Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

TIỂU LUẬN CHỦ đề 4 lý tưởng nhân văn hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.32 KB, 16 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH DOANH VÀ CÔNG NGHỆ HÀ NỘI

----------

BÀI TIỂU LUẬN
CHỦ ĐỀ 4: Lý tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
Giảng viên hướng dẫn : Nguyễn Mỹ Nhung
Sinh viên thực hiện
: Lê Xuân Trưởng
Lớp
: CT23.01
MSSV
: 18101240

Mục Lục
Nội dung
Trang


Phần A: Lời mở đầu
Phần B: Nội dung
I.
Khái niệm lý tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
1. Lý tưởng nhân văn HCM là gì ?
2. Mối quan hê giữa lý tưởng nhân văn và các khía canh nhân văn khác
II. Lý tưởng nhân văn HCM
III. Bài học về lý tưởng nhân văn HCM
Phần C: Kết luận
Tài liệu tham khảo


A. MỞ ĐẦU


Nhân văn là giá trị phổ quát, là tổ hợp các yếu tố chân - thiện - mỹ, là hiện thân của thiên
hướng vươn lên và hồn thiện khơng ngừng của chính con người. Vì vậy nhân văn bao giờ
cũng là lý tưởng và mục tiêu mà loài người hằng vươn tới, nó tồn tại, phát triển và ngày càng
thể hiện sức sống mãnh liệt của mình trong suốt tiến trình phát triển xã hội. Khát vọng nhân
văn ở con người, dù là phương Đông hay phương Tây, cũng đều cháy bỏng và lớn lao. Ở đâu
có điều kiện thuận lợi thì ở đó tư tưởng nhân văn nảy nở và phát triển. Việt Nam với lịch sử
dựng nước và giữ nước hào hùng, gây dựng truyền thống yêu nước và đạo lý làm người của
mình, là mảnh đất ươm sẵn những hạt giống nhân văn, để từ đó bừng lên những mầm xanh tư
tưởng nhân văn .
Hồ Chí Minh, một thiên tài như được đúc kết từ tinh hoa truyền thống nhân văn của dân tộc
Việt Nam; dù khi Người bơn ba khắp năm châu bốn biển để tìm đường cứu nước cứu dân,
được sống trong nhiều nền văn minh của các dân tộc khác nhau, được tiếp xúc với những tư
tưởng vĩ đại của C. Mác, Ph. Ăng-ghen và V.I. Lênin, tới tận phút cuối cùng của cuộc đời, tư
tưởng nhân văn của người càng ngời sáng hơn, trở thành lý luận, thành hiện thực vững chắc.
Đối với thanh niên chúng ta hiện nay, việc học tập và nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh là rất
cần thiết. Tiếp thu những giá trị văn hoá mà Người để lại, từ đó dần hồn thiện mình hơn,
phát huy được bản chất tốt đẹp, ý chí vươn lên vốn có trong mỗi con người. Nhất là trong
công cuộc đổi mới và mở cửa đất nước trong điêu kiện hiện nay, việc phát huy được những
giá trị nhân văn trong mỗi con người càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Có như vậy
chúng ta mới có thể là những chủ nhân tương lai của đất nước như lời Bác dạy với khát khao
đưa đất nước đi lên hoà nhập với cộng đồng quốc tế nhưng vẫn giữ vững được những giá trị
nhân văn truyền thống cao đẹp của dân tộc từ nghìn xưa để lại

B.NỘI DUNG
I. Khái niệm lý tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
1.Lý tưởng nhân văn HCM là gì ?
Chủ tịch Hồ Chí Minh - anh hùng giải phóng dân tộc, người thầy vĩ đại của cách

mạng Việt Nam, nhà văn hoá lớn của nhân loại đã đi xa, nhưng đã để lại cho
chúng ta tài sản tinh thần to lớn, đó là tư tưởng Hồ Chí Minh mang giá trị nhân
văn cao cả. Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm tồn diện, sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, với nội dung cốt lõi, xuyên
suốt là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tất cả vì mục đích giải phóng giai
cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Cả cuộc đời và sự nghiệp của
Người là tấm gương sáng về sự cống hiến hy sinh cho độc lập dân tộc, hạnh
phúc của nhân dân. Tư tưởng nhân văn là một nội dung quan trọng trong hệ


thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó đến nay vẫn còn giữ nguyên giá trị,
là cơ sở để Đảng và Nhà nước ta hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách
phát triển con người tồn diện trong sự nghiệp đổi mới hiện nay. Ở bài viết này,
người viết chỉ đề cập một số nội dung cơ bản trong tư tưởng nhân văn của
Người.
Nhân văn chính là những tư tưởng, quan điểm, tình cảm khi bàn về các giá trị
sống của con người như phẩm giá, tình cảm, trí tuệ, vẻ đẹp, sức mạnh. Xét thực
chất nhân văn là giá trị mang tính phổ quát, hướng con người đến các giá trị
chân- thiện - mỹ.
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là “tồn bộ suy nghĩ và tình cảm đã chi phối
suốt cả cuộc đời của Người, một cuộc đời đấu tranh không mệt mỏi cho độc lập
dân tộc và hạnh phúc của nhân dân, cho sự giải phóng của cả nhân loại và của
mỗi con người”
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh bắt nguồn từ những truyền thống tốt đẹp được
hun đúc trong quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam
như sự nhân ái, khoan dung và lòng yêu thương con người sâu sắc. Trên cơ sở
truyền thống nhân nghĩa của dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại cùng với chủ
nghĩa nhân đạo cộng sản đã làm cho tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh có bước
chuyển hố về chất, nâng lên tầm cao mới trở thành tư tưởng nhân văn cộng
sản.

