Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Ôn tập đề cương kinh tế ctri mac lênin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.86 KB, 37 trang )

Ôn tập đề cương Kinh tế ctri Mac Lênin-Khoa kế tốn
CHƯƠNG 1
1, Q trình hình thành và phát triển của kinh tế chính trị Mác Lenin :
a. Giai đoạn 1843 – 1848 :
- Đây là giai đoạn hình thành cơ sở triết học và phương pháp luận của C.Mác và
Ăngghen để đi vào nghiên cứu kinh tế chính trị. Lúc đầu các ơng là những người
dân chủ cách mạng, tích cực tham gia phong trào đấu tranh vì tự do dân chủ, bảo
vệ lợi ích của nơng dân, địi tự do báo chí và bắt đầu tìm hiểu những vấn đề về kinh
tế. Các ông đã xây dựng thế giới quan phương pháp luận khoa học - Phương pháp
duy vật biện chứng. Đồng thời các ông chuyển từ lập trường dân chủ sang lập
trường chủ nghĩa cộng sản.
- Trong giai đoạn này, các ông viết một số tác phẩm sau :
"Bản thảo kinh tế-triết học" (1844); "Lược thảo phê phán khoa kinh tế chính trị"
(1844); "Tình cảnh giai cấp lao động ở Anh" (1844); "Hệ tư tưởng Đức" (1846);
"Sự khốn cùng của triết học" (1847); "Lao động làm thuê và tư bản" (1849);
"Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" (1848).
- Trong những tác phẩm trên, Tuyên ngôn của Đảng cộng sản được coi là mốc mở
đầu của thời đại mới trong lịch sử đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân
quốc tế. Đây là tác phẩm trình bày một cách xúc tích nhất những tư tưởng, quan
điểm về: triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa cộng sản khoa học của C.Mác
và Ph.Ăngghen. Thể hiện cụ thể như sau:


- Các ông đã khẳng định cơ sở kinh tế là nhân tố quyết định chính trị, tư tưởng của
thời đại, sản xuất vật chất là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội
loài người. Đặc biệt khi xã hội có giai cấp, thì lịch sử xã hội là lịch sử đấu tranh
giai cấp và đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội lồi người (các ơng
đã vượt khỏi tư tưởng duy tâm và siêu hình).
- Các ơng đã xác định được đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị là nghiên
cứu mặt xã hội của quá trình sản xuất và trao đổi những của cải vật chất nhất định
của một xã hội., đồng thời các ông đi vào nghiên cứu các khái niệm, phạm trù, quy


luật của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa: hàng hóa, tiền tê, tư bản, giá trị, sở
hữu... và đi đến kết luận: những người cộng sản có nhiệm vụ xóa bỏ chế độ tư hữu.
- Các ông khẳng định phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là
phương thức tồn tại vĩnh viễn, nó tất yếu sẽ bị tiêu vong và được thay thế bằng một
phương thức phát triển cao hơn - đó là phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
Sứ mệnh lịch sử này là do giai cấp công nhân đảm nhận.
b. Giai đoạn 1848 – 1895:
- Đây là giai đoạn xây dựng và hoàn thành học thuyết kinh tế của C.Mác và
Ph.Ăngghen, hạt nhân là bộ Tư bản.
- Từ 1848 - 1856, các ông chuyển việc nghiên cứu từ lĩnh vực triết học sang lĩnh
vực kinh tế chính trị, trước hết là đi vào tìm hiểu tình hình chính trị, xã hội của thế
giới và đã viết một số tác phẩm: "Đấu tranh giai cấp ở Pháp" (1848-1850); "Ngày
mười tám Sương mù của Loui Bonaparte"; "Cách mạng và phản cách mạng ở Đức"
(1851-1852).


