ta. Từ đó, đánh giá vê vai trò
của các phong trào yêu nước đối với Cách mạng Việt Nam nói chung và sự hình thành
Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng.
4. Đối tượng nghiên cứu:
Để thể hiện nội dung và đạt được mục tiêu nghiên cứu của đê tài, chúng em sẽ tìm hiểu
và làm rõ vê hồn cảnh lịch sử của thế giới và Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỉ XX,
các phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản ra đời. Từ đó,
phân tích và đưa ra được xu hướng phát triển, diễn biến cũng như là nguyên nhân thành
công hay thất bại và ý nghĩa lịch sử của sự kiện.
5. Phạm vị nghiên cứu:
Chúng em nghiên cứu đê tài nhìn nhận từ hồn cảnh, tình hình lịch sử của thế giới, sau
đó xem xét tình hình xã hội tại Việt Nam và những tác động xu thế trên thế giới lên tình
hình chính trị, văn hoá, xã hội Việt Nam. Từ đó mới nghiên cứu đến các phong trào yêu
nước diễn ra ở Việt Nam trong bối cảnh đất nước thời bấy giờ.
6. Phương pháp nghiên cứu:
Tiểu luận được chúng em sử dụng những phương pháp nghiên cứu, học tập Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam dựa trên phương pháp luận khoa học mác xít, đặc biệt là nắm
vững chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để xem xét và nhận
thức lịch sử một cách khách quan, trung thực và đúng quy luật với nhận thức lịch sử theo
quan điểm khách quan, toàn diện và lịch sử cụ thể.
Cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là nên tảng tư tưởng, dẫn
dắt sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, là cơ sở và định hướng vê phương pháp
nghiên cứu.

7. Kết cấu nghiên cứu:
Bài tiểu luận được chúng em xây dựng trên kết cấu gồm hai phần lớn.


Đầu tiên là làm rõ bối cảnh lịch sử thời bấy giờ trên thế giới và bối cảnh lịch sử tại Việt
Nam, đưa ra được cái nhìn tồn cảnh và làm rõ tình hình văn hoá, chính trị, xã hội của
nước nhà.
Phần thứ hai là các phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam trước khi Đảng Cộng
Sản ra đời. Cụ thể theo từng khuynh hướng mà các phong trào đi theo: khuynh hướng
phong kiến, khuynh hướng dân chủ tư sản. Trong đó có một vài phong trào nổi bật được
chúng em làm rõ và phân tích cụ thể. Qua diễn biến các phong trào, tiểu luận có nêu lên
các xu hướng cải cách, nguyên nhân thất bại và ý nghĩa lịch sử của các phong trào yêu
nước nói trên.


PHẦN NỘI DUNG
I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ CỦA THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM CUỐI THẾ KỶ
XIX ĐẦU THẾ KỈ XX
1. Tình hình thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỉ XX
Lịch sử - xã hội thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là giai đoạn có nhiêu sự kiện
mang tính thời đại, ảnh hưởng rất lớn đối với quá trình phát triển của lịch sử xã hội loài
người và có tác động mạnh mẽ đến đời sống xã hội Việt Nam. Trong đó:
Ở phương Tây, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật làm cho chủ nghĩa tư bản
chuyển nhanh từ giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc.
Trong quá trình phát triển, do quy luật phát triển không đồng đêu của chủ nghĩa tư bản
đã dẫn đến các cuộc khủng hoảng kinh tế những năm 1900 – 1903 và sau đó là tổng
khủng hoảng và Chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Để mở rộng thị trường, các nước tư
bản đã tiến hành xâm lược và áp dụng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa vào các
dân tộc phương Đông. Điêu này làm biến đổi sâu sắc các mặt của đời sống xã hội như
kinh tế, tư tưởng, chính trị… trên phạm vi toàn thế giới. Vê chính trị, nên dân chủ tư sản

cùng với các giá trị dân chủ, bình đẳng, bác ái có ý nghĩa to lớn trong tiến trình lịch sử
nhân loại. Tuy nhiên, quá trình cơng nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa làm cho sự phân hóa
giàu nghèo và bất bình đẳng trong xã hội tư bản chủ nghĩa ngày càng tăng lên. Đồng
thời, một số nước tư bản nhanh chóng trở thành đế quốc chủ nghĩa liên kết với nhau đi
xâm lược thuộc địa ở các nước châu Á, châu Phi và châu Mỹ - Latinh. Mặc dù vậy, nên
dân chủ tư sản cũng có những ảnh hưởng nhất định đối với các nhà tư tưởng canh tân ở
Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Vê cơ cấu xã hội, ngoài giai cấp tư sản, địa
chủ quý tộc, nơng dân cịn có sự hình thành, phát triển ngày càng lớn mạnh cả vê số
lượng và chất lượng của giai cấp công nhân. Nhiêu tổ chức đảng vô sản, đảng xã hội
theo xu hướng tiến bộ cách mạng của giai cấp công nhân xuất hiện tại Đức, Pháp, Anh
đã ít nhiêu tác động đến tư tưởng của các nhà canh tân ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX.


Ở phương Đông, sau khi xâm lược, chủ nghĩa tư bản đã áp đặt phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa lên các nước phương Đông, để lại cho các dân tộc thuộc địa cả những hệ
quả tiêu cực và tích cực, trong đó hệ quả tiêu cực là chủ yếu. Trước hết phải kể đến hệ
quả tiêu cực, chủ nghĩa tư bản tạo ra ở các nước thuộc địa một nên kinh tế què quặt, trì
trệ, lệ thuộc vào các nước tư bản; đời sống nhân dân ở các nước thuộc địa lâm vào cảnh
một cổ hai tròng áp bức. Song, sự thay đổi của phương thức sản xuất và những hệ quả
của nó cũng đã góp phần thức tỉnh các dân tộc phương Đơng chuyển mình theo xu thế
thời đại. Các nước Nhật Bản, Thái Lan và Trung Quốc đã tiến hành canh tân đất nước
thành công, tạo ra sự phát triển mạnh mẽ vê kinh tế - xã hội, làm thay đổi căn bản chế độ
chính trị. Bên cạnh đó, thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga (năm 1917) đưa đến
sự ra đời của chế độ xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới.
Thực tiễn sinh động ấy đặt câu hỏi cho dân tộc Việt Nam là phải bằng con đường cách
mạng nào để bảo vệ độc lập cho dân tộc và phát triển đất nước. Đây là những sự kiện
lịch sử rất quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hình thành tư tưởng canh tân
ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
2. Tình hình Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

