Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Hãy làm rõ sự thể hiện tư duy của Đảng ta về vấn đề tôn giáo thông qua các thời kỳ, từ đó liên hệ tới bản thân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.92 KB, 12 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC TP.HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Tên đề tài : Anh/ chị hãy làm rõ sự thể hiện tư duy của Đảng ta về vấn
đề tôn giáo thông qua các thời kỳ, từ đó liên hệ tới bản thân?

Giáo viên hướng dẫn: cô Nguyễn Thị Thu Hà
Sinh viên :
Lớp:
Mã số sinh viên:

TPHCM, ngày 9, tháng 10, năm 2021
pg. 1


LỜI MỞ ĐẦU:
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn khẳng định vấn đề dân tộc, tôn giáo
và công tác dân tộc, tôn giáo là vấn đề chiến lược có tầm quan trọng đặc biệt; thực hiện tốt
chính sách dân tộc, tôn giáo, phát huy truyền thống và sức mạnh của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc là một đảm bảo quan trọng cho thắng lợi sự nghiệp cách mạng của toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta.
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã xây dựng nguyên tắc của chính sách dân tộc ở Việt
Nam là: bình đẳng, đồn kết, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc. Những nguyên
tắc này được quán triệt và thực hiện nhất quán, có hiệu quả trong mọi thời kỳ cách mạng.
Cùng với việc thực hiện tốt chính sách dân tộc, công tác dân tộc, Đảng và Nhà nước ta
cũng thường xun thực hiện có hiệu quả chính sách tôn giáo và công tác tôn giáo. Tư
tưởng nhất quán của Đảng ta là tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo và quyền tự do
khơng tín ngưỡng, tơn giáo của nhân dân, hết sức chăm lo đồn kết tơn giáo, hịa hợp dân
tộc. Đảng và Nhà nước ta đã ban hành và tổ chức thực hiện có hiệu quả nhiều nghị quyết,


chỉ thị, sắc lệnh, nghị định về vấn đề tôn giáo, công tác tôn giáo và Luật Tín ngưỡng Tơn
giáo; qua đó, góp phần củng cố, phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết tồn dân
tộc. Những chuyển biến tích cực trong hoạt động của các tơn giáo khẳng định: chính sách
tơn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo của Đảng và Nhà nước ta đã đi vào
đời sống xã hội, đáp ứng được nguyện vọng của đồng bào các tơn giáo trong cả nước...
Song song đó, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền về dân tộc, tôn giáo, giúp cho cộng
đồng hiểu rõ chính sách dân tộc, chính sách tơn trọng tự do tín ngưỡng, tơn giáo của
Đảng, Nhà nước ta và thực tế tình hình cuộc sống lao động, sản xuất, sinh hoạt tín
ngưỡng, tơn giáo ở Việt Nam trong giai đoạn hội nhập và phát triển.
Dựa vào cơ sở lý luận thực tế và từ kiến thức đã được học cũng như những hiểu biết
của bản thân. Trong bài viết này, em sẽ làm rõ về sự thể hiện tư duy của Đảng ta về vấn đề
tôn giáo thơng qua các thời kỳ, , bên cạnh đó liên hệ với thế hệ sinh viên hiện nay.
Mặc dù đã cố gắng hết khả năng của mình nhưng do trình độ kiến thức và kinh nghiệm
cịn hạn chế, nên khơng tránh khỏi có những sơ sót. Em rất mong được sự nhận xét, đánh
giá, đóng góp ý kiến của các thầy cơ để bài tập này được hồn thiện hơn.

pg. 2


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG
1. Quan điểm của Đảng về tôn giáo trước năm 2003:
Sau năm 1975, đất nước hồn tồn thống nhất, Đảng ta đã có điều kiện để nhìn nhận rõ
và sâu sắc hơn về vấn đề tơn giáo. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo thực sự được vận
dụng vào thực tiễn, đưa đến sự đổi mới nhận thức về tôn giáo. Đảng ta đã chỉ rõ cần khắc
phục những nhận thức phiến diện về tôn giáo trong một bộ phận cán bộ, địa phương; hiểu
tơn giáo một cách sơ cứng, siêu hình, khắc sâu mâu thuẫn giữa tôn giáo và CNXH, đồng
nhất tôn giáo như một thứ công cụ tinh thần của các thế lực thù địch với dân tộc và
CNXH. Mặt khác, Đảng ta yêu cầu phải khắc phục việc dùng biện pháp hành chính để
giải quyết vấn đề tơn giáo, tạo khe hở để các thế lực thù địch chia rẽ khối đại đồn kết dân
tộc.

