Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Tài liệu Tô Châu thiên đàng hạ giới pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (68.44 KB, 5 trang )

Xuân Về Nói Chuyện Thắng Cảnh Thế Giới : Tô Châu Thiên Đàng Hạ Giới
[23/01/2006 - Tác giả: admin1 - Vietnam Review]
Mộng Đài
20.01.2006
Hình: Tô Châu với nhiều sông rạch ngang dọc.
Tô Châu - thành phố nổi tiếng này - nằm trong tỉnh Giang Tô, phía Đông giáp Thượng
Hải, Tây giáp Thái Hồ, Nam giáp Triết Giang và Bắc giáp Trường Giang, con sông dài
gần như bất tận, xinh đẹp như mùa Xuân, rực rỡ như nắng Hạ, thơ mộng như màu vàng
Thu và bàng bạc tợ cảnh sơn khê phủ màu tuyết trắng
Tô Châu, có đến 2400 năm lịch sử, khởi đầu vốn là cố đô của nước Ngô thời cổ đại, do
nhà vua Hạp Lư xây dựng lên, dưới thời Đông Châu Liệt Quốc. Thời Tần, Tô Châu mang
tên Ngô Huyện, qua thời Đông Hán cải sang Ngô Quận. Đến năm 1276 mới bắt đầu gọi
Tô Châu, lấy tên từ ngọn núi Cô Tô. Trong bài "Phong Kiều Dạ Bạc" của nhà thơ Trương
Kế đời Đường Túc Tông đã ghi lên thắng cảnh độc nhất vô nhị này:
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên.
Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
Mà nhà thơ Tản Đà đã dịch:
Trăng tà, chiếc nhạn kêu sương,
Lửa chài, cây bến sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
Phong Kiều ở Ngô Huyện, thuộc tỉnh Giang Tô, còn Cô Tô thì ở Tô Châu, nên cũng còn
gọi là Cô Tô Thành.
Nếu khách lãng du đã đến một lần viếng các thắng cảnh thành Tô Châu, ắt đến lúc ra đi ắt
không khỏi phải bùi ngùi tấc dạ. Còn gì đẹp bằng cảnh bóng trăng xế tà chênh chếch
bóng, lại có tiếng quạ kêu và sương phủ đầy trời Trước cảnh tượng này khách làm sao
ngủ được khi mắt trông vời ra trước cảnh buồn của đèn chài leo lét và lùm phong phơ
phất theo cánh gió chẳng khác nào như hàng trăm ngàn con rắn bạc lăn tăn trên mặt nước
về đêm! Lại nữa, từ ngoại thành Cô Tô có tiếng chuông chùa Hàn San thánh thót vang lên


vọng đến chiếc thuyền nan chở khách, đang gác mái chèo nghỉ tạm qua đêm để thưởng
thức cảnh đẹp của thành Tô Châu đầy thơ mộng tưởng không còn cảnh nào còn hơn thế
nữa.
Và cũng chính vì bài thơ Phong Kiều Dạ Bạc đã viết: "Dạ bán chung thanh " đã một
thời có cuộc tranh cãi làm gì mà có tiếng chuông chùa nửa khuya vắng vẻ ấy?!", vì vậy
mới có giai thoại về một sự trùng hợp khá lạ lùng và cũng thật thơ mộng như sau:
" Một đêm neo thuyền lại tại bến Phong Kiều, Trương Kế nhìn thấy cảnh đẹp, mà hồn
thơ bỗng dưng lai láng, bèn cất tiếng cao ngâm:
"Nguyệt lạc, ô đề,sương mãn thiên
Giang phong, ngư phủ đối sầu miên.
Nhưng, sau hai câu tuyệt cú này, Trương Kế nằm trằn trọc mãi vẫn không thể nào gợi
thêm ra được hai vần thơ kế tiếp nữa
Và cũng chính trong đêm này, ngoài thành Cô Tô, sư cụ chùa Hàn san - một trong các
nhà sư nổi tiếng sính thơ nhất cũng xúc cảnh khi nhìn thấy mấy trăng lưỡi liềm vắt vẻ
trên vòm trời xanh thẳm mà ngâm lên:
"Sơ tam,sơ tứ nguyệt mông lung
Bán tự ngân câu, bán tự cung.
(Mồng ba,mổng bốn trăng mờ
Nửa dường móc bạc,nửa ngờ vành cung)
Hai câu này cũng chẳng kém gì mấy so với hai câu của Trương Kế, song nhà sư Hàn San
tự cũng không thể nào tìm ra thêm tứ để làm cho xong bài thơ tứ tuyệt này, nên cứ trằn
trọc thao thức mãi không dỗ được giấc ngủ
Nhìn thấy sư cụ thao thức mãi, chú tiểu hầu cạnh bèn lên tiếng hỏi, được sư cụ kể lại nỗi
khổ tâm của mình về hai vế thơ sau cùng để hoàn tất bài thơ đang bỏ dở. Chú tiểu mỉm
cười cúi đầu xin thầy cho phép mình được nối tiếp bài thơ trên. Đó là hai câu:
Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn,
Bán cầm thủy để, bán phù không."
(Hồ xanh kia xẻ đôi vùng
Nửa chìm đáy nước,nửa lồng chân mây).
Đồng thời lúc bấy giờ sau đó không bao lâu ở bến Phong Kiều có tiếng chuông vọng đến

