Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Vận dụng cặp phạm trù khả năng và hiện thực để phân tích, làm rõ sự phát triển kinh tế biển nước ta trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.7 KB, 35 trang )

Luận văn
Đề tài: Vận dụng cặp
phạm trù khả năng và hiện
thực để phân tích, làm rõ
sự phát triển kinh tế biển
nước ta trong giai đoạn
hiện nay
A. MỞ ĐẦU
1 lý do chọ đề tài
Bước sang thế kỷ 21,“Thế kỷ của biển và đại dương”[1,tr5], khai thác
biển đã trở thành vấn đề quan trọng mang tính chiến lược của hầu hết các
quốc gia trên thế giới, kể cả các quốc gia có biển và các quốc gia không có
biển. Trong điều kiện các nguồn tài nguyên trên đất liền đang ngày càng cạn
kiệt, các nước ngày càng quan tâm tới biển. Mặt khác, sự bùng nổ dân số
ngày càng gia tăng, theo thống kê đầu năm 2006 toàn thế giới có 6,5 tỷ
người, dự báo đến 2015 dân số thế giới khoảng 7,5 tỷ người. Sự phát triển
của dân số thế giới làm cho không gian kinh tế truyền thống đã trở nên chật
chội, nhiều nước bắt đầu quay mặt ra biển và nghĩ đến các phương án biến
biển và hải đảo thành lãnh địa, thành không gian kinh tế mới. Một xu hướng
mới nữa là hiện nay, trong điều kiện phát triển khoa học công nghệ nhanh
chóng, việc đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, công nghệ về biển đang là một
xu thế tất yếu của các quốc gia có biển để tìm kiếm và bảo đảm các nhu cầu
về nguyên, nhiên liệu, năng lượng, thực phẩm và không gian sinh tồn trong
tương lai
Từ bao đời nay, biển luôn gắn bó chặt chẽ với mọi hoạt động sản xuất,
đời sống của dân tộc Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta nhận định: “Biển có ý
nghĩa to lớn để nước ta phát triển, mở cửa giao lưu với quốc tế và ngày càng
có vai trò lớn trong định hướng phát triển tương lai”. Với điều kiện tự nhiên
thuận lợi, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng, vùng biển
Việt Nam mang trong mình những tiềm năng nổi bật như: khai thác dầu khí,
khoáng sản; nuôi trồng và đánh bắt thủy - hải sản; du lịch; Vì vậy, vấn đề


tiến ra biển để phát triển kinh tế đang là một xu thế tất yếu của các quốc gia
có biển, trong đó có Việt Nam, đặc biệt trong điều kiện hiện nay khi các
nguồn tài nguyên trên đất liền có hạn, đã và đang được khai thác mạnh mẽ,
sự bùng nổ dân số ngày càng gia tăng.
Đặc biệt nghị quyết Hội nghị lần thứ 4, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa X về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, nêu rõ: “Phấn
đấu để nước ta trở thành một quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển, bảo
vệ vững chắc chủ quyền quốc gia trên biển…có chính sách hấp dẫn nhằm
thu hút mọi nguồn lực phát triển kinh tế biển… giải quyết tốt các vấn đề xã
hội, cải thiện một bước đáng kể đời sống của nhân dân vùng biển và ven
biển”
Việt Nam nằm bên bờ Tây của Biển Đông - một biển lớn, quan trọng
của khu vực và thế giới. Theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển
năm 1982 thì Việt Nam không chỉ có phần lục địa nhỏ hẹp mà còn có cả
vùng biển rộng lớn hơn 1 triệu km2, gấp hơn ba lần diện tích đất liền. “Bờ
biển trải dài theo chiều dài của đất nước với khoảng 100 cảng biển, 48 vịnh
lớn nhỏ và trên 112 cửa sông, cửa lạch đổ ra biển, trên lãnh hải vùng biển
Việt Nam có hơn 3.000 đảo lớn, nhỏ với diện tích phần đất nổi trên mặt biển
khoảng 1.636 km2”[2,tr159], được phân bố chủ yếu ở vùng biển Đông Bắc
và Tây Nam với những đảo nổi tiếng về cảnh đẹp và có vị trí chiến lược như
Bạch Long Vĩ, Phú quốc, Thổ Chu, Côn Sơn, Cồn Cỏ, Phú Quý, Cát Bà,
Hoàng Sa, Trường Sa. Trải dài trên tuyến ven biển có 29 tỉnh, thành phố với
124 huyện, thị xã; 612 xã, phường (trong đó có 12 huyện đảo, 53 xã đảo) với
khoảng 20 triệu người sống ở ven bờ và 17 vạn người sống ở các đảo. Vì
vậy, khai thác tiềm năng kinh tế trên biển và ven biển để phát triển kinh tế
đất nước thật sự là vấn đề có tính chiến lược, lâu dài và có tương lai to lớn,
đóng vai trò ngày càng quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội
của nước ta
Thực tiễn các nước trên thế giới đã cho thấy kinh tế các vùng lãnh thổ,
các địa bàn ven biển luôn đi đầu trong phát triển kinh tế của mỗi quốc gia có

biển. chính vì vậy em chọn đề tài “ vận dụng cặp phạm trù khả năng và
hiện thực để phân tích, làm rõ sự phát triển kinh tế biển nước ta trong
giai đoạn hiện nay”
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan
“DẤU ẤN VIỆT NAM TRÊN BIỂN ĐÔNG” của tiến sỹ Trần Công
Trục do nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông thuộc Bộ Thông tin và
truyền thông phát hành
“HOÀNG SA, TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM” Nhà xuất bản
Trẻ phát hành với các tác giả Nguyễn Đình Đầu, Nguyễn Nhã, Lê Minh
Nghĩa, Từ Đặng Minh Thu, Vũ Quang Việt
“BIỂN VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN VIỆT NAM: QUÁ KHỨ,
HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI” của PGS.TS. Vũ Văn Phái nhà xuất bản Đại
Học Quốc Gia Hà Nội
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
-Mục đích nghiên cứu: làm rõ khả năng và hiện trạng phát triển kinh
tế biển nước ta trong giai đoạn hiện nay từ đó đề xuất phương hướng giải
pháp phát triển kinh tế biển đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển,
làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia
trên biển, đảo, góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, làm cho đất nước giàu mạnh
-Nhiệm vụ nghiên cứu: phân tích làm rõ khả năng, thế mạnh và hiện
trạng phát triển kinh tế biển nước ta trong giai đoạn hiện nay
Quan điểm của Đảng về việc đẩy mạnh phát triển kinh tế biển nước ta
từ đó đề ra phương hướng, nhiệm vụ, và gải pháp thúc đẩy sự phát triển kinh
tế biển nước ta trong giai đoạn hiện nay và tương lai
4. đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- đối tượng nghiên cứu:
Khả năng và hiện thực trong triết học Mác-lênin
Việc phát triển kinh tế biển nước ta trong giai đoạn hiện nay
-phạm vi nghiên cứu