Nghị quyết 24-NQ/TW của Bộ Chính trị về tăng cường cơng tác tơn giáo trong tình
hình mới được coi là bước ngoặt lớn, là dấu mốc quan trọng đối với sự đổi mới tư duy của
Đảng về tơn giáo. Sự đổi mới nhận thức đó hồn tồn khơng xa rời ngun lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo. Nghị quyết 24NQ/TW khẳng định: Tôn giáo là vấn đề cịn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng, tơn giáo là nhu
cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tơn giáo có nhiều điều phù hợp với công
cuộc xây dựng xã hội mới. Nghị quyết thể hiện quan điểm mới của Đảng về tôn giáo và
công tác tôn giáo với ba luận điểm quan trọng:
Một là, khẳng định quan điểm tơn giáo là vấn đề cịn tồn tại lâu dài. Đây là quan điểm
mà lần đầu tiên Đảng chính thức đưa vào văn kiện Nghị quyết, phản ánh sự đổi mới có
tính đột phá trong tư duy lý luận của Đảng về vấn đề tôn giáo. Khẳng định tôn giáo đồng
hành lâu dài cùng dân tộc, do đó cần phải có thái độ khách quan, khoa học để giải quyết
vấn đề tôn giáo. Quan điểm này địi hỏi phải khắc phục tư tưởng nóng vội, chủ quan trong
ứng xử với tơn giáo, muốn nhanh chóng xóa bỏ tơn giáo bằng mệnh lệnh hành chính tại
nhiều địa phương. Đây chính là sự kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn
giáo. Ph.Ăngghen chỉ rõ: trong CNXH tôn giáo vẫn tồn tại, ông phê phán tư tưởng cho
rằng có thể xố bỏ tơn giáo bằng sắc lệnh. Ơng cho rằng, những quan niệm có thể xố
sạch ý thức tơn giáo chẳng qua chỉ bộc lộ sự hiểu biết nghèo nàn, tuyệt đối khơng được
nóng vội, chủ quan trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo.
Hai là, tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Quan điểm
này sau đó được Đảng ta chính thức đưa vào Văn kiện Đại hội VII năm 1991: “Tín
ngưỡng là vấn đề cịn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ
phận nhân dân”. Có nghĩa là tơn giáo vẫn có lý do để tồn tại. Nơi nào vẫn còn sự hiện diện
của đau thương, hay giản đơn là cần đến sự an ủi, xoa dịu nỗi đau... thì tơn giáo vẫn cịn
pg. 3


tồn tại. Nhìn nhận tơn giáo dưới góc độ tâm linh - văn hóa là một điểm mới của Đảng
trong nhận thức về vai trị, chức năng của tơn giáo. Đó là một bước tiến mới về nhận thức
lý luận của Đảng đối với vấn đề tôn giáo và công tác tơn giáo.
Ba là, đạo đức tơn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng CNXH. Lần