- Từ 1857 - 1858, C.Mác viết bản thảo kinh tế đầu tiên (khơng được xuất bản). Ở
đây, C.Mác trình bày những quan điểm của mình về đối tượng, phương pháp
nghiên cứu của kinh tế chính trị; về hàng hóa, tiền tệ, tư bản, lợi nhuận.
CHƯƠNG 2
1, Điều kiện ra đời, đặc trưng, ưu thế của sản xuất hàng hóa :
a. Điều kiện ra đời :
- Thực tế nền kinh tế thế giới cho thấy không nước nào mà nền kinh tế hàng hóa
hay kinh tế thị trường lại vận động hồn tồn dưới sự điều khiển “ vơ hình “ của
các quy luật kinh tế khách quan. Mà chúng đều vận động theo cơ chế thị trường có
sự điều tiết của các doanh nghiệp và nhà nước và với mức độ và phạm vi khác
nhau tùy điều kiện lịch sử của mỗi nước.
- Kinh tế hàng hóa là mơ hình kinh tế mà trong đó hầu hết các quan hệ kinh tế
được thược hiện trên thị trường dưới hình thái hàng hóa và dịch vụ, vận động theo
cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước.

- Kinh tế hàng hóa ra đời và tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế xã hội gắn liền
với 2 điều kiện. Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội đã và đang trải qua 2
điều kiện tổ chức kinh tế, đó là sản xuất tự cấp tự túc và sản xuất hàng hóa.
- Sản xuất tự cấp tự túc là kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm do lao động tạo ra là
nhằm để thỏa mãn trực tiếp nhu cầu của người sản xuất. Sản xuất hàng hóa là kiểu
tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm được sản xuất ra để trao đổi hoặc mua bán trên
thị trường.


- Sản xuất hàng hóa ra đời là bước ngoặt căn bản trong lịch sử phát triển của xã
hội loài người, đưa lồi người thốt khỏi tình trạng “ mơng muội “, xóa bỏ nền
kinh tế tự nhiên, phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất và nâng cao hiệu quả
kinh tế của xã hội.
Sản xuất hàng hóa chỉ ra đời, khi có đủ 2 điều kiện sau đây :
+ Thứ nhất : phân công lao động xã hội :
- Phân công lao động xã hội : là sự phân chia lao động xã hội một cách tự phát
thành các ngành, nghề khác nhau. Phân công lao xã hội tạo ra sự chun mơn hóa
lao động, do đó dẫn đến chun mơn hóa sản xuất. Do phân cơng lao động xã hội
nên mỗi người sản xuất sẽ làm một công việc cụ thể, vì vậy họ chỉ tạo ra 1 hoặc 1
vài loại sản phẩm nhất định. Song cuộc sống của mỗi người lại cần đến rất nhiều
loại sản phẩm khác nhau. Để thỏa mãn nhu cầu, đòi hỏi họ phải có mối liên hệ phụ
thuộc vào nhau, phải trao đổi sản phẩm cho nhau.
- Là có sự chun mơn hóa sản xuất, phân chia lao động xã hội vào các ngành, các
lĩnh vực sản xuất khác. Sự phân chia lao động xã hội sẽ làm cho việc trao đổi sản
phẩm trở nên tất yếu vì khi đó mỗi người khi đó sẽ chỉ sản xuất 1 hay 1 vài sản
phẩm trong khi họ có nhu cầu sử dụng nhiều loại sản phẩm khác nhau. Do đó, tất
yếu dẫn đến trao đổi mua bán. Sự phân công lao động cũng làm cho năng suất lao
động tăng lên, sản phẩm thặng dư ngày càng nhiều và trao đổi sản phẩm ngày càng
phổ biến.
=> Đây là tiền đề, cơ sở cho sản xuất hàng hóa.

+ Thứ 2 : sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất :


- Sự tách biệt này do các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, mà khởi
thủy là chế độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, đã xác định người sở hữu tư liệu sản
xuất là người sở hữu sản phẩm lao động.
- C.Mác viết: “Chỉ có sản phẩm của những lao động tư nhân độc lập và không phụ
thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như là những hàng hóa”.
=> Như vậy, chính quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất đã làm cho những
người sản xuất độc lập, đối lập với nhau, nhưng họ lại nằm trong hệ thống phân
công lao động xã hội nên họ phụ thuộc lẫn nhau về sản xuất và tiêu dùng.
- Trong điều kiện ấy, người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phải
thơng qua sự mua-bán hàng hóa, tức là phải trao đổi dưới những hình thái hàng
hóa. Là những người sản xuất trở thành những chủ thể sản xuất, độc lập nhất định.
Do đó, sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu hoặc do họ chi phối. Trong lịch sử, sự
tách biệt này là do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất quy định còn trong nền sản
xuất hiện đại, sự tách biệt này cịn do các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản
xuất và sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng đối với tư liệu sản xuất
quy định.
- Đây là 2 điều kiện cần và đủ của sản xuất hàng hóa. Thiếu 1 trong 2 điều kiện
trên sẽ khơng có sản xuất hàng hóa. Từ sự phân tích trên, sản xuất hàng hóa chỉ ra
đời khi có đồng thời 2 điều kiện, nếu thiếu 1 trong 2 điều kiện ấy thì khơng có sản
xuất hàng hóa và sản phẩm lao động khơng mang hình thái hàng hóa.
b. Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hóa:
- Sản xuất hàng hóa ra đời từ sản xuất tự cấp tự túc và thay thế nó trong q trình
lịch sử lâu dài.