+Về không gian: phạm vi nghiên cứu bao gồm toàn bộ vùng biển của
nước ta
+Về thời gian: phạm vi nghiên cứu bắt đầu từ năm 2000 trở lại cho
đến nay
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: dựa trên chủ nghĩa duy vật biện chứng Mac-lenin nói
chung và cặp phạm trù khả năng và hiện thực nói riêng, và quan điểm của
Đảng ta về việc phát triển kinh tế biển
- Phương pháp nghiên cứu: tiểu luận là dựa vào phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật lịch sử và một số phương pháp khác như: phân tích
tổng hợp, thống kê, đánh giá,
6. kết cấu của tiểu luận
Tiểu luận bao gồm 3 phần: mở đầu, nội dung, danh mục tài liệu tham
khảo, ngoài ra còn có trích dẫn và phục lục, trong phần nội dung tiểu luận
bao gồm 3 chương 9 tiết.
B NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CẶP PHẠM TRÙ
KHẢ NĂNG VÀ HIỆN THỰC
1.1 KHÁI NIỆM KHẢ NĂNG VÀ HIỆN THỰC
“Hiện thực là phạm trù chỉ những cái đang tồn tại trên thực tế. khả
năng là phạm trù chỉ cái chưa xuất hiện, chưa tồn tại trên thực tế, nhưng sẽ
xuất hiện, sẽ tồn tại thực sự khi có các điều kiện tương ứng”[3,tr222]
Khả năng là để chỉ cái hiện chưa có chưa tới nhưng sẽ tới sẽ có khi có
các điều kiện thích hợp
Khả năng là “ cái hiện chưa có” nhưng bản thân khả năng với tư cách
là “ cái chưa có” đó lại tồn tại. tức là các sự vật được nói tới trong khả năng
chưa tồn tại, nhưng bản thân khả năng được đề xuất hiện sự vật đó thì tồn tại
Ví dụ: trước mắt ta có đủ gỗ, cưa, bào, đục, đinh… đó là hiện thực.
Từ đó nảy sinh khả năng xuất hiện một cái bàn. Trong trường hợp này sự vật
này là chưa có, chưa tồn tại trên thực tế nhưng khả năng xuất hiện cái bàn thì

tồn tại trên thực sự
Hiện thực là phạm trù triết hóc dùng để chỉ cái tồn tại thực sự, cái đã
tới đã có, hiện thực bao gồm :
Hiện thực khách quan ( hay là vật chất ) tất cả những gì đang tồn tại
độc lập với ý thức của con người.
Hiện thực chủ quan ( hiện tượng tinh thần) nó cũng tồn tại như tồn tại
trong óc của con người; ví dụ như ý thức, tu duy
Như vậy dấu hiệu căn bản để phân biệt khả năng với hiện thực ở chỗ:
khả năng là cái chưa có, còn hiện thực là cái hiện đang có, đang tồn tại
1.2 MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CẶP PHẠM TRÙ KHẢ
NĂNG VÀ HIỆN THỰC
Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau,
không tách rời nhau, thường xuyên chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình phát
triển của sự vật. điều đó có nghĩa là trong sự vật hiện tượng đang tồn tại
chứa đựng khả năng, sự vận động phát triển của sự vật chính là quá trình
biến khả năng thành hiện thực. Trong hiện thực mới đó lại nảy sinh khả năng
mới, khả năng mới này nếu có nhưng điều kiện lại biến thành hiện thực mới.
Quá trình đó được tiếp tục, làm cho sự vật vận động, phát triển một cách vô
tận trong thế giới vật chất
Quan hệ giữa khả năng và hiện thực có tính phức tạp. Điều đó thể
hiện ở chỗ cùng trong những điều kiện nhất định, ở cùng một sự vật có thể
tồn tại nhiều khả năng chứ không phải chỉ một khả năng
Ví dụ: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, sau
khin phân tích tình hình trong nước, tình hình thế giới và khu vực đã nhận
định rằng, đất nước ta hiện nay đang “ có cả cơ hội và thách thức lớn”,
những cơ hội lớn tạo điều kiện để chúng ta có khả năng “ tiếp tục phát huy
nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực- nguồn vốn, công nghệ mới,
kinh nghiệm quản lý và mở rộng thị trường, phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Những thách thức lơn đó là 4 nguy cơ mà Đảng ta đã từng
chỉ rõ như nguy cơ tụt hậu về kinh tế, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nạn

tham nhũng và quan lieu, “ diễn biến hòa binh” do thế lực thù địch gây ra
Như vậy chúng ta thấy hiện nay đang cùng tồn tại rất nhiều khả
năng( cả thuận lợi, lẫn khó khăn) phát triển đất nước ta. Điều đó đòi hỏi toàn
Đảng, toàn dân ta phải thừa nhận thức rõ để chủ động tranh thủ thời cơ vượt
qua thách thức đưa đất nước vững bước đi lên theo định hướng xã hội chủ
nghĩa
Ngoài những khả năng vốn sẵn có, trong điều kiện mới thì sự vật sẽ
xuất hiện thêm những khả năng mới, đồng thời bản thân mỗi khả năng cũng
thay đổi theo sự thay đổi của điều kiện
Ví dụ : nước ra vốn là nước kinh tế kém phát triển, mức sống của
nhân dân còn thấp, nhưng lại phải trải qua cuộc cạnh trang quốc tế ngày
càng quyết liệt để hội nhập. Nếu chúng ta không nhanh chóng vươn lên thì
khả năng càng tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và
trên thế giới và sự bất lợi về mở rộng sản xuất kinh doanh, trao đổi mua bán
càng lớn.
Trong đời sống xã hội, hoạt động có ý thức của con người có vai trò
hết sức to lớn trong việc biến khả năng thành hiện thực. Nó có thể đẩy nhanh
hoặc kìm hãm quá trình biến khả năng thành hiện thực, có thể điều khiền
khả năng phát triển theo chiều hướng nhất định bằng cách tạo ra những điều
kiện tương ứng. không thấy vai trò của nhân tố chủ quan của con người sẽ
rơi vào sai lầm hữu khuynh chịu bó tay, khuất phục trước hoàn cảnh. Tuy
nhiên cũng không được tuyệt đối hóa vai trò của nhân tố chủ quan mà xem
thường những điều kiejn khách quan. Như vậy chúng ta rễ rơi vào sai lầm
chủ quan, mạo hiểm duy ý chí
1.3 Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN
Vì hiện thực là cái tồn tại thực sự, còn khả năng là cái hiện chưa có,
nên trong hoạt động thực tiễn cần dựa vào hiện thực, không được dựa vào
khả năng để sinh ra chủ trương, phương hướng hành động của mình
V.I Lê-nin cho rằng: “ chủ nghĩa Mác căn cứ vào những sự thật chứ
không phải dựa vào những khả năng. Người macxit chỉ có thể sử dụng, để