đầu tiên, trong văn kiện của Đảng khẳng định sự cảm thơng, chia sẻ với những người có
đức tin, khơng đối lập về mặt ý thức hệ để thừa nhận lý tưởng, đạo đức của tơn giáo có
nhiều điểm tương đồng với lý tưởng, đạo đức XHCN. Đảng ghi nhận nhiều giá trị đạo đức
của tơn giáo, đó cũng chính là sự vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về tôn
giáo và là sự kế thừa tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh về sự tương đồng giữa tơn giáo và
CNXH. Đạo đức con người mới XHCN có những điểm khác biệt với đạo đức tơn giáo,
nhưng lại có nhiều điểm tương đồng như lòng thương người, bao dung, nhân văn, đức hy
sinh, vị tha, tính thiện,...
Đạo đức XHCN là sự kế thừa những tư tưởng đạo đức tiến bộ của nhân loại trong đó
có đạo đức tơn giáo. Đây là sự kế thừa quan điểm của Hồ Chí Minh về tính tương đồng
giữa tơn giáo và CNXH và là bước đột phá trong nhận thức của Đảng về vai trị của tơn
giáo. Tơn giáo và CNXH đều đặt con người vào vị trí trung tâm, quan tâm đến con người
và mong muốn con người hạnh phúc. Quan điểm về sự tương đồng giữa tôn giáo và
CNXH xuyên suốt trong quan điểm, ứng xử của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với vấn đề tôn
giáo.
Những luận điểm trên đã tạo nên sự đột phá trong nhận thức, khơng nhìn nhận tơn giáo
xơ cứng, phiến diện mà nhìn nhận tơn giáo như một “thực tại xã hội” và là nhu cầu của
một bộ phận quần chúng, tôn giáo đồng hành với CNXH, gắn kết các giá trị đạo đức, văn
hóa của tơn giáo với giá trị văn hóa dân tộc.
Sự đổi mới đó chứng tỏ bản lĩnh và sự trưởng thành của Đảng trong cơng tác lý luận
nói chung và cơng tác tơn giáo nói riêng. Đảng ta đã khai thác toàn diện quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo, vận dụng sáng tạo trong
điều kiện đặc thù của cách mạng Việt Nam, vượt qua cách nhìn chính trị - tơn giáo quen
thuộc để có cách nhìn mới, trên cơ sở thấu hiểu nhu cầu tơn giáo như một nhu cầu chính
đáng, tất yếu của một bộ phận nhân dân.
Đại hội IX, lần đầu tiên trong Văn kiện Đại hội, Đảng khẳng định “từng bước hồn
thiện luật pháp về tín ngưỡng tơn giáo” và điều này được tiếp tục nhấn mạnh trong Đại
hội XI: “Tiếp tục hồn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tơn giáo phù hợp với
quan điểm của Đảng”. Trong q trình đổi mới tồn diện đất nước, đã có những đổi mới
về chính sách tơn giáo, nhiều văn bản mới ra đời. Các chính sách đó cơ bản phù hợp với


pg. 4


thực tiễn, luật pháp về tôn giáo, ngày càng được đồng bào có đạo đồng tình, ủng hộ, giúp
họ n tâm, tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng.
2. Quan điểm của Đảng về tôn giáo từ năm 2003 đến nay:
Nghị quyết 25-NQ/TW ngày 12-3-2003 là Nghị quyết riêng về công tác tôn giáo, vấn
đề tôn giáo lần đầu tiên được đưa ra bàn bạc, quyết định ở cấp Ban Chấp hành Trung ương
Đảng, tại Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa IX. Nghị quyết 24NQ/TW, Đảng mới chỉ nêu ra ba quan điểm chỉ đạo thì đến Nghị quyết 25-NQ/TW, Đảng
đã nêu ra năm quan điểm và chính sách, trong đó tiếp tục khẳng định những quan điểm đã
được nêu tại Nghị quyết 24-NQ/TW và bổ sung một số quan điểm mới, cụ thể là:
Một là, tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và
sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta. Nhận thức rõ sự tồn tại
của tín ngưỡng, tôn giáo là một thực tế khách quan, lâu dài, trong suốt thời kỳ q độ, do
đó, Đảng tơn trọng và bảo đảm quyền tự do tơn giáo, tín ngưỡng của nhân dân, là chính
sách lâu dài của đất nước. Khẳng định tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân đang
và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH là sự đổi mới trong nhận thức
về tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta, là cơ sở để hình thành các chủ trương, giải pháp về
tôn giáo và công tác tôn giáo trong thời kỳ mới.
Hai là, đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và thực
hiện nhất qn chính sách đồn kết tồn dân tộc. Ngay từ năm 1945, trong phiên họp đầu
tiên của Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị ban hành chính sách “Tín ngưỡng
tự do và lương giáo đồn kết”. Quan điểm đồn kết tơn giáo là một bộ phận trong tư
tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần làm nên sức mạnh, đưa cách mạng Việt Nam đi
từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đây là sự kế thừa điểm đặc sắc nhất trong tư tưởng
Hồ Chí Minh về đồn kết tơn giáo, là sự bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin. Quan
điểm đồn kết tơn giáo là một bộ phận trong tư tưởng đại đoàn kết - một tư tưởng lớn của
Hồ Chí Minh, được hình thành từ truyền thống đồn kết của dân tộc và được xây dựng
trên nền tảng cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng nhân