- Ở các xã hội trước CNTB, sản xuất hàng hóa là sản xuất giản đơn chỉ giữ vai trị
phụ thuộc. Tuy nhiên chính sản xuất hàng hóa giản đơn đã tạo ra khả năng phát

triển lực lượng sản xuất thiết lâp các mối liên hệ kinh tế giữa các đơn vị kinh tế
trước đó vốn tách biệt nhau.
- Quan hệ hàng hóa phát triển nhanh chóng ở thời kì chế độ phong kiến tan rã và
góp phần thúc đẩy q trình đó diễn ra mạnh mẽ hơn.
- Hình thức điển hình nhất, cao nhất, phổ biến nhất của sản xuất hàng hóa là sản
xuất hàng hóa TBCN. Dưới CNTB quan hệ hàng hóa thâm nhập vào mọi lĩnh vực,
mọi chức năng của nền sản xuất xã hội, hàng hóa trở thành tế bào của nền sản xuất
xã hội. Nó mang đặc điểm : Dựa trên sự tách rời tư liệu sản xuất với sức lao động
trên cơ sở bóc lột lao động làm thuê dưới hình thức chiếm đoạt giá trị thặng dư.
- Sản xuất hàng hóa tiếp tục tồn tại và phát triển dưới CNXH. Đặc điểm của sản
xuất hàng hóa XHCN là nó khơng dựa trên cơ sở chế độ người bóc lột người và nó
nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu vật chất, tinh thần của mọi thành viên xã hội trên
cơ sở sản xuất kinh doanh.
+ Tính ưu việt của sản xuất hàng hóa :
- Sản xuất hàng hóa tiếp tục tồn tại và phát triển ở nhiều xã hội là sản phẩm của
lịch sử phát triển sản xuất của lồi người. Bởi vậy nó có nhiều ưu thế, và là một
phương thức hoạt động kinh tế tiến bộ hơn hẳn so với sản xuất tự cấp tự túc.
- Thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động xã
hội.
- Thúc đẩy q trình xã hội hóa sản xuất nhanh chóng làm cho sự phân cơng
chun mơn hóa sản xuất ngày càng sâu sắc, hợp tác hóa chặt chẽ hình thành các


mối liên hệ kinh tế và sự phụ thuộc lẫn nhau của những người sản xuất hình thành
thị trường trong nước và thế giới.
- Thúc đẩy nhanh q trình tích tụ và tập trung sản xuất, đó là cơ sở để thúc đẩy
q trình dân chủ hóa, bình đẳng và tiến bộ xã hội.
=> Do sản xuất hàng hóa dựa trên sự phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa
sản xuất nên nó khai thác được những lợi thế tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng
người, từng cơ sở cũng như từng vùng, từng địa phương. Đồng thời, sản xuất hàng