làm căn cứ cho chính sách của mình, những sự thật được chứng minh rõ rệt
và không thể chối cãi được”[4,tr226]
Khả năng là cái chưa tồn tại thật sự nhưng nó cũng biểu hiện khuynh
hướng phát triển của sự vật trong tương lai. Do đó, tuy không dựa vào khả
năng nhưng chúng ta cũng phải tính đến các khả năng để việc đề ra chủ
trương, kế hoạch hành động sát hợp hơn
Trong xã hội, chúng ta phải chú ý đế việc phát huy nguồn lực con
người, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc phát huy tính năng động
sáng tạo của mỗi con người để biến khả năng thành hiện thực thúc đẩy xã
hội phát triển. Tuy nhiên cũng cần tránh hai thái cực sai lầm, một là : tuyệt
đối hóa vai trò nhân tố chủ quan; hai là: hạ thấp vai trò nhân tố chủ quan
trong việc biến khả năng thành hiện thực
CHƯƠNG 2: KHẢ NĂNG VÀ HIỆN TRẠNG TRONG
VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1 KHẢ NĂNG VÀ HIỆN TRẠNG VIỆC PHÁT TRIỂN
KINH TẾ BIỂN TRONG NÔNG NGHIỆP
2.1.1 Trong đánh bắt
2.1.1.1 khả năng
Diện tích mặt biển nước ta rộng tới hơn 1 triệu km2 chính vì vậy
nguồn lợi đánh bắt hải sản nước ta được đánh giá vào loại phong phú trong
khu vực. “Ngoài cá biển là nguồn lợi chính còn nhiều loại đặc sản khác có
giá trị kinh tế cao như tôm, cua, mực, hải sâm, rong biển… Riêng cá biển
đã phát hiện hơn 2.000 loài khác nhau, trong đó trên 100 loài có giá trị kinh
tế cao với tổng trữ lượng hải sản khoảng 3- 4 triệu tấn, khả năng cho phép
khai thác 1,5- 1,8 triệu tấn/năm”[5,tr30]. Đến nay đã xác định 15 bãi cá lớn
quan trọng, trong đó 12 bãi cá phân bố ở vùng ven bờ và 3 bãi cá ở các gò
nổi ngoài khơi
Cùng với đó là nguồn nhân lực nước ta dồi dào, đặc biệt là vùng biển
nước ta, đa số là những người ở độ tuổi đang lao động, cộng với kinh
nghiệm đi biển lâu đời. Với tiềm năng như vậy đánh bắt thủy hải sản thực

sự có thể đem lại nguồn lợi vô cùng quan trọng cho đất nước
2.1.1.2 hiện trạng
Đánh bắt hải sản là nghề biển truyền thống có thế mạnh của nước ta,
là lực lượng nòng cốt trong việc thực hiện ba mục tiêu chiến lược phát triển
ngành thủy sản Việt Nam, đó là: khai thác tiềm năng nguồn lợi hải sản tạo
sản phẩm cung cấp cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu; tạo công ăn
việc làm, thu nhập, cải thiện đời sống ngư dân các tỉnh ven biển; đảm bảo
sự hiện diện, bảo vệ chủ quyền quốc gia trên các vùng biển. Từ năm 1993,
sau khi thuỷ sản được coi là ngành kinh tế mũi nhọn, nghề đánh bắt thuỷ
sản đã có những bước phát triển đáng kể. Trong giai đoạn 1995-2005, sản
lượng thuỷ sản tăng bình quân 7,7%/năm, sản lượng khai thác tăng bình
quân 5%/năm, tính riêng trong năm 2011 giá trị sản lượng đánh bắt thủy
hải sản của nước ta đạt khoảng 2,4 triệu tấn so với năm năm 1990 chỉ đạt
728 nghìn tấn hiện nay nước ta đã hình thành 4 ngư trường lớn trọng điểm
đã được xác định đó là : “ngư trường Cà Mau – Kiên Giang, ngư trường
Ninh Thuận – Bình Thuận – Bà Rịa – Vũng Tàu, ngư trường Hải Phòng –
Quảng Ninh, ngư trường Hoàng Sa – Trường Sa”[6,tr100], sản lượng thủy
hải sản đánh bắt được hàng năm ngoài đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước
còn là nguyên liệu quan trọng trong ngành công nghiệp chế biến và xuất
khẩu sang nước ngoài. Đánh bắt hải sản đã tạo việc làm cho hơn 5 vạn lao
động đánh cá trực tiếp và 10 vạn lao động dịch vụ nghề cá. Số lượng tàu
thuyền cũng tăng đều đặn qua các năm, theo thống kê trong khoảng 15 năm
(1990 - 2005), tàu cá Việt Nam tăng 4,7 lần về số lượng (95.000 chiếc năm
2005 so với 41.000 chiếc năm 1990) và 5,7 lần về công suất, bình quân
công suất đã vượt quá 60 CV/tàu (so với công suất bình quân 18 CV/tàu
năm 1991 và 44 CV/tàu năm 2000). Tuy nhiên, nghề khai thác hải sản của
Việt Nam đang đứng trước không ít khó khăn và bất cập.
Sự dễ dãi tiếp cận khai thác nguồn lợi hải sản, những bất cập trong
quản lý, kiểm soát khai thác và những hạn chế về tài chính, đội tàu cá Việt
Nam được đầu tư phát triển theo phong trào, thiếu quy hoạch, tập trung

tăng về công suất máy đẩy và tăng về số lượng dẫn đến, sau gần vài thập
kỷ tập trung khai thác, nguồn lợi hải sản đã có những biến động đáng kể về
mật độ sản lượng, chủng loài, kích thước… đặc biệt vùng biển ven bờ, tập
trung trên 80% tổng số phương tiện nghề cá, sản lượng khai thác hằng năm
chiếm từ 70 -80% tổng sản lượng hải sản của cả nước. Ba ngư trường trọng
điểm là Hải Phòng-Quảng Ninh, Ninh Thuận-Bình Thuận và Cà Mau-Kiên
Giang, những khu vực tập trung trên 50% tổng số phương tiện nghề cá
tham gia đánh bắt hàng năm, qua kết quả khảo sát, mật độ sản lượng đều
giảm. Cùng với những thay đổi về sản lượng, chủng loài hải sản cũng biến
động đáng kể về mật độ, kích cỡ và ngày càng có nhiều loài trở thành quý
hiếm, có nguy cơ tuyệt chủng. Sự thay đổi trên là nguyên nhân giảm năng
suất, sản lượng khai thác của nhiều nhóm nghề (khai thác cá nổi nhỏ ven
bờ, cá đáy, câu cá rạn…), đồng thời tăng thời gian khai thác thực tế trên
biển, thời gian tìm kiếm ngư trường, chi phí, giá thành sản phẩm… Thống
kê gần đây cho thấy dấu hiệu dư thừa cục bộ phương tiện đánh bắt hải sản
đã xuất hiện, công suất huy động tàu tham gia đánh bắt giảm dần, có tàu
chỉ huy động khoảng 50% thời gian hoạt dộng (khai thác cá nổi, tôm
biển…)
Nghề cá biển thuộc nhóm nghề vất vả, tai nạn luôn rình rập, đặc biệt
đối với những quốc gia nằm trong khu vực thường chịu tác động của các
hiện tượng thời tiết bất thường như Việt Nam. Môi trường hoạt động khai
thác hải sản rất khắc nghiệt, song đội tàu cá lại chưa được đầu tư tương
thích. Trong khoảng 95.000 phương tiện nghề cá hiện nay, loại dưới 50 CV
và thuyền thủ công có khoảng 64.500 chiếc, chiếm 68%, số tàu cá lắp máy
từ 90 CV trở lên có khoảng 13.600 chiếc, chiếm khoảng 14,3%. Cơ cấu đội
tàu cá Việt Nam hiện nay, xét về sự tương thích với ngư trường, với nguồn
lợi hải sản cho thấy không có sự bất cập lớn, song chất lượng kém của vỏ,
máy, các thiết bị an toàn hàng hải đã hạn chế thời gian hoạt động hữu ích
trong năm. Từ năm 1997, thực hiện Chương trình đánh bắt cá xa bờ, Nhà
nước đã đầu tư 1.300 tỷ đồng đóng 1.292 chiếc tàu đánh bắt xa bờ, tuy