dân. Để tạo nên sức mạnh trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, là một quốc gia đa dân tộc, nhiều tôn giáo, Việt Nam tất yếu phải đồn
kết tồn dân. Các tơn giáo đều tồn tại trong lịng dân tộc Việt Nam, lợi ích của từng tơn
giáo gắn với lợi ích của cả dân tộc. Quan điểm này đã góp phần làm thất bại mọi âm mưu
phá hoại của các thế lực thù địch, hịng chia rẽ khối đại đồn kết dân tộc.
Trong thời kỳ mới, với những u cầu mới, đồn kết tơn giáo, phát huy khối đại đoàn
kết toàn dân tộc ngày càng trở thành chủ đề trung tâm của các kỳ Đại hội của Đảng.

pg. 5


Ba là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng. Đảng ta
khẳng định, thực chất công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng, yêu cầu các cấp,
các ngành quan tâm giải quyết những nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của chức sắc, tín
đồ tơn giáo; nắm bắt và giải quyết kịp thời những vấn đề tồn tại trong công tác quản lý
hoạt động tín ngưỡng, tơn giáo; quan tâm đời sống nhân dân.
Bốn là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Với quan điểm này,
Đảng đã khẳng định các tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận và tổ chức chính trị - xã hội
các cấp, trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mình, trực tiếp làm cơng tác tơn giáo, góp
phần làm tốt công tác tôn giáo trong thời kỳ mới. Trong công tác tôn giáo, Đảng lãnh đạo,
đề ra chủ trương, phương hướng, Nhà nước quản lý hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và
công tác tôn giáo theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân quán triệt đường lối, chủ trương, chính sách để vận động quần chúng thực
hiện tốt chính sách tôn giáo.
Năm là, vấn đề theo đạo và truyền đạo. Đây là điểm quan trọng nhằm xác định các
hoạt động tôn giáo đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Mọi tín đồ đều có quyền tự
do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật. Các tổ
chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận thì được hoạt động theo pháp luật và được pháp
luật bảo hộ, được hoạt động tôn giáo, mở trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất bản
kinh sách, giữ gìn, sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ tự tôn giáo theo quy định của pháp luật.

Không được lợi dụng tôn giáo để tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, khơng
được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ chức, cá nhân truyền đạo trái phép,
vi phạm các quy định của pháp luật.
Sự đổi mới trong nhận thức về tơn giáo của Đảng là kết quả của q trình tư duy lâu
dài trên cơ sở kế thừa, vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về tơn giáo và là kết quả của hoạt động thực tiễn cách mạng Việt Nam. Vấn
đề tôn giáo và công tác tôn giáo ở nước ta đã có những chuyển biến mạnh mẽ. Các tổ chức
tơn giáo có xu hướng nhập thế, tham gia vào đời sống chính trị sâu rộng hơn.
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ THỰC TIỄN: LIÊN HỆ VẤN ĐỀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM
Việt Nam là quốc gia đa tín ngưỡng, tơn giáo với 95% dân số có đời sống tín ngưỡng,
tơn giáo, hơn 26,5 triệu tín đồ các tơn giáo (chiếm 27% dân số), hơn 58.000 chức sắc,
148.000 chức việc, 29.000 cơ sở thờ tự, 53 cơ sở đào tạo tôn giáo. Chính vì thế, trong q
trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước ta ln khẳng định chủ trương, chính sách
nhất quán là tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo và tự do khơng tín
ngưỡng tơn giáo của đồng bào các dân tộc. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã khẳng
pg. 6