1. Mối quan hệ giữa lý tưởng nhân văn và các khía cạnh nhân văn khác

Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh được nâng lên tầm cao hơn khi Người
hội tụ được các tư tưởng tiến bộ toàn nhân loại: Văn minh châu Á, châu
Âu, châu Mỹ, châu Phi, với các hệ tư tưởng nhân văn Phục hưng, Khai
sáng, tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng Ý, Pháp... Đặc biệt, tư
tưởng nhân văn đó trở thành lý luận khoa học, như một lý thuyết vững
chắc khi người gặp tư tưởng cộng sản chủ nghĩa với các lãnh tụ thiên tài
C.Mác, Ph.Ănghen, V.I.Lênin.
Tư tưởng cộng sản chủ nghĩa đã giúp Hồ Chí Minh nâng những u cầu
có tính nhân bản lên tầm cao đó là tính nhân văn thực thụ. Tính nhân văn
ở đây khơng cịn bị giới hạn trong khn khổ giải quyết vấn đề vị trí của
con người, tách con người khỏi kiếp ngựa trâu do chế độ nơ lệ kìm kẹp,
làm cho bị tha hóa, mà là giải quyết vấn đề xây dựng vị thế con người
trong xã hội mới. Tư tưởng của Người lúc này khơng chỉ là xóa bỏ tình
trạng tha hóa, đưa con người về đúng vị trí của mình mà là phát huy mọi
tiềm năng của con người để xây dựng một cuộc sống mới. Thực hiện tư
tưởng nhân văn tư bản chủ nghĩa - tự do, bình đẳng, bác ái, từng bước


thực hiện lý tưởng nhân văn cộng sản chủ nghĩa, tiến tới một xã hội cộng
đồng và hòa nhập, ở đó con người khơng chỉ có điều kiện để phát huy
mọi tiềm lực, tài năng xây dựng xã hội mới, mà cịn phát triển tồn diện,
hài hịa chính bản thân con người với tư cách là mục đích tối cao của con
người. Đây là tính nhân văn cao nhất của con người, của xã hội loài
người trên phương diện lý thuyết. Tư tưởng này ở tầm cao hơn, sâu hơn
còn bởi vì nó mở ra tính nhân văn vĩ đại của chủ nghĩa cộng sản, về
phương hướng thực hiện mục đích tối cao của con người: Con người là
mục đích của sự phát triển lịch sử, của mọi hoạt động của chính mình.
Hai là, giá trị nhân văn Hồ Chí Minh mang tính khoa học, cách mạng và

hiện thực sâu sắc. Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh là chủ nghĩa nhân
văn khoa học, hiện thực, cách mạng. Người ta thường nói, Hồ Chí Minh
là một nhà triết học hành động, thì cũng có thể nói nhà nhân văn Hồ Chí
Minh là một nhà nhân văn hành động, hành động nhằm giải phóng con
người.
Tinh thần nhân văn đặc sắc của Hồ Chí Minh thể hiện ở khát vọng biến tư
tưởng thành hiện thực trên cơ sở một sự hiểu biết chắc chắn các điều kiện
hiện tại và quy luật xã hội đặc thù của một nước thuộc địa nửa phong
kiến, nông nghiệp lạc hậu. Cốt lõi thế giới quan duy vật, phương pháp
khoa học, nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa được Hồ Chí Minh chuyển
hóa thành một tổ hợp tư tưởng Mác - Lênin - Hồ Chí Minh, rồi nó lại
được thăng hoa, biến hóa thành một chất tư tưởng mới rất riêng, ở đó hịa
quyện chiều sâu lý luận với sinh khí cuộc sống. Tiếp thu bản chất cách
mạng, tinh thần cải tạo thế giới của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh
thực hiện khát vọng cháy bỏng của mình là biến tất cả tình thương người,
tình yêu cuộc sống, khát vọng xây dựng tương lai thành hành động để
đưa những tư tưởng, lý tưởng, ước mơ đó thành hiện thực.
Để thực hiện lý tưởng nhân văn "khơng có gì q hơn độc lập, tự do", Hồ
Chí Minh đã nghiên cứu bản chất thật sự của chủ nghĩa thực dân, phát
hiện các mâu thuẫn trong lịng nó, nắm bắt thấu đáo nhu cầu phát triển
khách quan của xã hội Việt Nam, xu thế vận động của thế giới, khảo cứu
các cuộc cách mạng điển hình để vạch ra con đường đi cho cách mạng
Việt Nam: Con đường cách mạng vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Từ thực tiễn xã hội Việt Nam, vận dụng sáng tạo phương
pháp hành động biện chứng mácxít, Hồ Chí Minh đã luận chứng một
cách khoa học mục tiêu phát triển con người chỉ có thể đạt được thơng
qua thực hiện "ba cuộc giải phóng": Giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp và giải phóng con người. Ba cuộc giải phóng đó vùa kết hợp chặt chẽ



với nhau, lại vừa nối tiếp nhau trong toàn bộ tiến trình cách mạng Việt
Nam. Sự kết hợp chặt chẽ được thể hiện ở chỗ trong giải phóng dân tộc
đã có một phần giải phóng giai cấp và giải phóng con người; sự nối tiếp
được thể hiện ở chỗ giải phóng dân tộc sẽ mở đường cho giải phóng giai
cấp và giải phóng con người được đẩy mạnh.