nhiên cho đến nay Chương trình này bị đánh giá là không hiệu quả.
Ngoài ra, chất lượng đội tàu, lao động trên tàu còn nhiều bất cập nên
số vụ tai nạn tàu cá trên biển có xu hướng ngày càng tăng. Thống kê chưa
đầy đủ, trong vòng 15 năm gần đây, mỗi năm trên các vùng biển xảy ra
khoảng 500 vụ tai nạn tàu cá, gây thiệt hại đáng kể về người và tài sản, chỉ
riêng ba tháng cuối năm 2006 và hai tháng đầu năm 2007 có gần 400 vụ,
trong đó hơn 50% vụ tàu bị hỏng máy, vỏ bị phá nước. Bên cạnh đó, tàu cá
bị các nước trong khu vực bắt, bị cướp biển trong những năm gần đây là
vấn đề phức tạp, không chỉ ảnh hưởng đến mối quan hệ láng giềng giữa
Việt Nam và các quốc gia vùng biển giáp ranh, mà tác động trực tiếp đến
tâm lý ngư dân tham gia đánh bắt hải sản. Theo thống kê chưa đầy đủ, từ
1999 đến 2002 cả nước đã có 274 tàu thuyền bị các nước lân cận bắt.
Những vất vả vốn có của nghề đánh bắt hải sản và những thay đổi, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế chung của đất nước đã tác động không nhỏ đến nghề
đánh bắt hải sản, đòi hỏi nghề này sớm được cải thiện để phát triển bền
vững.
2.1.2 Trong nuôi trông
2.1.2.1 khả năng
Với diện tích mặt biển rộng tới hơn 1 triệu km2 và với 3260km bờ
biển thì nước ta hoàn toàn có thể phát triển nuôi trồng thủy hải sản thêm
nữa là vùng biển nước ta năm trong vùng khí hậu nhiệt đới cho nên biển
nước ta còn có hệ sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh thái cỏ biển, hệ sinh
thái rạn san hô, hệ sinh thái đảo, hệ sinh thái bờ đá… trong các dạng hệ
sinh thái này, tính đa dạng sinh học rất cao, tiềm năng nuôi trồng thủy hải
sản nước lợ, nước mặn trong các vùng cửa sông, đầm phá, vũng vịnh là rất
lớn trong đó tiềm năng diện tích nuôi trồng thủy hải sản nước ta ước tính
đạt 2 triệu km2 và dọc ven biển có trên 37 vạn héc ta mặt nước các loại có
khả năng nuôi trồng thuỷ sản nước mặn - lợ, nhất là nuôi các loại đặc sản
xuất khẩu như tôm, cua, rong câu… Riêng diện tích nuôi tôm nước lợ có
tới 30 vạn ha. Ngoài ra còn hơn 50 vạn ha các eo vịnh nông và đầm phá

ven bờ như Vịnh Hạ Long, Bái Tử Long, Phá Tam Giang, Vịnh Văn
Phong… là môi trường rất thuận lợi để phát triển nuôi cá và đặc sản biển.
Với tiềm năng trên, trong tương lai có thể phát triển mạnh ngành nuôi,
trồng hải sản ở biển và ven biển một cách toàn diện và hiện đại với sản
lượng hàng chục vạn tấn/ năm.
2.1.2.2 hiện trạng
Bên cạnh đánh bắt hải sản, nuôi trồng hải sản cũng đem lại nhiều
giá trị cao về kinh tế, tính tổng giá trị nuôi trồng thủy hải sản nước ta năm
1990 chỉ đạt 162 nghìn tấn ,thì đến năm 2005 tổng sản lượng giá trị đạt
1478 nghìn tấn, và ước tính tổng sản lượng nuôi trồng thủy hải sản nước ta
năm 2011 đạt tới 2,5 triệu tấn. Cùng với đó giống loài thủy sản nuôi phong
phú, đối tượng nuôi chủ yếu là tôm hùm, cá song, cá giò, cá cam, cá hồng,
cá đù đỏ, cua, ghẹ, hải sâm, bào ngư, nuôi trai lấy ngọc, nuôi ngao, nghêu,
hầu, trồng rong sụn, nuôi sứa đỏ và san hô
Trước tình trạng nguồn lợi hải sản đang suy kiệt, ngư dân đã chuyển
từ khai thác sang nuôi trồng thủy sản ở biển với nhiều hình thức đa dạng.
Nhà nước đã ban hành các chính sách khuyến khích và tạo điều kiện thuận
lợi cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế trong
nước và nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực nuôi trồng hải sản trên biển và hải
đảo. Nhà nước phân cấp cho ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương giao, cho thuê đất và mặt nước biển cho tổ chức, cá nhân,
hộ gia đình có nhu cầu sử dụng mặt nước biển, đất trên đảo để nuôi trồng
hải sản, tạo điều kiện để nhà đầu tư tự quản lý đất mặt nước, yên tâm đầu
tư phát triển sản xuất. Nhà nước đã đầu tư và hỗ trợ đầu tư cho quy hoạch
nuôi hải sản trên biển, hải đảo; cho nhập khẩu giống gốc một số loài đặc
sản sạch bệnh có giá trị kinh tế cao, quý hiếm và kỹ thuật sản xuất giống
nhân tạo đòi hỏi công nghệ sản xuất cao và nuôi thương phẩm hải sản trên
biển và hải đảo; đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật; ưu tiên bố trí
kinh phí cho công tác khuyến ngư nuôi hải sản; hỗ trợ các dự án xây dựng
cơ sở hạ tầng thiết yếu của các vùng nuôi hải sản biển. Ngân hàng chính