định: “Tơn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo và khơng tín ngưỡng tơn
giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật”. Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam (năm 2013), Điều 24 quy định “1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo,
theo hoặc không theo một tôn giáo nào… 2. Nhà nước tơn trọng và bảo hộ quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo. 3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tơn giáo hoặc lợi dụng
tín ngưỡng, tơn giáo để vi phạm pháp luật”. Đây là cơ sở pháp lý rất quan trọng để nhân
dân ta thực hiện quyền bình đẳng trong chính sách tự do tơn giáo theo ngun tắc: bình
đẳng về tín ngưỡng, bình đẳng về quyền lợi, nghĩa vụ (nghĩa vụ tôn giáo, nghĩa vụ công
dân) và bình đẳng về pháp luật.
Khơng chỉ là quốc gia đa tơn giáo, Việt Nam cịn là quốc gia đa dân tộc (với 54 dân tộc
cùng sinh sống), mỗi dân tộc đều lưu giữ những hình thức tín ngưỡng khác nhau với rất
nhiều lễ hội truyền thống dân gian, tạo nên sự đa dạng trong đời sống tâm linh liên quan

đến tín ngưỡng, tơn giáo của người Việt. Hằng năm, cả nước có hàng nghìn lễ hội tín
ngưỡng, tơn giáo được tổ chức.
Các hoạt động tôn giáo diễn ra sôi động trên khắp cả nước; nhiều hoạt động, sinh hoạt
tôn giáo lớn được tổ chức trang trọng, thu hút hàng trăm nghìn lượt người tham dự. Các tổ
chức tơn giáo được phép thành lập trường đào tạo, mở lớp bồi dưỡng những người chuyên
hoạt động tôn giáo để đáp ứng nhu cầu của tôn giáo. Hiện nay, ở Việt Nam có 53 cơ sở
đào tạo những người chuyên hoạt động tơn giáo; trong đó, một số cơ sở được phép đào tạo
trình độ thạc sĩ, tiến sĩ. Chính quyền các địa phương còn tạo điều kiện cho các tổ chức tơn
giáo mở các khóa đào tạo, bồi dưỡng thần học, giáo lý cho hơn 10.000 người mỗi năm.
Việc tu sửa các cơ sở tín ngưỡng, thờ tự cũng được các cấp chính quyền tạo điều kiện
thuận lợi. Tính đến nay, hơn 20.000 (chiếm 80%) cơ sở thờ tự của các tôn giáo được sửa
chữa, nhiều cơ sở thờ tự được xây mới. Tại các địa phương, việc cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho các cơ sở tôn giáo được thực hiện đúng pháp luật. Nhiều tỉnh,
thành phố giao đất với diện tích phù hợp cho các tổ chức tơn giáo, như: Thành phố Hồ Chí
Minh đã giao 7.500m2 đất cho Tổng liên hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam)
xây dựng Viện Thánh kinh thần học; tỉnh Thừa Thiên Huế giao 20ha đất cho Học viện
Phật giáo Việt Nam sử dụng; thành phố Đà Nẵng giao 6.000m2 đất cho Hội truyền giáo Cơ
đốc Việt Nam sử dụng; thành phố Hà Nội giao cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam khoảng
11ha đất để xây dựng Học viện Phật giáo Việt Nam, v.v..
Khơng chỉ có thế, Việt Nam cịn quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi để hoạt động quan
hệ quốc tế của các tổ chức tôn giáo ngày càng được mở rộng. Hằng năm, có hàng trăm
đồn của tổ chức, cá nhân tôn giáo ở trong nước tham gia hoạt động tơn giáo ở nước
ngồi; nhiều chức sắc nước ngồi vào Việt Nam hoạt động tơn giáo. Nhiều hoạt động tôn
pg. 7