II. Lý tưởng nhân văn HCM
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người. Đó là lịng u thương và q trọng
con người gắn với lòng yêu dân, yêu nước nồng nàn. Biểu hiện nổi bật trong tư
tưởng của Người về sự kế thừa "đạo lý làm người" của dân tộc Việt Nam. Từ
xưa tới nay, khi xử thế với đời, những con người có đạo đức cao cả trong nhân
dân ta thường hay lấy chữ "Nhân" làm gốc. Chữ nhân ở đây được hiểu theo
nghĩa thương u người. Ơng vua có nhân là ơng vua biết thương u dân như
con, kính trọng dân như trời, coi dân là ý trời. Ông quan có nhân là ơng quan
chẳng những khơng ép nạt dân mà trái lại cịn bênh vực dân. Người dân có
nhân là người sẵn lòng cứu nghèo, giúp khổ, giải hoạn nạn cho người khác mà
không tiêc công, tiếc của, không cần trả ơn. Người ta thường nói: tu nhân tích
đức là theo nghĩa như vậy .Trong xã hội phong kiến ở nước ta, các sĩ phu tiến
bộ cũng rất coi trọng chữ "nhân". Khi giặc Nguyên xâm chiếm nước ta (năm
1285), Trần Quốc Tuấn đã nói với binh sĩ "ai nấy cần giữ phép tắc, đi đến đâu
không được nhiễu dân mà phải đồng lịng hết sức đánh giặc. Ơng bộc lộ lịng
u nước, thương dân của mình "Ngày thì quên ăn, đêm thì quên ngủ, nước mắt
đầm đìa, chỉ căm tức rằng chưa xé thịt, lột da quân giặc". Còn Nguyễn Trãi,
trong một bức thư kêu gọi tướng giặc Vương Thông đầu hàng đã viết: "Nước
Việt Nam, tuy xa xăm ở cõi lĩnh ngoại, nhưng vẫn có tiếng là một nước thi thư,
những bậc tài trí đời nào cũng sẵn có. Bởi vậy, phàm những việc ta làm, hết
thảy đều theo lễ nghĩa, trên ứng với trời, dưới thuận lòng người". Nguyễn Du
đã bày tỏ lòng thương mười loại người xấu số của xã hội phong kiến thối nát
trong bài Văn tế thập loại chúng sinh và xót xa cho thân phận con người bị vùi
dập trong kiệt tác truyện Kiều. Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, Nguyễn

Đình Chiểu đã nêu bật lý tưởng nhân đạo, có lòng tin và lòng ưu ái đặc biệt với
những người nông dân Nam Bộ. Thông cảm nỗi tủi nhục của những người bị
mất nước, cụ Phan Bội Châu đã bôn ba nhiều năm trời nơi hải ngoại để tìm
một con đường cứu nước và biểu thị tấm lòng thương dân tha thiết trong các
vần thơ gửi về nước kêu gọi các tầng lớp nhân dân đứng lên đấu tranh với giặc.
Tình thương yêu những người bị chà đạp, bị đối xử tàn tệ trong xã hội phong
kiến ác nghiệt, trong chế độ thực dân tàn bạo là yếu tố quan trọng làm cho họ có


tấm lòng yêu quê hương đất nước. Tuy nhiên, do thế giới quan và nhân sinh
quan bị hạn chế của thời đại lúc bấy giờ, lý tưởng nhân đạo, tư tưởng nhân
văn của những sĩ phu yêu nước nói trên thiếu một cơ sở dân chủ vững chắc.
Lần đầu tiên trong lịch sử ở nước ta, trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng
dân tộc và xây dựng CNXH, Hồ Chí Minh đã tỏ rõ là một nhà nhân văn vĩ đại
đã có một lý tưởng rõ rệt về lịng nhân ái cộng sản. Lòng nhân ái, sự thương
người, thương dân của Hồ Chí Minh đã đặt đúng vào những "người cùng khổ"
nhất, xấu số nhất trong xã hội. Đó là những công nhân, những người nông dân
và các tầng lớp lao động khác bị áp bức, bị bóc lột tận xương tuỷ ở nước ta và
trên thế giới, không phân biệt chủng tộc màu da. Hễ ai bị khổ là Người thương.
Tình thương đó của Hồ Chí Minh được biểu lộ từ những năm tháng nhỏ tuổi
sống ở quê hương đất nước bị đơ hộ bởi chính sách thực dân, trước cảnh đói
nghèo, lầm than cơ cực, lam lũ, bị ức hiếp, bắn giết, tù đày của nhân dân ta.
Những năm tháng ra nước ngoài hoạt động, Người đã từng chứng kiến cảnh
người lao động bị bóc lột, bị đàn áp dã man. Tình thương của Người đối với
những người lao động bao giờ cũng gắn liền với sự căn thù bọn thực dân, đế
quốc tàn bạo, kẻ gây nên bao cảnh thống khổ đối với dân lành. Đến Mỹ, Hồ Chí
Minh khơng bị chống ngợp bởi tượng Thần Tự do đồ sộ và nhiều nhà chọc
trời, mà lại rất chú ý đến nỗi cơ cực của người dân lao động da đen và da
trắng, căm phẫn thủ đoạn tra tấn dã man của đảng 3K đối với người lao động
da đen Mỹ theo kiều hành hình Lin sơ. Ở giữa Pari tráng lệ, Người không ca

ngợi sự giàu sang của nó mà lại viết bài đăng báo Nhân đạo mơ tả về cuộc
sống điêu đứng của xóm nghèo, người nghèo. Đó là một biểu hiện tình thương
u con người bao la của Hồ Chí Minh. Những năm sau chiến tranh của thế
giới lần thứ nhất, Nguyễn ái Quốc là cây bút tố cáo mạnh mẽ tội ác chế độ
thực dân và bênh vực quyền của các dân tộc bị áp bức giành lại nhân phẩm và
tự do. Người nói nhiều đến cảnh khổ sở, bị bóc lột thậm tệ của người cơng
nhân Ơ da ca, một trong những trung tâm công nghiệp của nước Nhật. Người
vạch rõ âm mưu và thủ đoạn dã man của CNĐQ và CNTD đối với nhân dân
lao động ở các nước thuộc địa. Hình thù của nó là con đỉa hai vịi, một vịi hút
máu của giai cấp vô sản và nhân dân lao động ở chính quốc, một vịi hút máu
giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động ở các nước thuộc địa. Sự có mặt và sự
tác oai tác quái của nó trên trái đất này là cội nguồn của mọi thảm hoạ, mọi nỗi
đau khổ đã trút lên đầu lên cổ nhân dân lao động ở các nước thuộc địa từ
mấy thế kỷ nay. Hồ Chí Minh vạch trần tội ác của thực dân Pháp bóc lột nặng
nền và tàn tệ người nơng dân, người cơng nhân và nói chung là tồn thể dân
tộc Việt Nam. Chúng bóc lột bằng "thuế máu", sưu cao, thuế nặng, bằng chính
sách ngu dân và đặt ra bao nhiêu luật lệ vô tội vạ, rất khắc nghiệt cho phép các
nhà cầm quyền hễ ngứa tay thì phạt vạ, tống tù và thảm sát đẫm máu người
dân bản xứ. Người thơng cảm tình cảnh đau khổ của những người nông dân