sách, các tổ chức tín dụng đã đáp ứng kịp thời nhu cầu vay vốn của các tổ
chức, cá nhân, hộ gia đình có đủ điều kiện vay vốn nuôi trồng hải sản trên
biển và hải đảo. Các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có nhiều biện
pháp hỗ trợ lãi suất vốn vay, ưu tiên bố trí nguồn vốn cho vay của Quỹ
quốc gia về việc làm cho các dự án nuôi trồng hải sản khả thi.
Kết quả là, trong những năm qua, nuôi trồng hải sản đã phát triển khá
mạnh ở nhiều địa phương trên cả nước. “Thí dụ, chỉ tính riêng hình thức
nuôi lồng bè, trong giai đoạn 2006-2010, tổng số lồng bè nuôi hải sản trên
biển đã tăng lên hơn 1,6 lần. Năm 2006, tổng số lồng bè nuôi trên biển là
23.989 chiếc, trong đó số lồng nuôi tôm hùm là 19.912 chiếc, nuôi cá biển
là 4.077 chiếc. Năm 2010 tổng số lồng bè nuôi tôm, cá trên biển đã tăng
đến 38.965 lồng, trong đó số lồng nuôi tôm hùm là 30.115 lồng, nuôi cá là
8.850 lồng. Sản lượng nuôi lồng bè nước mặn năm 2006 chỉ đạt 5.635 tấn,
năm 2004 đạt hơn 16.000 tấn”[7,tr128]. Thủy sản nuôi trên biển có chất
lượng và giá trị hàng hóa cao, có thị trường tiêu thụ rộng mở, được khách
hàng thế giới ưa thích. Vì vậy, hải sản nuôi trên biển có đóng góp quan
trọng cho xuất khẩu của nước ta. Bên cạnh nuôi trồng hải sản tiêu thụ trong
nước và xuất khẩu, nước ta cũng đã sản xuất được giống một số loài như cá
giò, cá song chấm nâu, cá sú chấm (cá Hồng Mỹ), cá vược, bào ngư, ốc
hương, cua và chuyển giao công nghệ sản xuất giống và nuôi thương
phẩm cho nhiều địa phương phát triển sản xuất.
Việc phát triển nuôi trồng hải sản trên biển và hải đảo giúp các tổ
chức, giúp người dân có cơ hội đầu tư phát triển, góp phần điều chỉnh
nghề khai thác ven bờ bằng phương tiện thủ công sang nuôi trồng thủy sản
biển (nhất là người dân ở các xã nghèo vùng bãi ngang ven biển, hải đảo),
bảo vệ và phát triển được nguồn lợi thủy sản. Nuôi trồng thủy sản biển còn
giúp người dân có điều kiện tăng thu nhập, xóa đói, giảm nghèo, thay đổi
cơ cấu kinh tế; góp phần bảo vệ an ninh vùng biển và hải đảo. Ngành thủy
sản dự kiến đến năm 2010 nuôi cá biển ở nước ta ước đạt khoảng 200.000
tấn, nuôi nhuyễn thể đạt 380.000 tấn, rong biển đạt 50.000 tấn khô, đuổi

kịp và vượt các nước tiên tiến trong khu vực và vùng lãnh thổ về trình độ
nuôi hải sản trên biển.
Tuy nhiên, nuôi trồng hải sản nước ta hiện nay mới tập trung vào một
số doanh nghiệp, xí nghiệp liên doanh và các hộ có vốn lớn, sản xuất mang
tính tự phát ở một số vùng ven biển; còn đại bộ phận người dân ven biển
chưa có sự hiểu biết và điều kiện tham gia nuôi trồng hải sản trên biển.
Việc sử dụng diện tích mặt nước biển để nuôi hải sản chưa đáng kể, việc
giao, cho thuê mặt nước biển còn nhiều bất cập, sản lượng nuôi chưa
nhiều, giống loài thủy sản tham gia sản xuất còn ít, giá trị kim ngạch xuất
khẩu so với tiềm năng hiện có còn thấp. Chính sách khuyến khích đầu tư,
phát triển công nghệ và xây dựng cơ sở hạ tầng hầu như chưa có gì đáng kể
để phục vụ yêu cầu sản xuất, đã làm hạn chế phát triển nuôi trồng thủy sản
trên biển và hải đảo.
2.1.3 Trong sản xuất muối
2.1.3.1 khả năng
Với đường bờ biển dài 3260km trong đó có 29 tỉnh thành phố giáp
biển, không những vậy vùng biển nước ta mà đặc biệt là biển miền trung
thường có độ mặn cao, bên cạnh đó nguồn lực tham gia vào sản xuất muối
vô cùng lớn, với điều kiện này nước ta hoàn toàn có thể phát triển ngành
muối và đem lại những giá trị to lớn về kinh tế
2.1.3.2 hiện trạng
Nghề làm muối là một nghề có truyền thống lâu đời của Việt Nam,
gắn chặt với biển và phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, thời tiết.
Trong những năm qua, mặc dù điều kiện thời tiết không thuận, song nhờ
những bước tiến mới trong công tác quy hoạch, đầu tư sản xuất muối, đặc
biệt là muối công nghiệp, cho nên nghề muối Việt Nam đã phần nào giảm
bớt những khó khăn. Cả nước hiện nay có 20 tỉnh thành có nghề sản xuất
muối biển với tổng diện tích hơn 12 nghìn ha và sản lượng bình quân đạt từ
800 nghìn tấn đến 1,2 triệu tấn muối/năm, tạo việc làm cho hơn 90 nghìn
lao động. Hiện nay, ngành muối Việt Nam đang tích cực triển khai các dự

án xây dựng đồng muối công nghiệp, đổi mới công nghệ sản xuất muối,
nhất là công nghệ sản xuất muối sạch, nhằm thực hiện được mục tiêu đến
năm 2010 đạt 1,5 triệu tấn muối và đến năm 2020 đạt 2 triệu tấn, trong đó
các đồng muối công nghiệp đảm bảo 53 – 67% tổng sản lượng muối tiêu
thụ. Hoạt động đầu tư về vốn, công nghệ sản xuất trên đồng muối có nhiều
chuyển biến tích cực theo hướng xã hội hoá. Ngoài nguồn vốn xây dựng cơ
bản của ngành nông nghiệp dành để đầu tư một số dự án về muối, ngành
muối đang tập trung tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào các dự án sản xuất, chế biến,
tiêu thụ muối công nghiệp. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang
đẩy mạnh cổ phần hoá toàn bộ các doanh nghiệp nhà nước trong ngành
muối; xây dựng chính sách đầu tư cho vùng muối để đảm bảo đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng muối của nhân dân, ngành Công nghiệp và các ngành khác.
Tuy nhiên, hiện nay ngành muối chưa hội tụ đủ các yếu tố để phát
triển ổn định và bền vững vì nhiều nguyên nhân: diện tích quy hoạch các
vùng sản xuất muối luôn bị thay đổi; một số địa phương vùng biển lại
không mặn mà với nghề muối, đời sống của diêm dân nhiều vùng bấp
bênh, vì diện tích đất dành cho sản xuất muối lớn, nhưng nguồn thu cho
ngân sách lại không nhiều, nên lãnh đạo địa phương chưa quan tâm đầy đủ
đến việc chỉ đạo và tạo nguồn vốn đầu tư phát triển ngành này cũng như hỗ
trợ cho diêm dân; nhiều sức ép cạnh tranh, nhất là về chất lượng và giá cả,
sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới. Hiện tại, phần
lớn diện tích, sản lượng, lao động đang duy trì phương pháp sản xuất muối
truyền thống đã có từ hàng trăm năm nay với phương tiện lạc hậu, thao tác
thủ công, quy mô nhỏ, phân tán, cho nên năng suất và chất lượng sản phẩm
thấp. Nhiều chủ trương, chính sách của Nhà nước đối với ngành muối
trong thời gian qua hiệu lực thấp, bất cập và thiếu đồng bộ, như chính sách
mua muối theo giá sàn, chính sách cho dân vay vào thời điểm giáp vụ để
mua sắm vật tư, chuẩn bị sản xuất, củng cố quan hệ sản xuất qua chủ
trương xây dựng các mô hình hợp tác xã muối kiểu mới, đầu tư chiều sâu