giáo quốc tế lớn được tổ chức thành công ở Việt Nam: Cơng giáo tổ chức Tổng hội Dịng
Đa Minh thế giới tại Đồng Nai; Tin lành kỷ niệm 100 năm đạo Tin lành truyền vào Việt
Nam; Giáo hội Phật giáo tổ chức Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc năm 2019 tại Việt Nam
đã thu hút sự tham dự của 3.000 đại biểu (1.650 đại biểu khách quốc tế đến từ 112 quốc

gia và vùng lãnh thổ, 250 kiều bào là tăng ni sinh từ 40 quốc gia), khoảng 20.000 lượt
tăng ni, phật tử tham dự các hoạt động bên lề của đại lễ đã được dư luận quốc tế đánh giá
cao.
Trên thực tế, mọi tôn giáo ở Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, được pháp luật
bảo vệ, được tự do hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Tuyệt nhiên không
một tôn giáo nào hoạt động đúng pháp luật mà bị chính quyền ngăn cấm. Chức sắc, tín đồ
các tơn giáo ln gắn bó với quốc gia, dân tộc theo phương châm “Đạo pháp dân tộc và
CNXH”, thực hiện “sống phúc âm trong lòng dân tộc”, “nước vinh đạo sáng”, vừa làm
tròn bổn phận của tín đồ đối với tơn giáo, vừa hăng hái lao động sản xuất, góp phần cùng
tồn dân đẩy mạnh thực hiện công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực tiễn
sinh động đó đã, đang được khẳng định qua những thành tựu đã đạt và được nhiều nước,
nhiều tổ chức quốc tế đánh giá cao. Thế nhưng, các thế lực thù địch cùng các tổ chức, cá
nhân thiếu thiện chí lại ra sức tung tin xuyên tạc, bịa đặt về tình hình tơn giáo tại Việt
Nam. Chúng lợi dụng một số phần tử đội lốt tôn giáo, vi phạm luật pháp và bị pháp luật
xử lý để vu cáo Việt Nam đàn áp tôn giáo, ngăn cấm xây, sửa nơi thờ tự, cản trở các hoạt
động tín ngưỡng của các chức sắc tơn giáo, nhà tu hành,… Khơng những thế, các tổ chức
thiếu thiện chí ở nước ngồi đã dựa trên những thơng tin bịa đặt từ một nhóm người có
hoạt động chống Nhà nước Việt Nam để đưa ra những luận điệu vu cáo “Việt Nam đàn áp,
tấn cơng tơn giáo”.
Ngồi ra, một số đối tượng cơ hội chính trị cịn vu cáo chính quyền gây cản trở và sách
nhiễu khi có sự phân cơng và chuyển giao công việc giữa các chức sắc tôn giáo ở các
điểm nhóm địa phương chưa đăng ký
Chưa dừng lại ở đó, một số luận điệu cịn cáo buộc vơ lối các cấp chính quyền “duy trì
quy trình đăng ký, công nhận không đúng với quy định” nhằm làm chậm, không chấp
nhận, cấm các hoạt động tôn giáo của các hội, nhóm tơn giáo; “gây khó khăn” với các hội,
nhóm tơn giáo ở vùng sâu, vùng xa hoặc vùng các dân tộc thiểu số khi đăng ký hoạt động.
Mục đích của họ khơng có gì khác là nhằm hạ thấp vai trị lãnh đạo của Đảng, tiến tới
xóa bỏ chế độ XHCN ở nước ta. Một số phần tử cơ hội chính trị ở trong nước đã lợi dụng
lịng tin của nhân dân để thực hiện các động cơ chính trị đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân
tộc, kích động quần chúng chống phá, gây rối an ninh trật tự, tạo các “điểm nóng” về