Nam bộ, bị bọn thực dân và địa chủ cướp đoạt ruộng đất, bị thuế má nặng nề.
Người tỏ lòng thương tiếc những gia đình có con em bị thực dân giết hại và
viết: "Dù máu người Việt Nam nhuộn đỏ "đồng Mả ngụy" có phai đi với thời
gian đi chăng nữa, thì vết thương lịng của những bà mẹ già, những người vợ
gố, những đứa con cơi khơng bao giờ hàn gắn được" .Hồ Chí Minh rất lo lắng
đến cảnh ngộ của những người phụ nữ và những em thiếu nhi. Người đã từng
lên tiếng vạch trần hành động dã man của bọn thống trị đối với phụ nữ ở các
nước thuộc địa: "Không một chỗ nào người phụ nữ thoát khỏi những hành động
bạo ngược" của bọn người xâm lược. Người xót xa khi nhìn thấy các cháu bé

dân tộc thiểu số ốm yếu xanh xao theo ngườì lớn vào chào Đại hội Quốc dân
Tân Trào và nói với các đại biểu : Nhiệm vụ của chúng ta là phải làm cho các
cháu bé có cơm no, có áo ấm, được đi học, không lam lũ mãi thế này. Trong
cuộc đời Hồ Chí Minh, tình thương u của Người giành cho đồng bào đồng
chí thật mênh mơng. Người quan tâm khơng sót một ai với thái độ chân tình,
cởi mở, gần gũi với mọi người và mọi người cũng dễ gần gũi với Người. Người
sắp xếp cho mỗi người vị trí xứng đáng, phù hợp với khả năng của mình, lo lắng
chu đáo cho mọi người về việc làm, đời sống và học tập, vừa nghiêm khắc đòi
hỏi vừa thương yêu, dìu dắt, thắm tình đồng bào, nghĩa đồng chí. Đối với
những kẻ lầm đường lạc lối, Người cũng giành những tình thương. Người dạy
phải khoan hồng, vui mừng đón những đứa con vì cảnh ngộ mà lạc bầy nay
biết hối cải. Người tỏ lòng bao dung độ lượng đối với tù binh bị bắt. Lòng
thương người, thương dân của Hồ Chí Minh phản ánh lập trường của giai cấp
cơng nhân nhằm đấu tranh xố bỏ giai cấp, xố bỏ hình thức người bóc lột
người, đem lại cuộc sống thật sự hạnh phúc, ấm no cho con người. Do đó lịng
nhân ái, sự thương người của Bác là một động cơ lớn trong hoạt động cách
mạng.
Người quan tâm hết thảy, từ những việc lớn đến việc nhỏ có quan hệ tới con
người, từ công cuộc đấu tranh, chiến đấu để giải phóng dân tộc, giải phóng
con người thốt khỏi ách áp bức bóclột, xố bỏ di sản nặng nề của CNTD, đế
quốc và phong kiến, biến đổi và cải tạo nền kinh tế, văn hoá lạc hậu của nước ta
thành nền kinh tế, văn hoá tiên tiến đến những việc có liên quan đến đời sống
thường ngày như tương cà mắm muối của nhân dân. Người nói: "Dân lấy ăn
làm trời; nếu khơng có ăn là khơng có trời... Vì vậy chính sách của Đảng và
chính phủ phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói,
Đảng và chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và chính phủ có lỗi. Tư tưởng
nhân văn Hồ Chí Minh coi trọng nhân cách con người, quý trọng những người
lao động, coi con người không chỉ là sản phẩm của hoạt động tự nhiên và xã
hội mà cịn là sản phẩm của chính bản thân mình. Đối với Hồ Chí Minh, con
người khơng chỉ tiếp thu mà cịn sáng tạo. Quần chúng nhân dân lao động

đóng vai trò là động lực của cách mạng, là chủ thể của sự nghiệp giải phóng


dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng cả chính mình. Vì thế, tư tưởng nhân
văn Hồ Chí Minh làm cho mỗi con người Việt Nam nhận thức được vait rị và
sứ mệnh cao q của mình. Hồ Chí Minh cho rằng, mọi việc đều do con người
làm ra cả. Người quý trọng người lao động chân tay và trí óc, từ nơng dân,
cơng nhân, trí thức cho đến "anh bộ đội Cụ Hồ", từ trẻ đến già, từ đồng bào
miền xuôi đến đồng bào miền núi, đồng bào trong nước và đồng bào ngoài
nước. Người ân cần, chăm chút, khuyến khích, tơn trọng con người, rất coi
trọng khả năng trí tuệ của mọi người. Hồ Chí Minh đã tập hợp động đảo nhân
dân lao động, những người có tài có sức, có nhiệt tình ra gánh vác việc nước.
Hai là, quan điểm của Hồ Chí Minh về cách ứng xử, niềm tin mãnh liệt vào
sức mạnh và phẩm giá của con người. Con người ở đây trước hết là những
người lao động: cơng nhân, nơng dân và trí thức cách mạng... và nói chung là
quần chúng lao động. Niềm tin đó của Người hình thành từ những ngày niên
thiếu và suốt quãng thời gian bôn ba nơi hải ngoại tìm đường cứu dân, cứu
nước. Chính những năm tháng hoạt động ở nước ngồi đã tạo cho Hồ Chí
Minh (lúc đó là Nguyễn Ái Quốc) niềm tin rằng: "Đằng sau sự phục tùng tiêu
cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sơi sục, đang gào thét và sẽ bùng
nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến". Theo Hồ Chí Minh, tin vào sức mạnh
quần chúng nhân dân lao động là một phẩm chất cơ bản của người cách mạng
và cũng là chỗ khác căn bản với các giai cấp bóc lột và các sĩ phu phong kiến
ở nước ta. Chúng ta đều biết lịch sử xã hội loài người từ xưa đến nay là do bản
thân quần chúng xây dựng nên và chính họ là động lực thúc đẩy lịch sử tiến
lên không ngừng. Nhưng các giai cấp bóc lột vì lợi ích giai cấp của mình đã
xố nhồ, làm lu mờ vai trị của quần chúng trong lịch sử. Chúng coi quân
chúng chỉ là một bầy ngu dại. Kể cả những nhà hiền triết trước đây, do địa vị và
quan điểm giai cấp của bản thân họ và do sự hạn chế của lịch sử nên cũng
khơng thấy đúng vai trị quần chúng. Họ cho rằng quân chúng là những người