nâng cấp cơ sở hạ tầng sản xuất để tăng năng suất, sản lượng , tất cả đều
chưa tạo ra được sự chuyển biến rõ ràng và tích cực. Sự vào cuộc của nhà
nước còn chậm nhiều nơi chính quyền địa phương lo đầu ra cho sản phẩm
muối phần nhiều còn mang tính hình thức. Chẳng hạn, việc giao cho
UBND các địa phương công bố giá sàn mua muối cho diêm dân ngay từ
đầu vụ sản xuất là không khả thi vì UBND không đủ thông tin và căn cứ để
đưa ra giá sàn hợp lý có tương quan với giá muối các địa phương bạn trên
cùng khu vực và cả nước
2.2 KHẢ NĂNG VÀ HIỆN TRẠNG VIỆC PHÁT TRIỂN
KINH TẾ BIỂN TRONG CÔNG NGHIỆP
2.2.1 tiềm năng và hiện trạng khai thác dầu khí nước ta
2.2.1.1Tiềm năng
Dầu khí là một nguồn tài nguyên quan trọng mà bất ky một quốc gia
nào muốn sở hữu, bởi dầu khí là một tài nguyên năng lượng quan trọng để
duy trì hoạt động sản xuất của mỗi quốc gia, trong đó chỉ tính riêng dầu mỏ
là nguyên liệu trực tiếp hay gián tiếp cho sự hoạt động của hơn 50 ngành
công nghiệp khác nhau, và khí đốt cũng là nhiên liệu quan trọng để sản
tham gia vào quá trình sản xuất công nghiệp, cũng là năng lượng quan
trọng để phục vụ đời sống của nhân dân cho nên dầu khí là tài nguyên đặc
biệt quan trọng của nước ta và dầu khí là một trong những nguồn tài
nguyên quan trọng nhất trên vùng biển và thềm lục địa Việt Nam
Qua tìm kiếm thăm dò cho đến nay, các tính toán dự báo đã khẳng
định tiềm năng dầu khí Việt Nam tập trung chủ yếu ở thềm lục địa, trữ
lượng khí thiên nhiên có khả năng nhiều hơn dầu. Với trữ lượng đã được
thẩm định, nước ta có khả năng tự đáp ứng được nhu cầu về sản lượng dầu
khí trong những thập kỷ đầu tiên của thiên niên kỷ thứ 3. “Tổng tiềm năng
dầu khí tại các bể trầm tích: Sông Hồng, Phú Khánh, Nam Côn Sơn, Cửu
Long, Ma lay - Thổ Chu, Vùng Tư Chính - Vũng Mây đã được xác định
tiềm năng và trữ lượng đến thời điểm này là từ 0,9 đến 1,2 tỷ m3 dầu và từ
2.100 đến 2.800 tỷ m3 khí. Trữ lượng đã được xác minh là gần 550 triệu

tấn dầu và trên 610 tỷ m3 khí”[8,tr232]. Trữ lượng khí đã được thẩm
lượng, đang được khai thác và sẵn sàng để phát triển trong thời gian tới
vào khoảng 400 tỷ m3. Với các biện pháp đồng bộ, đẩy mạnh công tác tìm
kiếm - thăm dò, năm 2010 khoảng từ 40 đến 60% trữ lượng nguồn khí
thiên nhiên của nước ta đã được phát hiện.
2.2.1.2 thực trạng khai thác dầu khí nước ta hiện nay
Ngành dầu khí Việt Nam đã trải qua quá trình phát triển đầy ý nghĩa
kể từ khi dòng dầu đầu tiên được khai thác ở mỏ dầu Bạch Hổ vào năm
1986. Trước đó nền kinh tế Việt Nam lệ thuộc nặng nề vào các sản phẩm
dầu mỏ nhập khẩu từ Liên bang Xô Viết. Hiện nay, Việt Nam đứng thứ ba
về sản lượng dầu mỏ trong các quốc gia Đông Nam Á, chỉ sau Inđônêsia và
Malaysia. Nếu tốc độ phát triển hiện tại tiếp tục được duy trì, Việt Nam sẽ
trở thành quốc gia sản xuất dầu mỏ lớn thứ 30 trên thế giới.tính đến năm
2011 nước ta đã khai thác được 15 triệu thùng dầu thô, cùng với 8,5 tỷ tấn
khí đốt, giá trị chiếm 20% GDP của cả nước.Hiện nay, ngành Dầu khí nước
ta đang khai thác dầu khí chủ yếu tại 6 khu mỏ bao gồm: Bạch Hổ, Rồng,
Đại Hùng, Hồng Ngọc, Rạng Đông, Bunga Kekwa - Cái Nước và chuẩn bị
chính thức đưa vào khai thác mỏ khí Lan Tây - lô 06.l. Công tác phát triển
các mỏ Rạng Đông, Ruby và Emeral, Lan Tây - Lan Đỏ, Sư Tử Đen, Sư Tử
Vàng, Hải Thạch, Rồng Đôi, Kim Long, Ác Quỷ, Cá Voi đang được triển
khai tích cực theo chương trình đã đề ra, đảm bảo duy trì và tăng sản lượng
khai thác dầu khí cho những năm tới Sản xuất và tiêu thụ khí đốt tự nhiên
của Việt Nam đang tăng lên và dự kiến còn tăng thêm nữa khi có thêm các
mỏ được đưa vào khai thác.
Tuy nhiên, dầu và khí đốt nằm khá sâu 3.000 – 4.000 m dưới lòng đất
nên việc tìm kiếm và khai thác dầu khí là việc rất khó khăn, cần nhiều vốn,
kinh nghiệm và trình độ kỹ thuật cao. Cũng giống như nhiều nước đang phát
triển khác, Việt Nam có các chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài
trong lĩnh vực này. Hiện có 25 công ty dầu khí nước ngoài từ 13 quốc gia
đang hoạt động tại Việt Nam, trong khuôn khổ 27 dự án khác nhau. Các

công ty dầu khí nước ngoài đã đầu tư hơn 7 tỷ USD vào Việt Nam. Có nhiều
đối tác nước ngoài đã làm việc với Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petro
Vietnam) trong nhiều thập kỷ. Trong số đó, có liên doanh Vietsopetro giữa
Petro Vietnam với công ty Zarubezhneft của Nga, hiện đang hoạt động tại
các mỏ Bạch Hổ ở ngoài khơi phía Nam. Những công ty dầu khí thượng
nguồn nước ngoài hàng đầu khác ở Việt Nam bao gồm Conoco Phillips, BP,
Petronas, Chevron, Tập đoàn Dầu lửa Quốc gia Hàn Quốc, và Talisman
Energy. Những công ty này hoạt động với tư cách là nhà thầu cho Petro
Vietnam và chia sản lượng dầu khai thác được theo thỏa thuận.
Về chế biến dầu khí, Hiện nay, Việt Nam đã xây dựng Nhà máy lọc
dầu Dung Quất (tỉnh Quảng Ngãi) với số vốn đầu tư 2,5 tỷ USD và công
suất 50 triệu thùng/năm, và đang tiến hành xây dựng một số dự án khác
như: dự án Polypropylen, nhà máy lọc dầu Nghi Sơn, nhà máy đạm Cà Mau,
tổ hợp hóa dầu phía Nam. Tuy nhiên, nhìn chung phần lớn các dự án này
đều đang bị chậm tiến độ. Đến nay, Việt Nam mới chỉ có Nhà máy Đạm Phú
Mỹ hoàn thành và đang hoạt động bình thường với công suất tối đa 740.000
tấn/năm.
2.2.3 tiềm năng và thực trạng các tài nguyên phục vụ cho
công nghiệp khác
2.2.3.1 tiềm năng
Ngoài tài nguyên dầu khí là tài nguyên quan trọng trên biển thì trên
biển nước ta còn nhiều tài nguyên khoáng sản khác Các loại sa khoáng ven
bờ như ilmenit với trữ lượng dự đoán khoảng 13 triệu tấn; cát thủy tinh, trữ
lượng ước tính hàng trăm tỷ tấn. Ngoài ra, còn một khối lượng lớn vật liệu
xây dựng khổng lồ có thể được khai thác từ đáy biển (cát sạn sỏi cho xây
dựng hoặc san lấp) để thay thế cho nguồn này trên lục địa đang bị cạn kiệt
dần. Ngoài ra còn có cát thủy tinh ở Vân Hải (Quảng Ninh), Ba Đồn
(Quảng Bình), Cam Ranh (Khánh Hòa), v.v với trữ lượng nhiều tỷ tấn.
Trên sườn lục địa - chân lục địa và đáy biển sâu còn có tiểm năng các kết
hạch sắt - mangan, bùn đa kim rất đáng kể mà đến nay chưa thể xác định