chính trị, v.v.
pg. 8


Song sự thật vẫn là sự thật. Dù họ có phớt lờ hoặc cố tình khơng nhận thấy thì sự phát
triển và những thành tựu về tôn giáo ở Việt Nam tự nó đã làm bẽ mặt những kẻ lâu nay
vẫn rắp tâm chống phá. Trong những năm qua, Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã nỗ
lực thực hiện một cách toàn diện từ việc hoàn thiện hệ thống pháp luật đến việc triển khai
thực hiện việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo cho nhân dân. Các bản hiến pháp
của nước Việt Nam đều có các điều, khoản về quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo của cơng
dân; Quốc hội Khóa XI đã ban hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tơn giáo; Chính phủ đã ban
hành Nghị định 22/2005/NĐ-CP về hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín
ngưỡng, tơn giáo. Điều đáng chú ý là, cùng với các quy định về tín ngưỡng, tơn giáo của
Nhà nước, Nghị quyết Đại hội XI của Đảng cịn nhấn mạnh: “Phát huy những giá trị văn
hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo; động viên các tổ chức tơn giáo, chức sắc, tín đồ
sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”2. Như vậy, quan điểm nhất quán của Đảng ta không chỉ tôn trọng quyền tự do tín
ngưỡng, tơn giáo, theo hoặc khơng theo một tơn giáo nào mà cịn đánh giá cao vai trị, vị
trí của các tơn giáo đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Điều này đã phản bác các
luận điệu xuyên tạc cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam là vô thần và chủ trương diệt trừ
tôn giáo.
Như vậy, thông qua những bằng chứng thực tiễn sinh động về tín ngưỡng, tơn giáo của
Việt Nam đã bác bỏ mọi nhận xét thiếu khách quan về tự do tín ngưỡng, tơn giáo ở nước
ta. Thực tiễn đó cũng là cơ sở để đồng bào tôn giáo củng cố niềm tin vào đường lối, chính
sách nhân văn của Đảng và Nhà nước ta về tự do tín ngưỡng, tơn giáo.
CHƯƠNG 3: LIÊN HỆ SINH VIÊN
Trước những thách thức và khó khăn mà đất nước đang phải đối mặt, sinh viên phải tự
đặt ra cho bản thân mình câu hỏi: Là những trí thức tương lai của đất nước, mình đã, đang
và sẽ làm gì để góp phần đưa đất nước phát triển, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc?

- Mỗi sinh viên phải tự mình phấn đấu, rèn luyện, tự trau dồi cho bản thân những
kỹ năng cần thiết, khơng ngừng nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ, nỗ lực rèn
luyện vì lợi ích chung của cộng đồng và vì chính sự phát triển của cá nhân. Quan trọng
hơn, các bạn trẻ cần xây dựng bản lĩnh văn hóa, sẵn sàng đấu tranh với những hoạt
động, sản phẩm văn hóa khơng lành mạnh.
- Sinh viên Việt Nam cần tích cực học tập CN Mác, trang bị thế giới quan và
phương pháp duy vật biện chứng, nắm được sự vận động phát triển của quy luật xã hội.

pg. 9


- Sinh viên cần tích cực học tập tri thức khoa học, có kỹ năng tốt (Ngoại ngữ,
cơng nghệ thơng tin, giao tiếp,…) phẩm chất tốt, vừa có tài, vừa có đức. Chung tay
đóng góp cơng sức vào cơng cuộc xây dựng nước nhà, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trước
sự quan tâm, chăm lo và kỳ vọng lớn lao của Đảng và Nhà nước, hơn bao giờ hết, sinh
viên cần nhận thức rõ vai trò và trách nhiệm để không ngừng học tập và tu dưỡng, rèn
luyện, phấn đấu để trở thành lực luợng xung kích thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh
tế, xã hội, xây dựng và bảo vệ vững chắc nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Sinh viên phải tích cực tham gia học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị, bồi
đắp lý tưởng cách mạng trong sáng. Bối cảnh cách mạng trong nước và quốc tế đang tác
động lên tất cả các đối tượng thanh niên, tác động một cách toàn diện lên tư tưởng, tình
cảm, lối sống, nhu cầu của từng thanh niên. Do đó, thanh niên phải rèn luyện để có lập
trường tư tưởng vững vàng, có lịng u nước, có niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng và lối sống lành mạnh; tích
cực tham gia vào các cuộc đấu tranh bảo vệ Đảng, Nhà nước và bảo vệ Cương lĩnh,
đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; đấu tranh chống lại âm mưu
“Diễn biến hịa bình” của các thế lực thù địch và các tiêu cực, tệ nạn xã hội, … đẩy
mạnh việc giáo dục tư tưởng, đạo đức, tác phong sống trong sinh viên và coi đây là
nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, cần thường xuyên thực hiện tốt. Đẩy mạnh tổ chức các
cuộc thi tìm hiểu liên quan lịch sử hào hùng, truyền thống văn hóa của đất nước, của quê