hóa cũng tác động trở lại làm cho phân cơng lao động xã hội, chun mơn hóa sản
xuất ngày càng tăng, mối quan hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng trở nên mở
rộng, sâu sắc. Từ đó, làm cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng, nhu cầu
của xã hội được đáp ứng đầy đủ hơn.
- Trong nền sản xuất hàng hóa, quy mơ sản xuất khơng cịn bị giới hạn bởi nguồn
lực và nhu cầu của mỗi cá nhân, gia đình, mỗi cơ sở, mỗi vùng mà nó được mở
rộng, dựa trên cơ sở nhu cầu và nguồn lực xã hội. Từ đó, tạo điều kiện cho việc
ứng dụng những thành tựu KH-KT vào sản xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển,
chuyển từ sản xuất nhỏ sang sản xuất lớn.
- Trong nền sản xuất hàng hóa, để tồn tại và sản xuất có lãi, người sản xuất phải
luôn luôn năng động, cải thiện kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, nâng cao năng suất
lao động, giảm chi phí sản xuất, đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng.
Nhờ đó, lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, năng suất lao động tăng, hiệu quả
kinh tế ngày càng cao.
- Sự phát triển sản xuất, mở rộng và giao lưu kinh tế giữa các cá nhân, các vùng,
các nước … không chỉ làm cho đời sống vật chất mà cả đời sống văn hóa, tinh thần
cũng được nâng cao hơn, phong phú và đa dạng hơn.


- Do người đặt câu hỏi bình chọn nền kinh tế sản xuất hàng hóa ở nước ta thời gian
qua là một nền sản xuất vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều chỉnh của chính
phủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đứng trước vận hội mới của đất nước, nền
sản xuất hàng hóa ở nước ta có những thuận lợi nhất định và những khó khăn
khơng nhỏ.
Về thuận lợi : là 1 nền kinh tế đang lên với tốc độ phát triển cao, tạo được niềm tin
với các chủ đầu tư và bạn bè quốc tế. Việt Nam có giá nhân cơng rẻ, trình độ dân
trí khá cao, thị trường lớn với dân số đông, một đất nước ổn định về chính trị và
quyết tâm đổi mới mạnh mẽ của chính phủ về tài nguyên, về vị trí địa lí,…
Về khó khăn : phải khẳng định là nền kinh tế nước ta phải đối mặt với rất nhiều
khó khăn và thách thức lớn đi lên từ 1 nền nông nghiệp nhỏ lạc hậu, nền kinh tế ta

có đặc thù là sản xuất nhỏ lẻ mang nặng tính tự cung tự cấp, sức cạnh tranh yếu,
trình độ công nghệ sản xuất, quản lý, cơ sở hạ tầng còn nhiều yếu kém, chất lượng
lao động được đào tạo chưa đáp ứng được nhu cầu ngày 1 khắt khe của nền kinh tế,
người dân nước ta chưa có được cách nghĩ năng động, chính sách dù được cải thiện
cịn nhiều bất cập… bên cạnh đó các nền kinh tế khác và đặc biệt là Trung Quốc,
khu vực ĐNA đã và đang lên mạnh mẽ và cạnh tranh gay gắt với VN.
- Do mục đích của sản xuất hàng hóa không phải để thỏa mãn nhu cầu của bản thân
người sản xuất như trong kinh tế tự nhiên mà để thỏa mãn nhu cầu của người khác,
của thị trường. Sự gia tăng không hạn chế nhu cầu của thị trường là một động lực
mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển.
+ Cạnh tranh ngày càng gay gắt, buộc mỗi người sản xuất hàng hóa phải năng động
trong sản xuất-kinh doanh, phải thường xun cải tiến kĩ thuật, hợp lí hóa sản xuất
để tăng năng xuất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, nhằm tiêu thụ được


hàng hóa và thu được lợi nhuận ngày càng nhiều hơn. Cạnh tranh đã thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ.
+ Sự phát triển của sản xuất xã hội với tính chất “ mở “ của các quan hệ hàng hóa
tiền tệ làm cho giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các địa phương trong nước và quốc
tế ngày càng phát triển. Từ đó tạo điều kiện ngày càng nâng cao đời sống vật chất
và văn hóa của nhân dân.
2, Thị trường là gì ? Khái niệm, vai trò của các chủ thể tham gia :
- Theo nghĩa hẹp, thị trường là nơi diễn ra hành vi trao đổi, mua bán hàng hóa giữa
các chủ thể kinh tế với nhau.
- Theo nghĩa rộng, thị trường là tổng hòa các mối quan hệ liên quan đến trao đổi,
mua bán hàng hóa trong xã hội, được hình thành do những điều kiện lịch sử, kinh
tế, xã hội nhất định.
* Vai trò của các chủ thể tham gia thị trường :
a. Người sản xuất :
- Người sản xuất hàng hóa là những người sản xuất và cung cấp hàng hóa, dịch vụ