Là quốc gia Đông Nam Á nằm ở vị trí địa chính trị quan trọng của châu Á, Việt Nam trở
thành đối tượng nằm trong mưu đồ xâm lược của thực dân Pháp trong cuộc chạy đua với
nhiêu đế quốc khác.
Trong trào lưu xâm lược thuộc địa của chủ nghĩa tư bản phương Tây, từ năm 1858 thực
dân Pháp bắt đầu tiến công quân sự để chiếm Việt Nam. Sau khi đánh chiếm được nước
ta, thực dân Pháp thiết lập bộ máy thống trị thực dân và tiến hành những cuộc khai thác
nhằm cướp đoạt tài nguyên, bóc lột nhân công rẻ mạt và mở rộng thị trường tiêu thụ
hàng hóa. Từ năm 1897, thực dân Pháp tiến hành chương trình khai thác thuộc địa lần
thứ nhất và sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), chúng tiến hành chương trình
khai thác thuộc địa lần thứ hai ở Đông Dương với số vốn đầu tư trên quy mô lớn, tốc độ
nhanh. Do


sự du nhập của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tình hình kinh tế Việt Nam có sự
biến đổi: quan hệ kinh tế nông thôn bị phá vỡ, hình thành nên những đơ thị mới, những
trung tâm kinh tế và tụ điểm cư dân mới. Nhưng thực dân Pháp khơng du nhập một cách
hồn chỉnh phương thức tư bản chủ nghĩa vào nước ta, mà vẫn duy trì quan hệ kinh tế
phong kiến. Chúng kết hợp hai phương thức bóc lột tư bản và phong kiến để thu lợi
nhuận siêu ngạch. Chính vì thế, nước Việt Nam khơng thể phát triển lên chủ nghĩa tư
bản một cách bình thường được, nên kinh tế Việt Nam bị kìm hãm trong vòng lạc hậu và
phụ thuộc nặng nê vào kinh tế Pháp.
Về chính trị, chúng tiếp tục thi hành chính sách chuyên chế với bộ máy đàn áp nặng nê.
Mọi quyên hành đêu thâu tóm trong tay các viên quan cai trị người Pháp, từ tồn qun
Đơng Dương, thống đốc Nam Kỳ, khâm sứ Trung Kỳ, thống sứ Bắc Kỳ, công sứ các
tỉnh, đến các bộ máy quân đội, cảnh sát, tồ án...; biến vua quan Nam triêu thành bù
nhìn, tay sai. Chúng bóp nghẹt tự do, dân chủ, thẳng tay đàn áp, khủng bố, dìm các cuộc
đấu tranh của dân ta trong biển máu. Chúng tiếp tục thi hành chính sách chia để trị rất
thâm độc, chia nước ta làm ba kỳ, mỗi kỳ đặt một chế độ cai trị riêng và nhập ba kỳ đó
với nước Lào và nước Campuchia để lập ra liên bang Đông Dương thuộc Pháp, xóa tên
nước ta trên bản đồ thế giới. Chúng gây chia rẽ và thù hận giữa Bắc, Trung, Nam, giữa

các tôn giáo, các dân tộc, các địa phương, thậm chí là giữa các dòng họ; giữa dân tộc
Việt Nam với các dân tộc trên bán đảo Đông Dương.
Về văn hóa, chúng thi hành triệt để chính sách văn hóa nô dịch, gây tâm lý tự ti,vong
bản, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan, đồi phong bại tục. Mọi hoạt động yêu
nước của nhân dân ta đêu bị cấm đoán. Chúng tìm mọi cách bưng bít và ngăn chặn ảnh
hưởng của nên văn hóa tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam và thi hành chính sách ngu
dân để dễ bê thống trị.
Về xã hội, các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ảnh hưởng mạnh mẽ đến tình
hình xã hội Việt Nam. Sự phân hoá giai cấp diễn ra ngày càng sâu sắc hơn.


Giai cấp địa chủ phong kiến đã tồn tại hơn ngàn năm. Do chính sách kinh tế và chính trị
phản động của thực dân Pháp, giai cấp địa chủ càng bị phân hóa thành ba bộ phận khá rõ
rệt: tiểu, trung và đại địa chủ. Có một số địa chủ bị phá sản. Vốn sinh ra và lớn lên trong
một quốc gia dân tộc có truyên thống yêu nước chống ngoại xâm, lại bị chính sách thống
trị tàn bạo vê chính trị, chèn ép vê kinh tế, nên một bộ phận không nhỏ tiểu và trung địa
chủ không chịu nỗi nhục mất nước, có mâu thuẫn với đế quốc vê quyên lợi dân tộc nên
đã tham gia đấu tranh chống thực dân và bọn phản động tay sai.
Giai cấp nông dân chiếm khoảng 90% dân số. Họ bị đế quốc, phong kiến địa chủ và tư
sản áp bức, bóc lột rất nặng nê. Vì bị mất nước và mất ruộng đất nên nông dân có mâu
thuẫn với đế quốc và phong kiến, đặc biệt sâu sắc nhất với đế quốc và bọn tay sai phản
động. Họ vừa có yêu cầu độc lập dân tộc, lại vừa có yêu cầu ruộng đất, song yêu cầu vê
độc lập dân tộc là bức thiết nhất. Giai cấp nông dân có truyên thống đấu tranh kiên
cường bất khuất là lực lượng to lớn nhất, một động lực cách mạng mạnh mẽ.
Giai cấp tư sản hình thành trong quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Trước
Chiến tranh thế giới thứ nhất, tư sản Việt Nam mới chỉ là một tầng lớp nhỏ bé.Sau chiến
tranh, tư sản Việt Nam đã hình thành giai cấp rõ rệt. Ra đời trong điêu kiện bị tư bản
Pháp chèn ép, cạnh tranh rất gay gắt, nên số lượng tư sản Việt Nam không nhiêu,thế lực
kinh tế nhỏ bé, thế lực chính trị yếu đuối.
Trong quá trình phát triển, giai cấp tư sản Việt Nam phân thành hai bộ phận:

 Tư sản mại bản là những tư sản lớn, hợp tác kinh doanh với đế quốc, bao thầu
những cơng trình xây dựng của chúng ở nước ta. Vì có quyên lợi kinh tế và chính
trị gắn liên với đế quốc thực dân, nên tư sản mại bản là tầng lớp đối lập với dân
tộc.
 Tư sản dân tộc là bộ phận đông nhất trong giai cấp tư sản, bao gồm những tư sản
loại vừa và nhỏ, thường hoạt động trong các ngành thương nghiệp, công nghiệp
và cả tiểu thủ công nghiệp. Giai cấp tư sản dân tộc là một lực lượng cách mạng
không thể thiếu trong phong trào cách mạng giải phóng dân tộc.