tiêu cực, bị động, chịu sự sai khiến của những nhân tài lỗi lạc. Họ tuyệt đối
hố, cường điệu vai trị của các cá nhân, anh hùng hào kiệt, cịn vai trị của
quần chúng thì bị bỏ qn, khơng nói tới. Lịch sử Việt Nam mấy nghìn năm nay
đã khẳng định vai trị quyết định của quần chúng nhân dân lao động. Nhân dân
ta đã nêu cao tinh thần đấu tranh, đoàn kết chống ngoại xâm, chống áp bức xã
hội và chống thiên tai. Nhân dân lao động là lực lượng quyết định sự mất còn
của Tổ quốc, sự hưng vong của các triều đại; đó là một sự thật khách quan
không phụ thuộc vào bất cứ ai. Sự nghiệp vẻ vang là do Hai Bà Trưng, Bà
Triệu, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung... lãnh đạo
chính cũng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Nhưng dưới chế độ phong
kiến, vai trò quần chúng nhân dân nước ta bị lu mờ, chính bản thân họ cũng
không nhận thức được sức mạnh của mình. Là lực lượng có tác dụng quyết
định sự biến đổi của lịch sử nhưng cuối cùng quần chúng vẫn bị áp bức, bị bóc


lột, bị coi chỉ là những kẻ “thảo dân”. Dưới thời thực dân, đế quốc phương Tây
xâm lược, nhiều nhà ái quốc có tâm huyết với nền độc lập tự do của Tổ quốc
đã kêu gọi quần chúng đứng lên chống lại chúng giành độc lập nhưng họ quan
niệm quần chúng chỉ là những người thụ động. Họ thiếu lòng tin vào khả
năng quần chúng mình đứng lên tự giải phóng. Đó là một trong những nguyên
nhân thất bại của các phong trào ái quốc trước đầy. Dưới ánh sáng chủ nghĩa
Mác Lênin, những người cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh nhận thức sâu
sắc hơn vai trị của quần chúng, niềm tin vào sức mạnh và phẩm giá của họ
càng mãnh liệt. Chẳng những Hồ Chí Minh hiểu: "Chỉ có chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những
người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ" mà còn chỉ cho Người thấy rõ cả
những lực lượng cách mạng bảo đảm cho cơng cuộc giải phóng ấy thắng lợi.
Lực lượng cách mạng ấy trên phạm vi toàn thế giới là "vô sản tất cả các nước
và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại". Lực lượng cách mạng ấy đối với từng
nước có thể khác nhau nhưng bao giờ cũng lấy công nhân, nông dân làm lực

lượng cơ bản, bao giờ cũng phải được đông đảo quần chúng tham gia. Lần đầu
tiên trong lịch sử nước ta, vai trò của quần chúng nhân dân lao động đã được
hiểu đúng. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng tự mình giải phóng lấy
mình, khơng có anh hùng hào kiệt nào có thể cứu vớt được quần chúng mà
chính bản thân quần chúng được giác ngộ, được tổ chức, đoàn kết dưới sự lãnh
đạo của một đảng tiên phong của giai cấp cơng nhân thì mới giải phóng cho
mình được. Tin vào quần chúng, tin vào con người, Hồ Chí Minh đã nêu cao
vai trị tích cực, chủ động sáng tạo của con người, của quần chúng. Người nói,
cách mệnh là việc chung của cả dân chứ khơng phải của một, hai người, công
nông là gốc của cách mạng. Muốn giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trơng
cậy vào mình, trơng cậy vào lực lượng của bản thân mình. Người tự khẳng
định, có dân là có tất cả. Nhưng để quần chúng có sức mạnh thực sự, Hồ Chí
Minh nói phải "đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn
luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập" . Với những tư tưởng đó, Hồ
Chí Minh đã tạo cơ sở cho việc hình thành và phát triển đạo quân chính trị của
cách mạng là điều cơ bản, có ý nghĩa quyết định" đối với cách mạng Việt Nam.
Trong đội ngũ quân chính trị ấy, quần chúng được động viên và lôi cuốn mạnh
mẽ, rộng rãi vào cuộc đấu tranh từ thấp lên cao, khơng ngừng giác ngộ chính
trị, phát triển đội ngũ ngày càng lớn mạnh. Nhờ đó khi tình thế cách mạng
xuất hiện, Hồ Chí Minh cùng Đảng ta đã phát động quần chúng đứng lên đánh
đổ ách thống trị của thực dân và phong kiến, chống đế quốc xâm lược, giành
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến lên xây dựng chế độ mới. Trong sự nghiệp sáng
tạo xã hội mới, quần chúng nhân dân cũng đã phát huy nhiệt tình cách mạng và
tài năng sáng tạo của mình. Cách mạng Việt Nam do Đảng ta lãnh đạo đã
chứng minh sức mạnh sáng tạo vĩ đại của nhân dân và dân tộc Việt Nam bằng