ra thị trường nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Người sản xuất bao gồm
các nhà sản xuất, đầu tư, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ... Họ là những người trực
tiếp tạo ra của cải vật chất, sản phẩm cho xã hội để phục vụ tiêu dùng.
- Người sản xuất là những người sử dụng các yếu tố đầu vào để sản xuất, kinh
doanh và thu lợi nhuận. Nhiệm vụ của họ không chỉ làm thỏa mãn nhu cầu hiện tại
của xã hội, mà còn tạo ra và phục vụ cho những nhu cầu trong tương lai với mục
tiêu đạt lợi nhuận tối đa trong điều kiện nguồn lực có hạn. Vì vậy, người sản xuất


luôn phải quan tâm đến việc lựa chọn sản xuất hàng hóa nào, số lượng bao nhiêu,
sản xuất với các yếu tố nào sao cho có lợi nhất.
- Ngồi mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận, người sản xuất cần phải có trách nhiệm đối
với con người, trách nhiệm cung cấp những hàng hóa dịch vụ khơng làm tổn hại tới
sức khỏe và lợi ích của con người trong xã hội.
b. Người tiêu dùng :
- Người tiêu dùng là những người mua hàng hóa, dịch vụ trên thị trường đề thỏa
mãn nhu cầu tiêu dùng. Sức mua của người tiêu dùng là yếu tố quyết định sự phát
triển bền vững của người sản xuất. Sự phát triển đa dạng về nhu cầu của người tiêu
dùng là động lực quan trọng của sự phát triển sản xuất, ảnh hưởng trực tiếp tới sản
xuất.
- Người tiêu dùng có vai trị rất quan trọng trong định hướng sản xuất. Do đó, trong
điều kiện nền kinh tế thị trường, người ticu cùng ngoài việc thỏa mãn nhu cầu của
mình, cần phải có trách nhiệm đối với sự phát triển bền vững của xã hội.
Lưu ý : việc phân chia người sản xuất, người tiêu dùng chỉ có tính chất tương đối
để thấy được chức năng chính của các chủ thể này khi tham gia thị trường. Trên
thực tế, doanh nghiệp ln đóng vai trị vừa là người mua cũng vừa là người bán.
c. Các chủ thể trung gian trong thị trường :
- Chủ thể trung gian là những cá nhân, tổ chức đảm nhiệm vai trò cầu nối giữa các
chủ thể sản xuất, tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ trên thị trường.
- Do sự phát triển của sản xuất và trao đổi dưới tác động của phân công lao động

xã hội, làm cho sự tách biệt tương đối giữa sản xuất và trao đổi ngày càng sâu sắc.


Trên cơ sở đó xuất hiện những chủ thể trung gian trong thị trường. Những chủ thể
này có vai trị ngày càng quan trọng để kết nối, thông tin trong các quan hệ mua,
bán.
- Nhờ vai trò của các trung gian này mà nền kinh tế thị trường trở nên sống động,
linh hoạt hơn. Hoạt động của các trung gian trong thị trường làm tăng cơ hội thực
hiện giá trị của hàng hóa cũng như thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Các chủ
thể trung gian làm tăng sự kết nối giữa sản xuất và tiêu dùng, làm cho sản xuất và
tiêu dùng trở nên ăn khớp với nhau.
- Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện đại ngày nay, các chủ thể trung gian
thị trường không phải chỉ có các trung gian thương nhân mà cịn rất nhiều các chủ
thể trung gian phong phú trên tất cả các quan hệ kinh tế như: trung gian môi giới
chứng khốn, trung gian mơi giới nhà đất, trung gian mơi giới khoa học.
=> Tóm lại : trong nền kinh tế thị trường, mọi quan hệ sản xuất và trao đổi, các
hoạt động của các chủ thể đều chịu sự tác động của các quy luật kinh tế khách quan
của thị trường; đồng thời chịu sự điều tiết, can thiệp của nhà nước qua việc thực
hiện hệ thống pháp luật và các chính sách kinh tế. Mơ hình kinh tế thị trường có sự
điều tiết của nhà nước ở từng nước, từng giai đoạn có thể khác nhau tùy thuộc vào
mức độ can thiệp của chính phủ đối với thị trường, song tất cả các mơ hình đều có
điểm chung là khơng thể thiếu vai trị kinh tế của nhà nước.
CHƯƠNG 3
1, Giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường :


- Giá trị thặng dư là mức độ dôi ra ngồi giá trị sức lao động do cơng nhân tạo ra
và bị nhà tư bản chiếm không, giá trị thặng dư là nguồn gốc hình thành lên thu
nhập của các nhà tư bản và các giai cấp bóc lột trong chủ nghĩa tư bản.
- Nghiên cứu học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác cũng có nghĩa là chúng ta

nghiên cứu học thuyết giữ vị trí “hịn đá tảng” trong toàn bộ lý luận kinh tế của C.
Mác, một trong những phát hiện vĩ đại của C. Mác làm sáng tỏ bản chất của quan
hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
- Khi sức lao động trở thành hàng hóa thì tiền tệ mang hình thái là tư bản và gắn
liền với nó là một quan hệ sản xuất mới xuất hiện: quan hệ giữa nhà tư bản và lao
động làm thuê. Thực chất của mối quan hệ này là nhà tư bản chiếm đoạt giá trị
thặng dư của công nhân làm thuê. Thực chất của mối quan hệ này là nhà tư bản
chiếm đoạt giá trị thặng dư của cơng nhân làm th.
- Có thể nói, qua giá trị thặng dư, bản chất của tư bản chủ nghĩa là bóc lột sức
người lao động để tạo ra nhiều thặng dư hơn cho mình. Việc họ bóc lột cơng nhân
càng nhiều thì giá trị thặng dư được tạo ra càng cao.
2, Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư :
- Mục đích của sản xuất TBCN khơng phải là giá trị sử dụng mà là giá trị, hơn nửa,
cũng không phải là giá trị đơn thuần mà là giá trị thặng dư. Nhưng để sản xuất giá
trị thặng dư, trước hết nhà tư bản phải sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó, vì giá
trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi và giá trị thặng dư.
- Quá trình sản xuất TBCN là sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị sử
dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. C. Mác viết: "Với tư cách là sự
thống nhất giữa quá trình lao động và quá trình tạo ra giá trị thì quá trình sản xuất


là một q trình sản xuất hàng hóa; với tư cách là sự thống nhất giữa quá trình lao
động và quá trình làm tăng giá trị thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất tư
bản chủ nghĩa, là hình thái tư bản chủ nghĩa của nền sản xuất hàng hố".
- Q trình sản xuất lương xí nghiệp tư bản đồng thời là quá trình nhà tư bản tiêu
dùng sức lao động và tư liệu sản xuất mà nhà tư bản đã mua, nên nó có các đặc
điểm :
Một là, cơng nhân làm việc dưới sự kiểm sốt của nhà tư bản, lao động của anh ta
thuộc về nhà tư bản giống như những yếu tố khác của sản xuất và được nhà tư bản
sử dụng sao cho có hiệu quả nhất.

Hai là, sản phẩm là do lao động của người cơng nhân tạo ra, nhưng nó khơng thuộc
về công nhân mà thuộc sở hữu của nhà tư bản.
=> Để hiểu rõ quá trình sản xuất giá trị thặng dư, chúng ta lấy việc sản xuất sợi của
một nhà tư bản làm ví dụ. Đây là sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị sử
dụng và quá trình lớn lên của giá trị hay là quá trình sản xuất giá trị thặng dư.
Giả định để sản xuất 10kg sợi, cần 10kg bông và giá 10 kg bơng là 10 $. Để biến
số bơng đó thành sợi, một công nhân phải lao động trong 6 giờ và hao mịn máy
móc là 2 $; giá trị sức lao động trong một ngày là 3 $ và sức lao động được mua
bán theo đúng giá trị. Ngày lao động là 12 giờ; trong một giờ lao động, người
công nhân tạo ra một lượng giá trị là 0,5 $; cuối cùng giả định trong quá trình sản
xuất sợi đã hao phí thời gian lao động cá biệt ngang bằng với hao phí lao động xã
hội cần thiết.
Với giả định như vậy, nếu nhà tư bản chỉ bắt công nhân lao động trong 6 giờ, thì
nhà tư bản phải ứng ra là 15 $ và giá trị của sản phẩm mới (10kg sợi) mà nhà tư