Giai cấp tiểu tư sản bao gồm nhiêu bộ phận khác nhau: tiểu thương, tiểu chủ, thợ thủ
công, viên chức, trí thức, học sinh, sinh viên và những người làm nghê tự do. Giữa
những bộ phận đó có sự khác nhau vê kinh tế và cách sinh hoạt, nhưng nhìn chung, địa
vị kinh tế của họ rất bấp bênh, luôn luôn bị đe dọa phá sản, thất nghiệp. Họ có tinh thần
yêu nước nồng nàn, lại bị đế quốc và phong kiến áp bức, bóc lột và khinh rẻ nên rất hăng
hái cách mạng.
Giai cấp cơng nhân hình thành trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất và đến cuộc
khai thác thuộc địa lần thứ hai, giai cấp công nhân đã phát triển nhanh chóng vê số
lượng nhưng còn non trẻ, trình độ học vấn, kỹ thuật thấp, nhưng sống khá tập trung tại
các thành phố, các trung tâm công nghiệp và các đồn điên. Giai cấp công nhân Việt Nam
phải chịu ba tầng lớp áp bức bóc lột (đế quốc, phong kiến và tư sản bản xứ), có mối
quan hệ gần gũi nhiêu mặt với nông dân, không bị phân tán vê lực lượng và sức mạnh và
sớm tiếp thu được tinh hoa văn hóa tiên tiến trong trào lưu tư tưởng của thời đại cách
mạng vô sản để bồi dưỡng bản chất cách mạng của mình.
Tóm lại, chính sách thống trị của thực dân Pháp đối với Việt Nam và cả Đông Dương
nói chung là một chính sách thống trị chuyên chế vê chính trị, bóc lột nặng nê vê kinh tế
nhằm đem lại lợi nhuận tối đa vê kinh tế, kìm hãm và nơ dịch vê văn hóa, giáo dục,...
Nước Việt Nam đã có những biến chuyển sâu sắc vê chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Việt Nam từ một xã hội phong kiến thuần tuý đã biến thành một xã hội thuộc địa. Trong
bối cảnh đó, những luồng tư tưởng ở bên ngoài: tư tưởng Các mạng tư sản Pháp, phong

trào Duy tân Nhật Bản, cuộc vận động Duy tân tại Trung Quốc, cách mạng Tân Hợi
Trung Quốc... đặc biệt là cách mạng tháng Mười Nga đã tác động mạnh mẽ, làm chuyển
biến phong trào yêu nước những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Năm 1919, trên
chiến hạm của Pháp ở Bắc hải, Tôn Đức Thắng tham gia đấu tranh chống việc can thiệp
vào nước Nga Xô viết. Năm 1923, luật sư Phan Văn Trường từ Pháp vê nước và ông
công bố tác phẩm của C.Mác và Ph.Ăngghen: Tuyên ngôn của Đảng cộng sản trên báo
La Cloche Féléc, từ số ra ngày 29-3 đến 20-4-1926, tại Sài Gòn góp phần tuyên truyên
tư tưởng vô sản ở Việt Nam.


II. PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM TRƯỚC
KHI ĐẢNG CỘNG SẢN RA ĐỜI
1. Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến
1.1. Các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu trong phong trào chống Pháp ở Nam Kỳ
 Khởi nghĩa Trương Định (1859 – 1864): Từ năm 1861 đến 1862, ở Nam Kỳ đã
nổi lên nhiêu trung tâm kháng chiến như Trần Xuân Hòa ở Mỹ Tho, Thiên hộ
Dương ở Đồng Tháp Mười, Quản Là ở Tây Ninh… Trong giai đọan này, cuộc
khởi nghĩa của Trương Định ở Gị Cơng là tiêu biểu nhất, có quy mơ lớn nhất và
gây tổn thất nặng nê nhất cho Pháp.
Bối cảnh lịch sử: Năm 1859, giặc Pháp đưa quân đánh chiếm Gia Định.
Diễn biến:
O

Ngay sau khi Pháp tiến vào Gia Định năm 1859, Trương Định đã đem quân
lên đóng chiếm tại Thuận Kiêu, Gia Định để phòng ngự và có nhiêu chiến
cơng trên các đoạn từ Gị Cây Mai đến Thị Nghè. Đến năm 1960, ơng được
triêu đình phong chức Phó lãnh binh tham gia giữ đồn Kỳ Hòa.

O


Đầu năm 1861, đồn Kỳ Hòa thất thủ, Trương Định rút quân vê Gị Cơng
chuẩn bị cho cơng cuộc trường kỳ kháng chiến. Dưới sự chỉ dẫn của ông,
nghĩa quân giành nhiêu thắng lợi tại Gị Cơng, Tân An và Mỹ Tho, Chợ
Lớn kéo dài đến 2 nhánh sông Vàm Cỏ đến tận biên giới Campuchia.

O

Tháng 3 năm 1862, phần lớn các huyện của Gia Định và Định Tường đêu
được giải phóng, quân Pháp đã rút lui khỏi nhiêu đồn. Đến ngày 5/6/1862,
triêu đình nhà Nguyễn kí Hiệp ước Nhâm Tuất đồng ý giao 3 tỉnh miên
Đông Nam Kỳ cho thực dân Pháp nên đã ra lệnh cho Trương Định phải
ngừng chiến đấu và giải tán nghĩa quân. Nhưng Trương Định đã cương
quyết chống lại lệnh của triêu đình và cùng nhân dân tiếp tục kháng chiến
chống Pháp tại Gị Cơng


O

Ngày 26/2/1863, Pháp mở đợt tấn công căn cứ Tuy Hịa của nghĩa qn tại
Gị Cơng, cuộc chiến diễn ra ác liệt suốt ba ngày liên. Đến ngày 28/2/1863,
căn cứ Tuy Hòa bị mất, Trương Định phải rút vê Biên Hòa và đưa một số
nghĩa quân vê Thủ Dầu Một của Tây Ninh để tiếp tục chiến đấu.