được trữ lượng. Một loại khoáng sản khác rất có triển vọng trong trầm tích
đáy biển Việt Nam được các nhà địa chất mới phát hiện trong thời gian gần
đây là khí cháy (Hydrat methan)
2.2.3.2 hiện trạng
Tài nguyên biển nước ta nói chung và tài nguyên khoáng sản biển
nước ta nói riêng vô cùng đa dạng và phong phú, với những tài nguyên
khoáng sản biển sẵn có thì đây là một nguồn lực quan trọng thúc đẩy nền
công nghiệp đất nước, tuy vậy hầu hết tài nguyên khoáng sản biển đều ở
dạng tiềm năng, hầu như là chưa khai thác, bởi lẽ các tài nguyên khoáng
sản biển nước ta mới phát hiện và vẫn ở dạng tiềm năng, chưa khảo sát hết
toàn bộ giá trị, thêm nữa với trình độ khoa học kỹ thuật còn kém, và các tài
nguyên này thường năm sâu dưới đáy biển, cho nên việc khai thác còn
nhiều trở ngại, vì vậy đây vẫn là một tiềm năng vô cùng lớn cho nước ta
đầu tư phát triển ngành khai khoáng biển trong giai đoạn mới
2.3 KHẢ NĂNG VÀ HIỆN TRẠNG VIỆC PHÁT TRIỂN
KINH TẾ BIỂN VỀ DU LỊCH BIỂN
2.3.1 tiềm năng phát triển du lịch biển nước ta
Tài nguyên du lịch biển cũng là một ưu thế đặc biệt, mở ra triển
vọng khai thác tổng hợp để phát triển mạnh, với đường bờ biển dài
3260km với một hệ thống các đảo và quần đảo trải dài từ bắc trí Nam,
thêm với đó vùng biển nước ta năm trong vùng biển khí hậu nhiệt đới,
nước biển ấm, tài nguyên sinh vật biển đa dạng với hàng nghìn loài động
thực vật biển tạo nên muôn hình muôn vẻ cho biển, thêm với đó địa hình
bờ biển của nước ta rất đa dạng và độc đáo do được phát triển trên các loại
đất đá khác nhau trong điều kiện khí hậu có sự phân hóa rõ rệt theo chiều
bắc - nam. Trên bờ biển của nước ta lại có nhiều mũi đá nhô ra sát biển tạo
nên các hoành sơn thiên nhiên tráng lệ, như Đèo Ngang, đèo Hải Vân, Đèo
Cả. Đó là địa hình karst phát triển trên đá vôi ở vịnh Hạ Long và Bái Tử
Long ở Hòn Đỏ (Ninh Thuận), địa hình “karst giả” phát triển trên cát đỏ
ở khu vực Suối Tiên - Mũi Né (Bình Thuận), “karst giả” phát triển trên đá

granit ở khu vực mũi Kê Gà và một số nơi khác của tỉnh khác ở Trung Bộ.
Các vách đá hùng vĩ ở mũi Đá Vách, mũi Đại Lãnh, đèo Hải Vân, phát
triển trên đá bazan ở Phú Yên. Có nhiều bãi tắm đẹp với cát mịn và sạch
rải rác từ Trà Cổ (Móng Cái, Quảng Ninh) đến Bãi Nai (Hà Tiên, Kiên
Giang) và nhiều bãi tắm còn rất hoang sơ trên các đảo (Ngọc Vừng, Quan
Lạn ở Quảng Ninh; Hòn La ở Quảng Bình, Côn Đảo, Phú Quốc, v.v.).
Đường bờ biển của nước ta lại rất khúc khuỷu. lại được các đảo che chắn
(vịnh Hạ Long và Bái Tử Long), có nhiều vũng vịnh (Vũng Áng, vịnh Đà
Nẵng, An Hòa, Dung Quất, Quy Nhơn, Xuân Đài, Vũng Rô, Vân Phong,
v.v.) và nhiều cửa sông lớn đổ trực tiếp vào Biển Đông, với nhưng tiềm
năng sẵn có nước ta hoàn toàn có thể phát triển du lịch biển lên một tầm
cao mới trên thế giới
2.3.2 hiện trạng ngành du lịch biển nước ta
Du lịch và giải trí biển là một lĩnh vực hoạt động kinh tế không mới ở
nước ta. Tuy nhiên, trong khoảng 10 năm trở lại đây, đặc biệt từ năm 2000,
du lịch và nghỉ dưỡng cũng như giải trí biển đã được mở rộng đáng kể. Hiện
nay, nước ta có nhiều trung tâm du lịch biển quan trọng có vị trí địa lý thuận
lợi, nằm trên tuyến du lịch quốc tế Đông Nam Á, như: Vũng Tàu, Phan
Thiết, Nha Trang, Đà Nẵng, Huế, Hải Phòng, Quảng Ninh Một số loại
hình du lịch biển mới cùng đã được dưa vào nước ta như lướt ván, thuyền
buồm, v.v. Song, tắm biển vẫn là hình thức phổ biến nhất, bởi vì dọc theo
chiều dài bờ biển nước ta ở đâu cũng có bãi cát từ bãi Trà Cổ (Móng Cái,
Quảng Ninh) đến Bãi Nai (Hà Tiên, Kiên Giang). Doanh thu từ du lịch và số
lượt khách du lịch người nước ngoài (du lịch nói chung) cũng tăng theo thời
gian. “ Doanh thu từ du lịch nói chung trong giai đoạn 2000 - 2006 tăng lên
gần 5 lần: năm 2000 là 3.458,5 tỷ đồng, năm 2006 là 16.732,0 tỷ đồng. Còn
số lượt khách nước ngoài đã vượt con số 2 triệu kể từ năm 2005. Vùng biển
và ven biển của Việt Nam tập trung tới ba phần tư khu du lịch tổng hợp và
10/17 khu du lịch chuyên đề của cả nước’’[9,tr332]. Hàng năm, vùng biển
thu hút 73% số lượt khách du lịch quốc tế, với tốc độ tăng trưởng bình quân