bản thu được cũng là 15 $. Như vậy, nếu quá trình lao động chỉ kéo dài đến cái
điểm đủ bù đắp lại giá trị sức lao động (6 giờ), tức là bằng thời gian lao động tất
yếu, thì chưa có sản xuất ra giá trị thặng dư, do đó tiền chưa biến thành tư bản.
Trong mua và giá trị mà sức lao động đó có thể tạo ra cho nhà tư bản là hai đại
lượng khác nhau mà nhà tư bản đã tính đến trước khi mua sức lao động. Nhà tư
bản đã trả tiền mua sức lao động trong một ngày (12 giờ). Việc sử dụng sức lao
động trong ngày đó là thuộc quyền của nhà tư bản.
Nếu nhà tư bản bắt công nhân lao động 12 giờ trong ngày như đã thoả thuận thì :
Chi phí sản xuất
Giá trị sản phẩm mới (20 kg sợi)
Tiền mua bông (20kg): 20$ Tiền hao mịn máy móc: 4$ Tiền mua sức lao động
ưong 1 ngày: 3$
Giá trị của bông được chuyển vào sợi: 20$ Giá trị của máy móc được chuyển vào
sợi: 4$ Giá trị mới do lao động của công nhân tạo ra trong 12 giờ lao động: 6$

Tổng cộng: 27$
Tổng cộng: 30$
Như vậy, tồn bộ chi phí sản xuất mà nhà tư bản bỏ ra là 27 $, còn giá trị của sản
phẩm mới (20 kg sợi) do công nhân sản xuất ra trong 12 giờ lao động là 30 $. Vậy
27 $ ứng hước đã chuyên hóa thành 30 $, đã đem lại một giá trị thặng dư là 3 $.
Do đó tiền tệ ứng ra ban đầu đã chuyển hóa thành tư bản.thực tế, q trình lao
động khơng dừng lại ở điểm đó. Giá trị sức lao động mà nhà tư bản phải trả khi...


Từ sự nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư, có thể rút ra những kết luận
sau đây :
- Một là, phân tích giá trị sản phẩm được sản xuất ra (20kg sợi), chúng ta thấy có
hai phần : Giá trị những tư liệu sản xuất nhờ lao động cụ thể của cơng nhân mà
được bảo tồn và di chuyển vào sản phẩm mới gọi là giá trị cũ (trong ví dụ là 24
$). Giá trị do lao động trừu tượng của công nhân tạo ra trong quá trình sản xuất
gọi là giá trị mới (trong ví dụ là 6 $). Phần giá trị mới này lớn hơn giá trị sức lao
động, nó bằng giá trị sức lao động cộng với giá trị thặng dư.
- Giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngồi giá trị sức lao động
do cơng nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. Quá trình sản xuất ra
giá trị thặng dư chỉ là quá trình tạo ra giá trị kéo dài quá cái điểm mà ở đó giá trị
sức lao động do nhà tư bản trả được hoàn lại bằng một vật ngang giá mới.
- Hai là, ngày lao động của công nhân bao giờ cũng được chia thành hai phần:
phần ngày lao động mà người công nhân tạo ra một lượng giá trị ngang với giá trị
sức lao động của mình gọi là thời gian lao động tất yếu và lao động trong khoảng
thời gian đó là lao động tất yếu. Phần còn lại của ngày lao động gọi là thời gian lao
động thặng dư, và lao động trong khoảng thời gian đó gọi là lao động thặng dư.
- Ba là, sau khi nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư, chúng ta nhận thấy
mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản đã được giải quyết: Việc chuyên hóa
của tiền thành tư bản diễn ra trong lưu thông, mà đồng thời khơng diễn ra trong
lĩnh vực đó. Chỉ có trong lưu thông nhà tư bản mới mua được một thứ hàng hóa

đặc biệt, đó là hàng hóa sức lao động. Sau đó, nhà tư bản sử dụng hàng hóa đặc
biệt đó trong sản xuất, tức là ngồi lĩnh vực lưu thông để sản xuất ra giá trị thặng
dư cho nhà tư bản. Do đó tiền của nhà tư bản mới chuyên thành tư bản.