Kết quả: Cuộc khởi nghĩa của Trương Định cũng bị dập tắt do sự tương quan vê
lực lượng của ta và địch ngày càng có sự chênh lệch lớn theo hướng không có lợi
cho nghĩa quân Trương Định.
 Khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực (1861 – 1868): Năm 1861, Nguyễn Trung Trực
(tức Nguyễn Văn Lịch) nổi dậy ở Tân An, chỉ huy nghĩa quân đốt cháy tàu Hy
Vọng (Espérance) của giặc Pháp trên sông Vàm Cỏ Đơng (12/1861), rồi lập căn
cứ kiên trì chống giặc khắp vùng Rạch Giá, Hà Tiên và đảo Phú Quốc. Năm 1868,

bị giặc bắt và đưa đi hành hình, ông đã hiên ngang nói thẳng vào mặt chúng: “Bao
giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người nước Nam đánh Tây”.
1.2. Phong trào Cần Vương (1885-1896)
Bối cảnh lịch sử lúc đó: Pháp đã hoàn thành xâm lược Việt Nam vê mặt quân sự nhưng
chưa thể đặt ách cai trị lên cả nước vì phong trào chống Pháp của nhân dân Việt Nam
đang diễn ra quyết liệt. Phái chủ chiến trong triêu đình do Tơn Thất Thuyết đứng đầu
vẫn nuôi hi vọng giành lại nên độc lập, chủ quyên từ tay Pháp khi có điêu kiện. Phái chủ
chiến có được sự ủng hộ của nhân dân nên đã chuẩn bị được lực lượng, tích trữ lương
thảo, khí giới. Phái chủ chiến cũng đã tiến hành trừ khử những người có tư tưởng đầu
hàng Pháp. Và cuối cùng, phái chủ chiến đưa vua Hàm Nghi (Ưng Lịch) lên ngôi vua.
Từ những hành động quyết liệt của phái chủ chiến khiến Pháp lo sợ, Pháp đã quyết định
tìm mọi cách tiêu diệt phong trào. Đây là nguyên nhân phong trào cần vương ra đời bởi
sau đó, để tránh bị động, đêm mùng 4 rạng sáng mùng 5 tháng 7 năm 1885, Tôn Thất
Thuyết chỉ huy binh lính tấn công Pháp ở kinh thành Huế song gặp phải thất bại. Tôn
Thất Thuyết phải rút lực lượng lên Tân Sở (Quảng Trị). Ngày 13 tháng 7 năm 1885, Tôn
Thất


Thuyết lấy danh vua Hàm Nghi ra “Chiếu Cần Vương”, kêu gọi văn thân, sĩ phu, nhân
dân cả nước giúp vua cứu nước.
Giai đoạn từ năm 1885 đến năm 1888, phong trào Cần Vương diễn ra ở hầu hết khắp các
địa phương trên cả nước, trải dài từ Khánh Hòa đến Hà Giang. Hai người lãnh đạo chính
của phong trào Cần Vương lúc bấy giờ là Tôn Thất Thuyết và vua Hàm Nghi. Phong
trào Cần Vương trong giai đoạn này gặp nhiêu khó khăn. Tôn Thất Thuyết đã sang
Trung Quốc cầu viện và để vua Hàm Nghi lại song không đạt được kết quả khả quan.
Năm 1888, Trương Quang Ngọc chỉ điểm cho Pháp bắt vua Hàm Nghi, Pháp không dụ
dỗ được nên đã đày vua Hàm Nghi sang châu Phi. Đây là diễn biến phong trào cần
vương trong giai đoạn đầu tiên.
Giai đoạn thứ hai bắt đầu từ năm 1888 đến năm 1896: Tuy khơng cịn Tơn Thất Thuyết
và vua Hàm Nghi lãnh đạo nhưng phong trào vẫn diễn ra sôi nổi.. Các nghĩa quân

thường dựa vào địa thế hiểm trở để xây dựng căn cứ chiến đấu, vẫn mang nặng tư tưởng
xây dựng căn cứ, chờ địch, cố thủ, thiếu sự linh hoạt. Tuy vậy, điểm mạnh là các cuộc
đấu tranh quy tụ thành những cuộc khởi nghĩa to lớn, gây cho Pháp nhiêu khó khăn, tổn
thất. Đây là một trong những ý nghĩa phong trào cần vương mang lại cho cuộc đấu tranh
trước Pháp của dân tộc ta.
Vê nguyên nhân khách quan của thất bại, đó là do quân đội thực dân Pháp mạnh hơn
quân đội ta rất nhiêu lần vê mọi phương diện như các phương thức sản xuất, các trang
thiết bị và vũ khí hiện đại cũng như thực dân Pháp có nhiêu kinh nghiệm trong chiến
tranh xâm lược
Tuy vậy cũng phải kể đến một số nguyên nhân chủ quan như các cuộc khởi nghĩa
trong phong trào Cần Vương diễn ra lẻ tẻ, thiếu gắn kết. Nhờ đó đã tạo cơ hội cho Pháp
áp dụng chiến thuật “bẻ từng chiếc đũa” để đàn áp, tiêu diệt thành công. Cuối cùng,
nguyên nhân cơ bản nhất dẫn đến thất bại của phong trào Cần Vương đó chính là sự hạn
chế vê đường lối và phương pháp đấu tranh do chịu sự chi phối của thời đại.
Ý nghĩa: phong trào Cần Vương đã tiếp nối truyên thống yêu nước, ý chí bất khuất, kiên
cường của nhân dân Việt Nam. Phong trào Cần Vương cũng giúp tiêu hao sinh lực địch,


góp phần làm chậm quá trình bình định Việt nam cả thực dân Pháp. Phong trào cần
vương cũng để lại nhiêu bài học kinh nghiệm quý báu cho các phong trào yêu nước sau
đó.
1.3. Phong trào nông dân Yên Thế (1885-1913)
Khởi nghĩa Yên Thế là một cuộc đối đầu vũ trang giữa những người nông dân ly tán tại
vùng Yên Thế Thượng và sau đó là Thái Nguyên, đứng đầu là Hoàng Hoa Thám, với
quân Pháp, khi Pháp vừa kết thúc chiến tranh với Trung Quốc Và bắt đầu kiểm soát toàn
bộ vùng Bắc kỳ những năm cuối thế kỷ 19 trong lịch sử Việt Nam.
Có thể tóm tắt diễn biến cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế qua 3 giai đoạn. Từ năm
1884-1892, nhiêu toán nghĩa quân hoạt động riêng rẽ, chưa có sự chỉ huy thống nhất.
Sau khi Đê Nắm mất (4/1892), Đê Thám trở thành lãnh tụ của phong trào. Thời kỳ 18931908 nghĩa quân vừa chiến đấu vừa xây dựng cơ sở. Cuối cùng là giai đoạn 1909-1913,
sau vụ đầu độc lính Pháp ở Hà Nội, phát hiện thấy có sự dính líu của Đê Thám, thực dân

Pháp đã tập trung lực lượng, mở cuộc tấn công quy mô lên Yên Thế. Đến ngày
10/2/1913, khi thủ lĩnh Đê Thám bị sát hại, thì phong trào tan rã.
Trong các phong trào chống Pháp của nhân dân ta trước chiến tranh Thế giới lần thứ
nhất (1914-1918) thì cuộc khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám đứng đầu kéo dài
lâu nhất (1884-1913) làm cho thực dân Pháp lo ngại nhất và tổn thất nhiêu nhất. Đồng
thời, loại hình đấu tranh tự phát của nông dân Yên Thế tuy song song, tồn tại và phát
triển cùng với phong trào Cần Vương chống Pháp (1885-1896), nhưng lại có trước, tồn
tại lâu dài hơn, lại tương đối độc lập so với phong trào Cần Vương.
Khởi nghĩa Yên Thế trước sau là một phong trào đấu tranh tự phát của nông dân. Trong
quá trình tồn tại, phong trào phần nào đã kết hợp được yêu cầu độc lập dân tộc với
nguyện vọng dân chủ, bước đầu giải quyết được yêu cầu ruộng đất cho nông dân. Khởi
nghĩa Yên Thế là phong trào đấu tranh lớn nhất của nông dân trong những năm cuối thế
kỉ XIX đầu thế kỉ XX.