hương. Hơn nữa, phải chủ động, sáng tạo và linh hoạt trong tổ chức các hoạt động định
hướng cho sinh viên tiếp thu những mặt tích cực, tiên tiến của văn hóa hiện đại; đồng
thời khơi dậy tinh thần tự hào dân tộc, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc.
Kiên quyết đấu tranh đối với những biểu hiện vô cảm; khơi dậy tinh thần tương thân,
tương ái trong tuổi trẻ.
- Sinh viên phải là những người tiên phong đi đầu, chủ động xây dựng tác phong,
lối sống đẹp, sống có ích... Được như vậy, bản sắc văn hóa dân tộc sẽ nhanh chóng được
khẳng định tuyên truyền, nâng cao nhận thức của xã hội về tôn giáo và công tác tôn
giáo. Tăng cường công tác tuyên truyền về hoạt động tôn giáo và đường lối, chính sách
đúng đắn về tơn giáo của Đảng, Nhà nước, nhất là Luật Tín ngưỡng, tơn giáo
- Chủ động tham gia các diễn đàn tôn giáo quốc tế và khu vực. Theo đó, thơng
qua các hoạt động hợp tác quốc tế, các cuộc đối thoại song phương và đa phương, nhất
là với Mỹ và các nước thuộc Liên minh châu Âu (EU), các diễn đàn quốc tế, ngoại giao
nhân dân để cộng đồng quốc tế hiểu đúng đường lối, chính sách về tôn giáo của Đảng và
Nhà nước Việt Nam, lên tiếng ủng hộ Việt Nam trên các diễn đàn song phương và đa

pg. 10


phương; cung cấp thơng tin chính thống phục vụ đấu tranh nhân quyền với các thế lực
thù địch vu cáo Việt Nam về vấn đề “tự do tơn giáo”.

KẾT LUẬN:
Có thể nói, ổn định tình hình tín ngưỡng, tơn giáo là một trong những yếu tố quan
trọng góp phần vào thành công của công cuộc đổi mới đất nước, phát triển kinh tế, xã hội,
đoàn kết dân tộc và bảo đảm an ninh - quốc phịng. Do vậy, cơng tác quản lý nhà nước về
tín ngưỡng, tơn giáo và cơng tác bảo đảm an ninh trên lĩnh vực tôn giáo là những nhiệm
vụ quan trọng, vừa bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo, nâng cao đời sống tinh thần
của người dân, vừa hạn chế sự chống phá của các thế lực thù địch, góp phần tạo sự ổn
định và phát triển bền vững đất nước.


pg. 11


MỤC LỤ
LỜI MỞ ĐẦU:.............................................................................................................2
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG..................................................................3
1. Quan điểm của Đảng về tôn giáo trước năm 2003:................................................3
2. Quan điểm của Đảng về tôn giáo từ năm 2003 đến nay:........................................5
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ THỰC TIỄN: LIÊN HỆ VẤN ĐỀ TÔN GIÁO Ở VIỆT
NAM............................................................................................................................. 6
CHƯƠNG 3: LIÊN HỆ SINH VIÊN..........................................................................9
KẾT LUẬN:...............................................................................................................11

pg. 12



×