tận trong thuyền, khiến Trương Kế giật mình choàng ngồi dây kết thúc ngay bài thơ
mình:
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung thiên đáo khách thuyền.
Chính tiếng chuông của chùa Hàn San kia đã giúp cho Trương Kế có cảnh để hoàn tất bài
thơ bất hủ của mình, nhờ sư cụ chùa Hàn San sai chú tiểu đi dộng chuông tạ ơn Phật
Theo sử sách ghi lại:" Trong và ngoài thành Tô Châu có đến cả ngàn chiếc cầu bắc
ngang sang sông,suối trông vô cùng thơ mộng, nhưng rồi vì chiến tranh tàn phá và thời
gian đã tước mất đi một số lớn, nên đến ngày nay chỉ còn giữ được 168 chiếc cầu xây
bằng đá hoặc bằng các loại gỗ quí
Tô Châu đúng là một dải đất có lắm danh lam thắng cảnh: xa xa có dảy Thiên Đình, Linh
Nham ngút ngàn khói tỏa đầu non, có gò Hổ, có Hàn San Tự, có vườn hoa Sư Tử, có hoa
viên Chuyết Chính và nhất là vườn Lưu Viên, Thương Lăng Đình có lắm loài kỳ hoa dị
thảo
Cảnh đẹp nhất của Tô Châu là ngôi Hàn San tự, xây từ thời Nam Triều vào thế kỷ thứ Vl
- Hàn San tự có lối kiến trúc khá độc đáo gồm nhiều điện như Đại Hùng Bảo điện, hoặc
Tàng Kinh các, hay Phong Giang Lâu và lầu Chuông Càng đi sâu vào Hàn Han tự càng
cảm thấy mình đang chiêm ngưỡng một danh lam thắng cảnh thu nhỏ lại nơi Cửa Phật
trang nghiêm. Theo tương truyền một nhà sư đời Đường có tên là Hàn Sơn từng trụ trì ở
ngôi chùa này - lúc ấy chưa có tên chính thức cho mãi đế khi ngài viên tịch người đặt là
Hàn San tự
Nếu đi xa hơn lối ba dặm, về phía Tây Bắc, ắt khách lãng du sẽ nhìn thấy "gò Hổ" - một
gò được mệnh danh là đệ nhất danh lam thắng cảnh của đất Ngô. Sở dĩ gọi thắng cảnh
này là "gò Hổ" vì cách đấy lối 2500 năm, khi vua Hạp Lư băng hà, được Ngô Phù Sai
mang thân phụ mình táng tại gò này. Chỉ trong vòng ba ngày bỗng tự dưng có con "Bạch
Hổ" từ đâu đến nằm phục bên cạnh mộ Và, cũng từ đó người đời gọi là "Gò Hổ". Phía
trước mặt gò là một cái hồ nhỏ có tên Kiếm Trì. Ngay lăng mộ của vua Hạp Lư có chôn
nhiều của cải báu vật, còn phía trên đỉnh gò lại có một ngọn tháp xây vào đời nhà Tùy và
sau đó được trùng tu vào thời Bắc Tống. Ngôi tháp được sắp xếp vào hàng thắng cảnh,
cao đến bảy từng và có tám cạnh. Tháp được xây bằng cả gạch lẫn gỗ quí.