Nguyên nhân thất bại: Phong trào chưa có sự liên kết với các phong trào yêu nước
cùng thời, nhiêu lúc còn bị động, mang tính tự phát. . Giai cấp lãnh đạo là nông dân,
chưa có


đường lối đúng đắn, chưa có hệ tư tưởng lãnh đạo. Nhược điểm của Phong trào nông
dân Yên Thế phản ánh sự bế tắc của phong trào yêu nước của VN những năm cuối thế kỉ
XIX
- đầu XX, đất nước lúc này rơi vào sự khủng hoảng vê đường lối và giai cấp lãnh đạo.
Bài học: Sự tồn tại bên bỉ, dẻo dai của phong trào đã nói lên tiêm năng, ý chí và sức
mạnh to lớn của nông dân. Nhưng nông dân chỉ có thể trở thành lực lượng cách mạng
thật sự khi được giai cấp tiên tiến dẫn đường.
2. Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản
2.1. Phong trào Đông Du
Đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu chủ trương dựa vào sự giúp đỡ bên ngoài, chủ yếu là

Nhật Bản, để đánh Pháp giành độc lập dân tộc, thiết lập một nhà nước theo mơ hình
qn chủ lập hiến của Nhật, vận động nhân dân trong nước.
Năm 1904, Phan Bội Châu thành lập Hội Duy Tân ở Quảng Nam nhằm mục đích: đánh
đuổi thực dân Pháp, giành độc lập, thành lập chính thể quân chủ lập hiến. Đến năm
1905- 1908, ông cùng Hội Duy Tân tổ chức phong trào Đông Du. Với chủ trương tập
hợp lực lượng với phương pháp bạo động chống Pháp, xây dựng chế độ chính trị như ở
Nhật Bản, phong trào theo xu hướng này tổ chức đưa thanh niên yêu nước Việt Nam
sang Nhật Bản học tập (gọi là phong trào Đông Du).
Đến năm 1908, chính phủ Nhật Bản cấu kết với thực dân Pháp trục xuất lưu học sinh
Việt Nam và những người đứng đầu. Sau khi phong trào Đông Du thất bại, với sự ảnh
hưởng của cách mạng Tân Hợi 1911, đến năm 1912, Phan Bội Châu thành lập tổ chức
Việt Nam Quang Phục hội với tôn chỉ là vũ trang đánh đuổi thực dân Pháp, khôi phục
Việt Nam, thành lập nước Cộng hòa dân quốc Việt Nam.
Hoạt động của Việt Nam Quang phục hội trong buổi đầu đã đạt được một số kết quả
nhất định, khuấy động được dư luận trong và ngoài nước. Tuy nhiên, kết quả đạt được
còn ít trong khi lực lượng hao tổn khá lớn, nhiêu người bị bắt và bị giết. Chính vì
chương trình, hoạt động của hội thiếu rõ ràng, kết quả, cuối năm 1913 Phan Bội Châu bị
thực dân Pháp bắt giam tại Trung Quốc cho tới đầu năm 1917, sau này ông bị quản chế
tại Huế cho đến


khi ông mất. Ảnh hưởng của xu hướng bạo động của ông với Việt Nam Quang Phục hội
đối với phong trào yêu nước Việt Nam đến đây chấm dứt.
Ý nghĩa: Phong trào Đông Du mặc dù chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian ngắn, song
để lại nhiêu ý nghĩa tuyệt vời, được coi là một trong những phong trào yêu nước mạnh
mẽ nhất của nhân dân ta đầu thế kỷ 20, mở đường cho việc cứu nước là đi ra bên ngoài
để học hỏi. Đồng thời, phong trào thổi bùng ngọn lửa yêu nước chưa bao giờ nguôi của
người dân nước ta. Nhiêu thanh niên du học của phong trào Đông Du sau này đã trở
thành những hạt nhân của các phong trào cách mạng tiếp theo trong công cuộc giải
phóng dân tộc.

Bài học: Bài học rút ra từ phong trào Đông Du là việc cầu sự giúp đỡ phải chọn mặt gửi
vàng, chọn đúng được đất nước mạnh nhưng ủng hộ phong trào yêu nước và đấu tranh
giải phóng dân tộc trên toàn thế giới. Như vậy, cuộc đấu tranh của quân dân Việt Nam
mới có cơ hội được hỗ trợ mạnh mẽ và giành thắng lợi.
2.2. Phong trào Duy Tân
Phong trào Duy Tân hay còn được biết đến với tên gọi cuộc vận động Duy Tân hay
Phong trào Duy Tân ở Trung Kỳ. Đây là một cuộc vận động cải cách ở miên Trung Việt
Nam diễn ra từ năm 1906 đến 1908.
Phan Châu Trinh chủ trương chỉ đạo phong trào Duy Tân không bạo động, cải tổ vê mọi
mặt xã hội qua con đường nâng cao dân trí. Trong đó phong trào này chủ trương cải tổ
vê kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục một cách toàn diện. Với các hoạt động thực tế như:
Mở trường dạy học hiện đại, lập các nhà buôn lớn để tự lực, mở mang kinh tế.Phong
trào Duy Tân chú trọng đi theo cái mới và cải tổ loại bỏ đi cái cũ. Duy Tân chú trọng
đến việc nâng cao khả năng dân trí nhằm phát triển kinh tế và giành lại chính quyên.
Phong trào Duy Tân còn được biết đến như một Hội ngoài ánh sáng với chủ trương đi
theo con đường dân chủ. Phong trào này diễn ra công khai với hình thức cải cách xã hội,
nâng cao dân trí và dân quyên.
Cuộc vận động do Phan Châu Trinh phát động nhanh chóng kết thúc sau khi bị thực dân
Pháp đàn áp. Sai lầm chính của phong trào này lại là chủ trương dựa vào Pháp để giàu
mạnh.