những thắng lợi liên tiếp trong khởi nghĩa, trong chiến tranh giải phóng, chiến
tranh giữ nước và xây dựng chế độ xã hội tốt đẹp của dân, do dân và vì dân
hiện nay, đánh thắng cả CNTD, phong kiến, đánh Pháp, đuổi Nhật, đánh CNTD

cũ, đánh bại CNTD mới, từng bước chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu. 17
Chính vì thấy được sức mạnh dời non, lấp biển của con người, của nhân dân,
Hồ Chí Minh ln nhắc nhở, giáo dục cán bộ, đảng viên tin tưởng vào nhân
dân, phát huy mọi năng lực của nhân dân. Bởi vì như Người nói "Thắng lợi của
cách mạng là do sức phấn đấu hy sinh và trí thơng minh sáng tạo của hàng triệu
nhân dân, nhất là công nhân, nông dân và những người trí thức cách mạng" [18,
tr.58]. Thành cơng của Đảng ta là ở chỗ Đảng ta tin tưởng vào sức mạnh và trí
tuệ của quần chúg nên đã tổ chức và phát huy được lực lượng cách mạng vô tận
của nhân dân, đã lãnh đạo nhân dân phấn đấu một cách dũng cảm và thông minh
dưới lá cờ tất thắng của chủ nghĩa Mác Lênin. Do đó, Người căn dặn phải đi sát
nhân dân, dựa vào nhân dân để hoàn thành mọi nhiệm vụ của cách mạng. Người
nói, phải nhớ dân là chủ, bao nhiêu lực lượng, bao nhiêu quyền hành là ở dân
hết. Người cán bộ phải biết dân tốt, lúc họ hiểu thì việc gì khó mấy họ cũng
làm được. Dễ trăm lần khơng dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong.
Nhân dân ta rất thông minh. Quần chúng lao động có rất nhiều kinh nghiệm và
sáng kiến. Lịng tin vào con người của Hồ Chí Minh vô cùng mãnh liệt và rộng
lớn. Người tin vào bản chất tốt đẹp của mỗi con người, dù ai đó có nhất thời bị
lỗi lầm, dù nhỏ nhen thấp kém. Người nói, trong mấy triệu người cũng có
người thế này thế khác, đều dòng dõi của tổ tiên ta. Điều cốt yếu là phải có
lịng khoan dung độ lượng. Người rất quan tâm đến việc giáo dục con người,
biết khuyến khích cái tốt, khuyên con người làm điều thiện, đẩy lùi cái xấu, cái
ác, nâng đỡ con người lên. Người từng chỉ rõ, trong con người ta bao giờ cũng
có phần tốt và phần xấu. Người cách mạng phải giáo dục, cảm hoá họ để cho
phần tốt của mỗi con người nảy nở phát triển như hoa mùa xuân và đẩy lùi
phần xấu của mỗi con người. Trong cách mạng giải phóng dân tộc, cũng như
trong xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh khơng những đã tập hợp được một lực
lượng cách mạng rộng lớn mà cịn lơi kéo nhiều người tiến bộ ở các tầng lớp
khác trong nước và ngoài nước ủng hộ đoàn kết với nhân dân chống chủ nghĩa
thực dân, chủ nghĩa đế quốc. Người có sức thu hút và cảm hoá rất lớn là do
nhiều lẽ, chúng tôi đồng ý với luật sư Phan Anh cho rằng, "cái lẽ sâu xa nhất là

từ lòng tha thiết tin yêu nhân dân, tin yêu con người và tin u cả lồi người"
tiến bộ. Lịng nhân ái của Hồ Chí Minh vừa là chủ động đấu tranh giải phóng
con người. Chính điểm này đã làm cho Hồ Chí Minh, nhà hiền triết hành động
và chiến đấu. Trong xã hội có đối kháng giai cấp và dân tộc, những người lao
động chỉ có hành động, hành động đấu tranh cách mạng mới đem lại hạnh
phúc cho mình. Dân tộc Việt Nam những năm dưới chế độ thực dân, đế quốc
sống trong cảnh cực khổ không sao chịu đựng nổi. Độc lập, tự do, hạnh phúc


và các quyền dân tộc sơ đẳng, các quyền con người tối thiểu nhất cũng bị chế
độ thực dân tước đoạt. Muốn sống cuộc sống của con người phải làm cách
mạng, kẻ thù không bao giờ để cho dân tộc ta được sống n vui trong hồ
bình. C.Mác nói, hạnh phúc là đấu tranh khuất phục là sự đau khổ và
quỵ luỵ, là tính xấu đáng gờm nhất. Hồ Chí Minh là lãnh tụ cách
mạng, là chiến sĩ cộng sản và là một nhà nhân văn lớn. Lý tưởng và quyết tâm
của Người là chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng con
người.
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là tư tưởng nhân văn chiến đấu của giai cấp
công nhân và những người lao động, lấy hạnh phúc của con người
làm nguyên tắc cao nhất. Nhưng hạnh phúc của con người là gì nếu khơng phải
là thốt khỏi mọi áp bức, bóc lột của CNTD, CNĐQ, đem lại cho con người sự
làm chủ toàn diện, mọi người cùng nhau lao động xây dựng cuộc sống ấm no,
hạnh phúc, yên vui trong tình thương và lẽ phải; ai nấy đều được phát triển đầy
đủ nhân cách, sở trường và năng khiếu trong mối quan hệ hài hoà giữa cá
nhân, gia đình và xã hội. Cho nên, đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng
con người khỏi ách thống trị của thực dân, đế quốc, đấu tranh đòi tự do dân
chủ, xây dựng và phát triển CNXH là tư tưởng nhân văn, là tư tưởng nhân đạo
đích thực. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh vì thế nhằm vào hành động và
hướng quần chúng nhân dân lao động vào cuộc đấu tranh để biến những quan
niệm, lý tưởng tốt đẹp, khát vọng và ước mơ giải phóng nghìn đời của mình