Nói đến Tô Châu là y như mọi người đều nghĩ đến nhiều hoa viên với muôn vạn cánh
hoa, đầy hương sắc, với hàng ngàn cánh bướm rực rỡ đủ màu chập chờn vào những buổi
sáng tinh sương trông hệt những một bức tranh thiên nhiên tuyệt kỷ
Hiện nay không còn đến hàng ngàn hoa viên nữa mà chỉ còn võn vẹn 180 vườn hoa mang
phong cách của thời Tống và Minh, Nguyên lưu truyền Người Tây phương thích xây
dựng hoa viên theo hình kỷ hà trong lúc người Trung Hoa thì chuộng cảnh sơn thủy hữu
tình Đặc biệt người Trung Hoa thích mô phỏng theo cảnh sắc thiên nhiên, thu nhỏ lại
các cảnh hiện thực như núi non, hồ ao, lâu đài, chùa chiền cùng với cỏ cây hoa lá v.v mà
mà dựng nên một cảnh trí hoặc bằng những mô hình thu nhỏ,hoặc bằng những bức tranh
sơn thủy hòa nhập với ý thơ, từ phú của các đời Đường,Tống
Nếu ta xuôi về phía Nam thành Tô Châu sẽ được chiêm ngưỡng vườn Thương Lãng
Đình, một hoa viên được xem là cổ nhất, có nhiều ngọn núi đất và được diểm xuyết thêm
các tảng đá trắng trông thật ngoạn mục. Càng vào sâu vào các ngọn thổ sơn khách lãng
du cứ ngở rằng mình đang lạc lõng vào các động nơi tiên cảnh. Khách viếng thăm
Thượng Lãng Đình có khi quên quay gót trở về khi lần theo các hẻm luồng hang, trèo
núi, qua ghềnh hoặc băng theo các hành lang nhìn các khung cửa sổ hình thù khác
nhau: cái tròn, cái vuông, cái hình bán nguyệt, không cái nào giống với cái nào mà
khách lãng du tùy theo góc độ mà chiêm ngưỡng cảnh thiên nhiên kỳ thú
Hoặc đi về phía bắc Tô Châu, ta sẽ thấy ngay một khu vườn với phong cách của đời
Nguyên lưu dấu lại.
Đó là khu Rừng Sư Tử có từ cuối đời nhà Nguyên do nhà sư Thiên Như dựng lên. Khách
lãng du khi vào đến bên trong khu rừng sẽ nhìn thấy nhiều cảnh núi non, và cũng nhiều
tảng đá giống như hình sư tử nằm khắu tạo nên những mọi ngõ ngách, cũng như các tảng
đá lớn được chồng chất lên nhau tạo thành những hang động âm u kỳ kỳ ảo ảo Tương
truyền, từ ngày có Rừng Sư Tử có nhiều Tiên Ông cùng các Nữ Tiên đưa nhau đến hang
du ngoạn, lạc lối không trở về được cõi tiên nên cuối cùng bị hóa thạch Đặc biệt Rừng
Sư Tử có lối kiến trúc bao quanh như Nhạn Dự Đường, Ngũ Tùng Viên v.v bao quanh
như trấn ngữ Có điều các hành lang tại khu rừng này còn bút tích của Tô Thức, Hoàng
Đình Kiên, Mễ Phất, Thái Nhượng là Tứ đại gia đời Tống
Vẫn còn chưa hết, Tô Châu còn lắm khu vườn khiến cho người chiêm ngưỡng phải ngẩn