Ý nghĩa:
 Phong trào Duy Tân có ý nghĩa giúp khơi dậy lên tư tưởng tiến bộ, tấn công mạnh
mẽ vào hệ tư tưởng phong kiến lạc hậu và bảo thủ nhằm làm thay đổi chế độ tư
tưởng phong kiến.
 Phong trào Duy Tân mang tính thời đại, góp phần giải quyết những yêu cầu thời bấy
giờ.
 Tuy thất bại nhưng lịch sử không thể chối bỏ tinh thần yêu nước cũng như tư
tưởng tiến bộ của một bộ phận sĩ phu yêu nước thời bấy giờ. Nó cũng cho thấy

nhu cầu cấp thiết vê đường lối đấu tranh chống thực dân Pháp và mở đường cho
Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước sau này.
2.3. Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản nổi bật
Vào giai đoạn sau thế chiến thứ nhất ở Việt Nam đã nổ ra các phong trào yêu nước, đánh
đuổi thực dân Pháp với khuynh hướng tư sản tiêu biểu như:
Trong thời gian từ 1919 - 1924, phong trào quốc gia cải lương của tư sản và địa chủ lớp
trên diễn ra ở Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn do tư sản và địa chủ lãnh đạo đòi quyên tự do
kinh tế và chống độc quyên kinh doanh.. Phong trào chống độc quyên thương cảng Sài
Gòn kêu gọi nhân dân tẩy chay hàng hóa của thực dân Pháp. Phong trào chống độc
quyên khai thác lúa gạo ở Nam Kỳ.
Năm 1923, Đảng Lập Hiến của Bùi Quang Chiêu xuất hiện tại Sài Gòn với chủ trương
tập hợp tư sản và địa chủ lớp trên đưa ra một số khẩu hiệu đấu tranh, địi tự do dân chủ
để lơi kéo quần chúng. Tuy nhiên, với sự đàn áp của thực dân đồng thời nhân nhượng
một số quyên lợi của thực dân Pháp, họ đã đi vào con đường thỏa hiệp.
Phong trào yêu nước dân chủ công khai (1925-1926) của tiểu tư sản thành thị và tư sản
lớp dưới nổ ra. Họ lập ra nhiêu tổ chức chính trị Việt Nam nghĩa đoàn, Phục Việt, Hưng
Nam….thành lập nhiêu tờ báo như Cường học thư xã, Quan hải tùng thư, Người nhà
quê, Chuông rạn… bên cạnh đó với nhiêu phong trào đấu tranh chính trị gây tiếng vang
khá


lớn như: Phong trào đòi thả Phan Bội Châu (1925), phong trào đòi thả Nguyễn An Ninh
(1926),...
Tiêu biểu nhất cho khuynh hướng tư sản Việt Nam trong giai đoạn 1927 – 1930 là sự ra
đời và hoạt động của Việt Nam Quốc Dân Đảng (25-12-1927) lãnh tụ là Nguyễn Thái
Học, Phó Đức Chính, Nguyễn Khắc Nhu hay là Phạm Tuấn Tài. Vê tổ chức, Đảng
không có hệ thống tổ chức thống nhất vì vậy cơ cấu tổ chức lỏng lẻo, không có sự bảo
mật, có quá nhiêu thành phần. Đảng hoạt động chủ yếu ở Bắc Kỳ và không có đường lối
chính trị rõ ràng.
Khởi nghĩa Yên Bái (9/2/1940) là một cuộc nổi dậy bằng vũ trang diễn ra ở Yên Bái.

Một phần cuộc khởi nghĩa này được tổ chức và lãnh đạo bởi Việt Nam Quốc dân Đảng
nhằm đánh chiếm một số tỉnh và thành phố tại miên Bắc. Mục đích của cuộc nổi dậy là
lật đổ chính quyên thực dân Pháp, xây dựng Việt Nam chính thể cộng hòa.
Các phong trào đấu tranh này đêu lần lượt thất bại, nguyên nhân là các phong trào này
diễn ra lẻ tẻ, không thống nhất nên dễ dàng bị đàn áp; Giai cấp tư sản ở Việt Nam lúc
bấy giờ còn quá nhỏ bé và yếu đuối. Các phong trào nổ ra quá phụ thuộc vào người lãnh
đạo, sau khi người lãnh đạo bị bắt hoặc bị hy sinh thì các phong trào này đêu bị thất bại.
Nhìn chung, các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam đã
diễn ra liên tục, sôi nổi, lôi cuốn đơng đảo quần chúng tham gia với những hình thức đấu
tranh phong phú, thể hiện ý thức dân tộc, tinh thần chống đế quốc của giai cấp tư sản
Việt Nam, nhưng cuối cùng đêu thất bại vì giai cấp tư sản Việt Nam rất nhỏ yếu cả vê
kinh tế và chính trị nên không đủ sức giương cao ngọn cờ lãnh đạo sự nghiệp giải phóng
dân tộc.
Mặc dù thất bại nhưng các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản đã
góp phần cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân ta, bồi đắp thêm cho chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam, đặc biệt góp phần thúc đẩy những nhà yêu nước, nhất là lớp
thanh niên trí thức có khuynh hướng dân chủ tư sản chọn lựa một con đường mới, một
giải pháp cứu nước, giải phóng dân tộc theo xu thế của thời đại và nhu cầu mới của nhân
dân Việt Nam.


3. Các xu hướng cải cách
Tư tưởng canh tân ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX có nội dung phong phú,
toàn diện và tương đối hệ thống, đê cập đến nhiêu vấn đê ở nhiêu lĩnh vực khác nhau thể
hiện sự canh tân vê tư duy. Song đáng chú ý và có ảnh hưởng sâu sắc trong lịch sử tư
tưởng Việt Nam là tư tưởng canh tân vê kinh tế, chính trị; tư tưởng canh tân vê giáo dục,
văn hóa; tư tưởng canh tân vê quân sự, ngoại giao…
3.1. Tư tưởng canh tân vê kinh tế, chính tri
Các nhà canh tân giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX tiêu biểu là Nguyễn Trường
Tộ, Đặng Huy Trứ, Nguyễn Lộ Trạch, Phạm Phú Thứ, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh

đã khẳng định vai trò quan trọng của kinh tế trong việc làm cho dân giàu nước mạnh, đủ
sức chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước. Từ đó, họ
đưa ra nhiêu biện pháp để phát triển kinh tế như phát triển nông nghiệp, công nghiệp,
thủ công nghiệp, mở mang thương nghiệp, cổ động hàng nội hóa, áp dụng khoa học kỹ
thuật của các nước phương Tây… Bên cạnh tư tưởng canh tân vê kinh tế, tư tưởng canh
tân vê chính trị - xã hội của các nhà canh tân ở Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX cũng đã đê cập và bước đầu giải quyết được một số vấn đê đặt ra lúc bấy giờ.
Tháng 5 năm 1863, Biện lý bộ Hình Trần Đình Túc tâu xin mộ dân khai khẩn ruộng đất
hoang ở hai tỉnh Thừa Thiên và Quảng Trị; đến tháng 3 năm sau (1864), ông lại xin cho
mộ dân, lập xã, lập ấp để rồi nhận phần khai khẩn ruộng hoang tại xã Lương Điên,
huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên.
Ngành khai mỏ cũng đặc biệt được chú ý. Tháng 3/1867, cũng Trần Đình Túc xin khai
mỏ sắt ở xã Lưu Biểu, thuộc huyện Hương Trà (Thừa Thiên). Sau đó, hoạt động khai mỏ
được đẩy mạnh ở nhiêu địa phương, có lúc do chính triêu đình chủ động quyết định.
Như tháng 3 năm 1868, triêu đình đã ra lệnh cho các tỉnh khai thác than đá ở hai xã Sa
Lung và Phú Xuân thuộc huyện Phú Lương tỉnh Thái Nguyên; rồi tháng 4 năm đó, ra
lệnh đào lấy than đá ở núi Tân Sơn, tỉnh Quảng Yên. Tháng 6/1868, vua Tự Đức chỉ thị
cho tỉnh Khánh Hoà đào lấy than đá ở núi Điện Cơ; tháng 7 năm đó khai mỏ sắt Phổ Lý
ở tỉnh Thái Nguyên, mỏ than ở núi Hoàn Ngọc tỉnh Quảng Yên v.v…).


Thương nghiệp cũng có những đổi mới đáng kể… Biện lý bộ Hộ là Đặng Huy Trứ năm
1865 được phái sang Hương Cảng công tác lúc vê đã xin đặt ty Bình chuẩn sứ để thu
mua hàng hoá cất vào kho, chờ khi giá cả lên cao thì đưa ra bán rẻ cho dân để giữ giá cả
thăng bằng, ngăn ngừa con bn đầu cơ trục lợi
Tháng 9/1868, Trần Đình Túc và Nguyễn Huy Tế đi giao hiếu với nước Anh từ Hương
Cảng vê đã tâu xin vua Tự Đức mở cửa biển Trà Lý (Nam Định), nhấn mạnh tới u cầu
“mở thương điểm thơng thương với bên ngồi, chiêu tập nhân dân trong thiên hạ, tụ hội
hàng ngoài thiên hạ để tính cách lợi ích lâu dài sau này”.
Đến tháng 1/1873, lúc này toàn Nam Kỳ đã bị tư bản Pháp nuốt gọn từ 6 năm vê trước –

các quan ở Nha Thương Bạc cũng xin mở 3 cửa biển để thơng thương (như tụ dân ở bở
biển thì tăng cường lực lượng phòng thủ đất nước; tập trung các nơi bn bán gần biển
thì liên lạc và tiếp ứng với nhau dễ, có khả năng ngăn ngừa giặc biển, đội thuỷ quân
chiến thuyên của vùng biển có thể bảo vệ đội thuyên vận tải khi có giặc biển; tích tụ của
cải trong dân, bố trí binh lính ngay trong những người làm nghê buôn bán để sẵn sàng
đối phó khi có giặc; đẩy mạnh buôn bán với nhau sẽ làm cho tin tưởng lẫn nhau, qua đó
thông hiểu được tình hình nước ngồi.
Ngồi ra, giai đoạn cuối thể kỷ XIX đầu thế kỷ XX còn có sự góp mặt của những cải
cách vê hành chính trong khuôn khổ chế độ phong kiến đến từ Nguyễn Trường Tộ, Đặng
Huy Trứ, Nguyễn Lộ Trạch, Phạm Phú Thứ, những chủ trương nhằm lật đổ chế độ quân
chủ, xây dựng chế độ dân chủ của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh,… Đa dạng,
phong phú vê hình thức và nội dung đấu tranh là vậy nhưng các nhà canh tân ở Việt
Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đêu có chung một động cơ, một mục đích
duy nhất là giành lại độc lập cho dân tộc, đem lại hạnh phúc cho nhân dân.
3.2. Tư tưởng canh tân vê giáo dục, văn hóa
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn lúc đó, các nhà tư tưởng canh tân khẳng định vai trò và
tính cấp thiết của việc cải cách giáo dục. Trên cơ sở đó, các nhà canh tân Nguyễn
Trường Tộ, Đặng Huy Trứ, Nguyễn Lộ Trạch, Phạm Phú Thứ, Phan Bội Châu, Phan
Châu Trinh đã đưa ra nhiêu biện pháp để phát triển giáo dục như chú trọng lối học
thực dụng, thực


nghiệm, học nghê, học các môn khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, công nghệ… Bên
cạnh đó, các nhà canh tân còn đưa ra nhiêu biện pháp để nâng cao trình độ văn hóa của
người dân như lập nhà in, tự do xuất bản báo chí, sửa đổi phong tục tập quán… Bản thân
triêu đình cũng đã có những nhận thức mới vê khoa học giáo dục khi Vua Tự Đức ra
lệnh chọn 8 người có sức khoẻ, thông minh, siêng năng đi học nghê chế tạo đầu máy
chạy biển.
Tháng 7/1867, nhà vua chỉ thị cho Viện Cơ Mật dịch các sách khoa học kỹ thuật phương
Tây ra chữ Hán để tiện phổ biến trong nhân dân.

Tháng 5/1868, triêu đình lại cử một đồn 8 người vào Gia Định học chữ Pháp. Như vậy
là tới nửa sau thế kỷ XIX, yêu cầu đổi mới vê các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo
dục đã được đặt ra với Việt Nam nhằm giải quyết những khó khăn to lớn của đất nước,
yêu cầu đó cấp thiết và mạnh mẽ đến nỗi ngay cả vua quan triêu Nguyễn vốn bảo thủ và
trì trệ cũng khơng thể khơng nhận thấy, và trong một phạm vi nhấn định đã có những
việc làm nhằm giải quyết các khó khăn to lớn đó để đưa đất nước thoát cơn nguy khốn.
3.3. Tư tưởng canh tân vê quân sự, ngoại giao
Nhận thấy sự yếu kém của quân đội nước ta trước sức mạnh to lớn vê vũ khí của Pháp
thời kỳ đó, các nhà canh tân giai đoạn này cho rằng nhiệm vụ cần kíp trước mắt là phải
gấp rút chỉnh tu võ bị, đầu tư trang thiết bị quân sự, chế tạo vũ khí…Đồng thời, tăng
cường mở rộng ngoại giao đê kiêm chế sức mạnh của thực dân Pháp và kêu gọi sự giúp
đỡ của của các nước trong công cuộc đánh đuổi thực dân Pháp giành lại độc lập dân tộc.
4. Phong trào của tổ chức Việt Nam Quốc dân Đảng
Hoàn cảnh ra đời: Việt Nam Quốc dân đảng cũng được thành lập (25 - 12 - 1927). Cơ
sở hạt nhân đầu tiên của đảng là Nam đồng thư xã - một nhà xuất bản tiến bộ, tập hợp
một nhóm thanh niên yêu nước chưa có đường lối chính trị rõ rệt. Sự phát triển mạnh mẽ
của phong trào dân tộc dân chủ, cộng với ảnh hưởng của các trào lưu tư tưởng mới từ
bên ngoài dội vào, đặc biệt là ảnh hưởng của cách mạng Trung Quốc với “chủ nghĩa
Tam dân” của Tôn Trung Sơn, đã dẫn tới sự ra đời Việt Nam Quốc dân đảng.