thành hiện thực. Khát vọng giải phóng của dân tộc Việt Nam, của con người
Việt Nam càng thêm nung nấu và bùng cháy bởi ách đô hộ cực kỳ tàn bạo của
bọn phong kiến, thực dân và đế quốc. Lịch sử Việt Nam hơn 80 năm dưới
ách ngoại xâm là lịch sử của những trận chiến đấu oai hùng cho cơng cuộc giải
phóng dân tộc. Nhưng các cuộc chiến đấu đó của nhân dân lao động nước ta có
được mục tiêu tự giải phóng rõ ràng và cao đẹp, tổ chức chặt chẽ và khoa
học, biện pháp triệt để và có hiệu quả từ khi Hồ Chí Minh tìm con đường cứu
nước, cứu dân đúng đắn để biến ý chí giải phóng con người thành hiện thực.
Khác với các sĩ phu yêu nước lớp trước ở chỗ Hồ Chí Minh đã gắn liền với
tình cảm u nước, thương dân với hành động đấu tranh cứu nước, cứu dân.
III. Bài học về lý tưởng nhân văn HCM
Vận dụng tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh trong bối cảnh hiện nay, dịch bệnh
Covid -19 diễn biến ngày càng phức tạp, bùng phát mạnh ở nhiều nước, khu vực
trên thế giới, tác động mạnh mẽ tới sự phát triển kinh tế - xã hội, ảnh hưởng
nghiêm trọng đến sức khỏe đời sống của nhân dân ở nhiều quốc gia. Trước tình
hình đó, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã có nhiều
văn bản chỉ đạo, huy động sự vào cuộc của tồn dân trong phịng, chống dịch
bệnh. Ban Chỉ đạo quốc gia về phòng, chống dịch bệnh Covid -19; các ban, bộ,


ngành, đoàn thể, nhất là đội ngũ cán bộ y tế, chiến sĩ lực lượng vũ trang từ
Trung ương tới địa phương…đã thực hiện nghiêm túc, triển khai kịp thời, quyết
liệt, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp với tinh thần “chống dịch như chống
giặc”. Các thông tin về dịch bệnh và cơng tác phịng, chống dịch được truyền tải
nhanh, minh bạch, đầy đủ, đồng thời xử lý kịp thời, nghiêm minh những thông
tin sai sự thật. Nhân dân ta đã thể hiện sự bình tĩnh, chủ động cùng cấp ủy,
chính quyền các cấp tham gia phịng, chống dịch bệnh; đoàn kết, chia sẻ, hỗ trợ
lẫn nhau vượt qua mọi khó khăn.
Trước khó khăn, thách thức của đại dịch Covid -19 nhiều nước trên thế giới
đã bộc lộ rõ những hạn chế trong cách thức quản lý cũng như khống chế dịch

bệnh, nhiều nước phát triển cũng gặp phải khủng hoảng sâu rộng trong đại dịch
này. Trong khi đó, Việt Nam chúng ta các tiềm lực về kinh tế, y tế, khoa học
cơng nghệ… cịn chưa phát triển so với các nước khác nhưng cơng tác phịng,
chống dịch bệnh lại thực hiện rất tốt, chúng ta khơng có sự phân biệt đối xử và
khơng có ai bị bỏ lại phía sau. Điều này được thể hiện rõ nét, đó là những
chuyến bay xuyên qua vùng dịch để đưa những người dân Việt Nam đang lao
động, học tập ở nước ngoài trở về quê hương để tránh dịch bệnh.
Với các chính sách đúng đắn, đầy nhân văn của Đảng, Nhà nước vừa qua
trong phòng, chống dịch Covid-19 nhận được sự đồng tình, ủng hộ rộng khắp
của người dân Việt Nam. Các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân, các văn nghệ sĩ…
đã tự nguyện đóng góp, ủng hộ, trao tặng hàng trăm tỷ đồng, nhiều thiết bị y tế
phục vụ điều trị, cách ly phịng, chống dịch, chăm sóc y tế cho cộng đồng.
Tuyến đầu trong cuộc chiến chống dịch chính là đội ngũ y bác sĩ, những
"thiên thần áo trắng" trong bộ đồ bảo hộ “kín mít”, nhìn và đối thoại với đồng
nghiệp qua ánh mắt, cử chỉ, hành động; tạm gác lại tình thân và những giây phút
quây quần bên gia đình để “trực chiến”, tiếp xúc, chăm sóc người nhiễm và nghi
nhiễm Covid-19. Các cán bộ, chiến sĩ ở đơn vị trong tồn qn khơng chỉ sẵn
sàng nhường nhà, nhường giường để nhân dân có chỗ ở trong thời gian cách ly
theo quy định, mà còn thức khuya, dậy sớm lo từng suất ăn; theo dõi chặt chẽ,
kỹ lưỡng tình hình sức khỏe. Trong suốt nhiều ngày qua đã có biết bao tin, bài,
ảnh được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng ca ngợi về phẩm
chất của Bộ đội Cụ Hồ. Chính từ những tấm gương sáng ngời của Bộ đội Cụ Hồ
bằng những việc làm, hành động bình dị đã lan tỏa tình yêu Tổ quốc, làm lay
động hàng chục triệu trái tim…, dù sẽ cịn phải chịu nhiều gian khó, vất vả vì
điều kiện sinh hoạt, công tác bất thường của thời tiết, song cán bộ, chiến sĩ quân
đội luôn nỗ lực phấn đấu hoàn thành tốt và xuất sắc nhiệm vụ với mục tiêu cao
nhất: Tất cả vì cuộc sống bình yên của nhân dân!