khoảng 12,6%/ năm, và thu hút hơn 50% số lượt khách du lịch nội địa, với
tốc độ tăng trưởng bình quân 16%/năm. Có thể nói những tuyến điểm du
lịch biển Vũng Tàu, Nha Trang, Phú Quốc, Phan Thiết, Hạ Long không
thua kém hoặc có thể nói vượt trội về độ hấp dẫn so với những tuyến điểm
biển nổi tiếng ở Đông Nam Á như Pattaya, Phuket, Ko-Samui (Thái Lan),
Bali (Inđônêsia) Thời gian gần đây, nhiều địa phương có lợi thế biển đã và
đang chọn mô hình phát triển du lịch làm ngành kinh tế mũi nhọn, tăng
nguồn thu, giải quyết công ăn việc làm, là động lực thúc đẩy sự phát triển
các ngành kinh tế đầu tư, thương mại, văn hóa, xã hội. Hệ thống cơ sở lưu
trú vùng ven biển không ngừng tăng lên, đặc biệt số lượng những cơ sở lưu
trú từ 3 sao trở lên phần lớn tập trung ở các địa phương ven biển. Theo
thống kê, vùng ven biển có gần 1.400 cơ sở lưu trú với trên 45.000 buồng.
Đội ngũ lao động du lịch vùng ven biển hiện chiếm khoảng 65% tổng số lao
động trực tiếp làm du lịch của cả nước, tập trung nhiều nhất ở Thành phố Hồ
Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu (trên 60%); Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng
(8,5%); Hải Phòng - Quảng Ninh (8,1%). Bên cạnh đó, sự phát triển của du
lịch biển còn tạo việc làm gián tiếp cho 60 vạn lao động là các dân cư ven
biển.
Nhiều nhà đầu tư du lịch lớn quốc tế đã và đang chọn Việt Nam làm
địa điểm đầu tư. Sản phẩm du lịch bắt đầu đa sắc, không chỉ còn gói gọn loại
hình nghỉ dưỡng mà mở rộng sang du lịch kết hợp tìm hiểu văn hóa lịch sử
truyền thống, thể thao, hội nghị hội thảo, tổ chức sự kiện quy mô hơn.
Nguồn khách quốc tế đến bằng đường biển đang tăng lên. Sắp tới có thêm
những hãng tàu du lịch quốc tế khác đến nước ta, trong đó Saigontourist đã
ký thỏa thuận với một hãng tàu du lịch lớn Hoa Kỳ mở tour du lịch đường
biển hành trình Bắc - Nam.
Tuy nhiên, việc khai thác những lợi thế của vùng biển cho phát triển
du lịch còn nhiều hạn chế. Trong một thời gian dài, tỷ trọng khách du lịch,
thu nhập từ du lịch biển so với du lịch cả nước không có sự thay đổi đáng
kể, mặc dù vùng ven biển là lãnh thổ có nhiều thuận lợi hơn những vùng

lãnh thổ khác về tài nguyên du lịch. Du lịch biển Việt Nam vẫn chưa tạo
được sự hấp dẫn đặc biệt đối với khách du lịch. Năm 2006, khách du lịch
quốc tế đến Việt Nam bằng đường biển chỉ chiếm khoảng trên 6% trong
tổng lượt khách quốc tế. Thời gian neo đậu của tàu du lịch ở các cảng chỉ từ
8 đến 24 giờ, do đó, khách không có nhiều cơ hội tham quan, giải trí mua
sắm.
Nguyên nhân được các chuyên gia đưa ra là hiện nay ở Việt Nam hầu
hết các cảng biển là cảng hàng hóa, chưa có cảng chuyên biệt cho tàu du
lịch. Nhiều tàu có trọng tải lớn không thể cập bờ và phải di chuyển khách
bằng canô hoặc tàu du lịch mất nhiều thời gian, giảm hứng thú cho du
khách. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền và quảng bá về du lịch biển Việt
Nam lâu nay chưa được quan tâm đúng mức. Du lịch Việt Nam chưa tham
gia các hội nghị, hội chợ chuyên về du lịch biển và du lịch tàu biển trên thế
giới. Một vấn đề đáng quan tâm nữa là hiện nay có không ít địa phương do
nóng vội đã đưa ra các chiến lược phát triển thiếu tính bền vững, gây trùng
lắp, thiếu quy hoạch chi tiết phù hợp để bảo vệ môi trường và văn hóa bản
địa, tính thương mại hóa quá cao, trong khi đáng lẽ phải tìm ra sự khác biệt,
bản sắc riêng của du lịch biển.
2.4 KHẢ NĂNG VÀ HIỆN TRẠNG VIỆC PHÁT TRIỂN
KINH TẾ BIỂN VỀ GIAO THÔNG ĐƯỜNG BIỂN
2.4.1 tiềm năng phát triển giao thông biển
Như đã nói, vùng biển - đảo nước ta hoàn toàn nằm trong vùng nhiệt
đới và có diện tích rộng tới khoảng 3,5 triệu km2, quanh năm nước không
đóng băng. Đây chính là điều kiện để giao thông - thương mại phát triển.
Biển Việt Nam nói riêng và Biển Đông nói chung nằm ở vị trí có nhiều
tuyến đường biển quan trọng của khu vực cũng như của thế giới, giữ một
vai trò rất lớn trong vận chuyển lưu thông hàng hóa thương mại phục vụ
đắc lực cho xây dựng nền kinh tế của nước ta cũng như các nước quanh bờ
Biển Đông. Biển Việt Nam nối thông với nhiều hướng, từ các hải cảng ven
biển của Việt Nam thông qua eo biển Malakka để đi đến Ấn Độ Dương,

Trung Đông, Châu Âu, Châu Phi qua eo biển Basi có thể đi vào Thái Bình
Dương đến các cảng của Nhật Bản, Nga, Nam Mỹ và Bắc Mỹ; qua các eo
biển giữa Philippin, Indonesia, Singappor đến Australia và New Zealand,
v.v Đây là điều kiện rất thuận lợi để ngành giao thông vận tải biển nước ta
phát triển, thúc đẩy giao lưu kinh tế, văn hoá giữa nước ta với các nước
khác trong khu vực và trên thế giới
2.4.1 hiện trạng phát triển giao thông biển nước ta
Như đã trình bày ở phần trước, nước ta có nhiều điều kiện thuận lợi để
phát triển giao thông vận tải biển. Hệ thống cảng của nước ta gồm cảng biển
và cảng sông với khoảng trên 90 cảng lớn nhỏ và được phân bố tương đối
đều dọc theo bờ biển từ bắc vào nam. Hệ thống cảng biển của nước ta được
chia thành 6 nhóm: nhóm cảng biển phía bắc (cảng Hải Phòng, Cái Lân, Cửa
Ông, Hòn Gai,), Nhóm cảng biển Bắc Trung Bộ (các cảng quan trọng là
Nghi Sơn, Vũng Áng), Nhóm cảng biển Trung Trung Bộ (từ Quảng Bình
đến Quảng Ngãi gồm các cảng chính Hòn La, Chân Mây, Đà Nẵng, Dung

×