Hoạt động: Việt Nam Quốc dân đảng do Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài và Phó Đức
Chính sáng lập, là một đảng chính trị theo xu hướng cách mạng dân chủ tư sản, tiêu biểu
cho bộ phận tư sản dân tộc Việt Nam. Địa bàn hoạt động chính là Bắc Kỳ. Mục tiêu là
nhằm đánh đuổi giặc Pháp, thiết lập dân quyên. Đảng viên của đảng gồm sinh viên, học
sinh, công chức, tự sản lớp dưới, người làm nghê tự do và cả một số nông dân khá giả,
thân hào, địa chủ ở nông thôn, binh lính, hạ sĩ quan người Việt trong quân đội Pháp.
Ngày 9 - 2 - 1929, ở Hà Nội xảy ra vụ giết Ba-danh - trùm mộ phụ cho các đồn điên cao
su. Thực dân Pháp liên tổ chức nhiêu cuộc vây ráp lớn. Số đảng viên Việt Nam Quốc
dân đảng bị bắt có tới gần 1000 người, nhiêu cơ sở ở các nơi bị phá vỡ, hầu hết cán bộ từ

trung ương đến địa phương đêu sa lưới giặc. Bị động trước tình thế, mặc dù hệ thống tổ
chức của đảng chưa kịp xây dựng và củng cố lại, các nhân vật chủ yếu còn lại của đảng
đã quyết định hành động.
Cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc dân đảng nổ ra đêm 9 - 2 - 1930 ở Yên Bái, Phú
Thọ, sau đó là ở Hải Dương, Thái Bình; riêng ở Hà Nội, đã tổ chức ném bom vào Sở
Mật thảm, Sở Cảnh sát...
Tại Yên Bái, quần khởi nghĩa chiếm được trại lính, giết và làm bị thương một số sĩ quan
và hạ sĩ quan Pháp, nhưng không làm chủ được tỉnh lý nên hôm sau đã bị quân Pháp
phản công và tiêu diệt. Ở các nơi khác, nghĩa quân cũng chỉ tạm thời làm chủ mấy huyện
lị, nhưng sau đó đã nhanh chóng bị địch phản công chiếm lại. Nguyễn Thái Học cùng 12
đồng chí khi lên máy chém đã hô to : “Việt Nam vạn tuế”.
Nguyên nhân: Vê khách quan, đế quốc Pháp lúc ấy còn mạnh, đủ sức đàn áp một cuộc
đấu tranh vũ trang vừa đơn độc, vừa non kém như khởi nghĩa Yên Bái. Vê chủ quan,
Việt Nam Quốc dân đảng vừa non yếu lại không vững chắc vê tổ chức và lãnh đạo. Kết
quả là phong trào dân tộc theo khuynh hướng dân chủ tư sản dưới ngọn cờ Việt Nam
Quốc dân đảng đã nhanh chóng tan rã trước sự khủng bố ác liệt của quân thù.
5. Nguyên nhân thất bại và ý nghĩa lịch sử
Vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tiếp tục truyên thống yêu nước, bất
khuất, kiên cường chống ngoại xâm, các phong trào yêu nước theo ngọn cờ phong kiến,
ngọn cờ


dân chủ tư sản của Việt Nam đã diễn ra quyết liệt, liên tục và rộng khắp. Dù với nhiêu
cách thức khác nhau, song đêu hướng tới mục tiêu giành độc lập cho dân tộc. Tuy nhiên,
các phong trào cứu nước từ lập trường Cần Vương đến lập trường tư sản, tiểu tư sản qua
khảo nghiệm lịch sử đêu thất bại.
Nguyên nhân thất bại của các phong trào này đến từ rất nhiêu lý do. Đối với các phong
trào yêu nước từ các lập trường phong kiến thì đó là sự thiếu đường lối đúng đắn bởi vì
giai cấp phong kiến, địa chủ đã khơng cịn khả năng dẫn dắt dân tộc thực hiện sự nghiệp
giải phóng dân tộc đến thắng lợi. Còn đối với các phong trào yêu nước theo khuynh

hướng tư sản thì do đường lối chính trị không rõ ràng, nhất là không biết dựa vào quần
chúng nhân dân mà chủ yếu dựa vào uy tín cá nhân nên không tạo sức mạnh tổng hợp,
không tạo ra được sự thống nhất cao trong những người lãnh đạo phong trào, chính vì
vậy nên khi người lãnh đạo bị bắt thì phong trào cũng tan rã theo.
Như vậy, thất bại của các phong trào yêu nước dù theo khuynh hướng phong kiến hay tư
sản cũng đã nói lên 1 sự thật: con đường cứu nước của các phong trào cách mạng Việt
Nam đêu rơi vào tình trạng bế tắc. Xã hội Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng
trầm trọng cả vê đường lối cứu nước và giai cấp lãnh đạo cách mạng vì thiếu một chính
Đảng chân chính tổ chức và lãnh đạo phong trào đấu tranh cách mạng, thiếu 1 đường lối
chính trị đúng đắn, chưa tập hợp được đông đảo quần chúng nhân nhân tham gia cách
mạng, chưa có phương pháp cách mạng khoa học ….
Suy cho cùng, các phong trào yêu nước ở Việt Nam cho đến những năm 20 của thế kỷ
XX tuy thất bại, nhưng đã góp phần cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân,
bồi đắp thêm cho chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đặc biệt góp phần thúc đẩy những nhà
yêu nước, nhất là lớp thanh niên trí thức tiên tiến chọn lựa một con đường mới, một giải
pháp cứu nước, giải phóng dân tộc theo xu thế của thời đại. Nhiệm vụ lịch sử cấp thiết
đặt ra cho thế hệ yêu nước đương thời là cần phải có một tổ chức cách mạng tiên phong,
có đường lối của nước đúng đắn để giải phóng dân tộc.


×