Cùng với đó là những cơng dân tình nguyện đã tham gia phòng, chống đại

dịch, đi đầu là những cán bộ, nhân viên ngành y tế, sinh viên, học sinh các
trường y, kể cả người trong ngành y đã nghỉ hưu trên cả nước. Ngồi ra, cịn biết
bao người, những tấm gương ở mọi giới, người già, người trẻ trên khắp mọi
miền của đất nước đã và đang thầm lặng tham gia hỗ trợ Đảng, Nhà nước,
Chính phủ, địa phương và các ban, ngành cùng phòng, chống dịch bệnh... Tấm
lòng “máu chảy ruột mềm”, nghĩa cử “đồng bào”, “thương người như thể
thương thân”, “lá lành đùm lá rách” đang cuồn cuộn chảy trong “dịng máu Lạc
Hồng”. Tính nhân văn của con người Việt Nam còn được thể hiện rõ qua truyền
thống “ lá lành đùm lá rách”, “ một miếng khi đói bằng một gói khi no”, những
cây ATM gạo, các siêu thị o đồng, những hình thức phát quà từ thiện xuất hiện
trên khắp các tỉnh, thành của cả nước, mọi người đều chung tay, chung sức,
đồng lòng giúp đỡ những người có hồn cảnh khó khăn để cùng nhau vượt qua
dịch bệnh.
Cùng với tinh thần yêu nước, đoàn kết, người Việt Nam còn thể hiện cách
ứng xử nhân văn, nhân ái, đầy tình người với bạn bè và du khách quốc tế. Bạn
bè và du khách quốc tế đến Việt Nam du lịch, công tác bị mắc Covid -19 đều
được đội ngũ y, bác sĩ, chuyên gia y tế điều trị tận tình, chu đáo. Các biện pháp
phịng, chống dịch Covid -19 mà Việt Nam đã, đang thực hiện được cộng đồng
quốc tế đánh giá cao, có lẽ khơng chỉ ở hiệu quả mà cịn ở cách ứng xử thân
thiện, văn minh, hết mình với cơng dân các quốc gia khác. Người nước ngồi
đến từ vùng có dịch, tiếp xúc, có nguy cơ nhiễm bệnh hoặc dương tính với
Covid -19 được chăm sóc, ứng xử như cơng dân Việt Nam dù dịch bệnh đã tác
động không nhỏ tới kinh tế - xã hội của nước ta. Tại các địa phương, du khách
nước ngoài được vận động đeo khẩu trang, sử dụng dung dịch rửa tay khơ, thậm
chí được phát khẩu trang miễn phí...
Trên cơ sở tư tưởng nhân văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mọi người dân
Việt Nam đang được Đảng, Nhà nước định hướng, khơi dậy, lan tỏa và phát huy
lòng yêu thương con người, tinh thần đồn kết, tương thân, tương ái trong
phịng, chống dịch bệnh Covid - 19. Chỉ có con người Việt Nam mới có tính ưu
việt, mang đậm giá trị nhân văn cao cả và có sức mạnh to lớn đến như vậy. Đây

là minh chứng thuyết phục nhất bác bỏ những quan điểm sai trái, thù địch xuyên
tạc, phủ nhận bản chất tốt đẹp của con người Việt Nam và bác bỏ luận điệu “ vi
phạm nhân quyền tại Việt Nam


C. KẾT LUẬN
Cả cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh là một mẫu người nhân đạo của thời đại
mới. Ở con người Hồ Chí Minh là sự thống nhất yêu thương con người với
niềm tin, sự tôn trọng và ý chí, hành động triệt để để giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội, giải phóng con người. Tính nhân văn cao cả trong tư tưởng Hồ
Chí Minh là đặt hạnh phúc của nhân dân lên hàng đầu. Ở Hồ Chí Minh, con
người không phải là một khái niệm chung chung, mơ hồ, mà là cộng đồng Việt
Nam, một hang động, mỗi con người, mỗi cuộc đời, mỗi hoàn cảnh cụ thể. Cho
đến lúc phải đi. Người chỉ nghĩ đến sự đoàn kết toàn dân, sự phát triển, tiến bộ
của Đảng, của dân tộc. Anh ấy vẫn dành rất nhiều tình cảm cho mọi người.
Những lời dạy bảo của Bác kính yêu cũng là tâm niệm của mỗi Thanh Biên.
Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm đặc biệt và tin tưởng đối với thế hệ
trẻ , đó chính là niềm cổ vũ lớn lao , là lao động mạnh mẽ để tuổi trẻ tự tin ,
vững bước . Chúng ta là sinh viên “ tuổi trẻ ĐHBK ” hôm nay hãy ra sức học
tập , rèn luyện và làm theo lời Bác . Luôn tu dưỡng đạo đức của mình , để sau
này chúng ta là những giáo viên tương lai hoàn thiện cả về đức và tải Với tư
cách là một sinh viên cũng là thành phần của hàng ngũ người chủ tương lao của
đất nước mỗi sinh viên chúng em phải biết tự tu dưỡng : “ Học , học nữa , học
mãi ” . Học tập , vận dụng tốt tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh : “ Học đi đơi với
hành ” . Là một thế hệ trẻ chúng ta phải năng động , sáng tạo , góp phần thực
hiện thành cơng CNH , HĐH đất nước , vì dân giàu nước mạnh , xây dựng xã
hội côngỡ bằng dân chủ văn minh , vì tương lai của tồn dân tộc và của tuổi trẻ .


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục – NXB LĐ Hà Nội 2005 .
2 ) Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh của bộ giáo dục và đào tạo .
3 ) Tư tưởng Hồ Chí Minh- TS Phạm Ngọc Anh . PGS TS Bùi Đình Phong
đồng chủ biên- NXB lý luận chính trị ( trang 169 ) .
4 ) Tạp chí cộng sản ( www.tapchicongsan.org.vn )
5 ) Cổng thông tin tư liệu về HCM ( www.thehehochiminh.net )
6 ) Đoàn thanh niên cộng sản HCM
7 ) Báo Vietnamnet.vn



×