ngơ về công trình tuyệt kỷ vừa của thiên nhiên mà cũng vừa của người thiên nhiên hóa
những hình ảnh khác thường Như khu Chuyết Chính Viên chẳng hạn. Cảnh tái ở đây
được lấy hồ ao làm trung tâm điểm mà các lâu đài, chùa đình trở thành một trùng vi cho
cảnh tượng thiên nhiên đó.
Đặc điểm nhất trong các khu vườn ổ thành Tô Châu là Lưu Viên. Lưu Viên là tên một
vười hoa nổi tiếng. Đây là một hoa viên thời đại, vì nó được xây cất vào đời nhà Thanh -
triều đại không bao xa so với ngày nay. Nhờ vậy mà lối cấu trúc có đầy đủ từ cầu đương,
hành lang, có tường hoa, có sông suối v.v. Đi phương Đông sẽ gặp đình,quán, sảnh
đường kiến trúc vô cùng hùng vĩ Đến khu Tây sẽ chiêm ngưỡng được cảnh những hòn
giả sơn, trên núi có rừng phong, nên mỗi độ thu về toàn thể khu vườn đều rực lên một
màu vàng trông thật thơ mộng Đó là chưa nói cảnh hồ, ao, sông suối, lâu đài soi mình
dưới bóng nước lung linh Hoặc ngắm cảnh đào liễu mà mỗi độ xuân về rực lên muôn
hồng nghìn tía
Rồi đến núi Linh Nham - mà khách ngang qua đều thốt nhiên nhớ đến một mối tình lãng
mạn nhưng đầy son sắt của Phạm Lãi, Tây Thi Theo sử chép: "Quan đại phu nước Việt
là Phạm Lãi nhân lúc nhàn du bất ngờ gặp được nàng Tây Thi - một trang sắc nước
hương trời. Thế là hai người yêu nhau và thề sẽ sống cho đến răng long đầu bạc. Tình
đang nồng, duyên đang ưa thì bỗng vua Phù Sai mang quân sang báo thù nước Việt đ trả
mối hận cho cha mình. Việt Vương Câu Tiễn bại trận ra hàng. Phạn Lãi cùng vợ chồng
vua nước Việt cũng bị bắt để làm con tin. Ba năm sau, vợ chồng Câu Tiễn cùng Phạm Lãi
được thả về Nuôi chí báo thù, Câu Tiển chịu nằm gai nếm mật suốt 10 năm trường. Một
hôm Phạm Lãi tâu với nhà vua là phải dùng mỹ nhân kế mới có thể mong phục lại được
cơ đồ. Phạm Lãi mang kế hoạch của mình bàn với nàng Tây Thi, Tây Thi nhận lời hiến
thân cứu nước bèn sang nước Ngô thi hành nhiệm vụ. Phù Sai không thể cầm lòng trước
sắc đẹp của Tây Thi nên đêm ngày chìm đắm trong cảnh hoang dâm, quên cả chuyện an
nguy của đất nước. Phù Sai thấy Tây Thi thường xót xa thương nhớ quê hương thường
gửi gắm lòng mình qua tiếng đàn nỉ non ai oán. Ngô Vương muốn cho nỗi buồn của Tây
Thi dịu bớt đi bèn cho đào ao Vân Nguyệt, giếng Ngô Vương ở tận đỉnh núi Linh Nham
hầu cho người yêu dạo chơi tắm mát Tây Thi thường lén đưa tin tức về cho Việt
Vương Nhờ đó mà Việt Vương trả được mối thù xưa cho nước Việt. Và cũng từ sau

ngày chiến thắng, Phạm Lãi cùng Tây Thi sum họp cùng chu du Ngũ Hồ để đền bù lại
những tháng năm xa cách
( Có sách ghi rằng Tây Thi bị chết, còn Phạm Lãi chỉ một mình ôm mối hận tình chu du
chốn Ngũ Hồ mà thôi).
Một ngôi đền Sùng Bảo được cất lên trên ngọn Linh Nham để tưởng nhớ chiến công của
nàng Tây Thi . Ngày nay các di tích lịch sử giữa hai nước Ngô - Việt vẫn còn tồn tại trên
ngọn Linh Nham
Tô Châu đúng là cảnh thiên đường của hạ giới

×