- Việc nghiên cứu giá trị thặng dư được sản xuất ra như thế nào đã vạch rõ bản chất
bóc lột của chủ nghĩa tư bản.
CHƯƠNG 4
1, Các đặc điểm kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ nghĩa tư bản
độc quyền nhà nước :
* Chủ nghĩa tư bản độc quyền :
- Chủ nghĩa tư bản độc quyền là chủ nghĩa tư bản trong đó ở hầu hết các ngành,
các lĩnh vực của nền kinh tế tồn tại các tổ chức tư bản độc quyền và chúng chi phối
sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế.
a) Sự tập trung sản xuất và sự thống trị của các tổ chức độc quyền :
- Tích tụ và tập trung sản xuất cao dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền.
- Tổ chức độc quyền là liên minh giữa những nhà tư bản lớn để tập trung vào trong
tay một phần lớn (thậm chí tồn bộ) sản phẩm của một ngành, cho phép liên minh
này phát huy ảnh hưởng quyết định đến quá trình sản xuất và lưu thơng của ngành
đó.
* Những liên minh độc quyền, thoạt đầu hình thành theo sự liên kết ngang, tức
là sự liên kết những doanh nghiệp trong cùng ngành, dưới những hình thức
cácten, xanhđica, tờrớt.
- Cácten là hình thức tổ chức độc quyền dựa trên sự ký kết hiệp định giữa các xí
nghiệp thành viên để thoả thuận với nhau về giá cả, quy mô sản lượng, thị trường


tiêu thụ, kỳ hạn thanh tốn… cịn việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm vẫn do bản
thân mỗi thành viên thực hiện.
- Xanhđica là hình thức tổ chức độc quyền trong đó việc tiêu thụ sản phẩm do một

ban quản trị chung đảm nhiệm, nhưng sản xuất vẫn là công việc độc lập của mỗi
thành viên.
- Cácten và xanhđica dễ bị phá vỡ khi tương quan lực lượng thay đổi. Vì vậy, một
hình thức độc quyền mới ra đời là tờrớt. Tờrớt thống nhất cả việc sản xuất và tiêu
thụ vào tay một ban quản trị chung, còn các thành viên trở thành các cổ đơng.
- Tiếp đó, xuất hiện sự liên kết dọc, nghĩa là sự liên kết khơng chỉ những xí nghiệp
lớn mà cả những xanhđica, tờrớt… thuộc các ngành khác nhau nhưng có liên quan
với nhau về kinh tế và kỹ thuật, hình thành các cơngxcxiom.
- Từ giữa thế kỷ XX phát triển một kiểu liên kết mới – liên kết đa ngành – hình
thành những cơnglơmêrat (conglomerat) hay consơn (concern) khổng lồ thâu tóm
nhiều cơng ty, xí nghiệp thuộc những ngành cơng nghiệp rất khác nhau, đồng thời
bao gồm cả vận tải, thương mại, ngân hàng và các dịch vụ khác, v.v..
- Nhờ nắm được địa vị thống trị trong lĩnh vực sản xuất và lưu thơng, các tổ chức
độc quyền có khả năng định ra giá cả độc quyền.
- Giá cả độc quyền là giá cả hàng hóa có sự chênh lệch rất lớn so với giá cả sản
xuất. Họ định ra giá cả độc quyền cao hơn giá cả sản xuất đối với những hàng hóa
mà họ bán ra và giá cả độc quyền thấp dưới giá cả sản xuất đối với những hàng
hóa mà họ mua, trước hết là nguyên liệu. Qua đó họ thu được lợi nhuận độc quyền.
- Tuy nhiên, giá cả độc quyền không thủ tiêu được tác động của quy luật giá trị và
quy luật giá trị thặng dư. Vì xét tồn bộ xã hội thì tổng giá cả vẫn bằng tổng số giá


trị và tổng lợi nhuận vẫn bằng tổng giá trị thặng dư trong các nước tư bản chủ
nghĩa. Những thứ mà các tổ chức độc quyền kếch xù thu được cũng là những thứ
mà các tầng lớp tư sản vừa và nhỏ, nhân dân lao động ở các nước tư bản chủ nghĩa
và nhân dân ở các nước thuộc địa và phụ thuộc mất.
b) Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính :
- Tích tụ, tập trung tư bản trong ngân hàng dẫn đến sự hình thành các tổ chức độc
quyền trong ngân hàng. Từ chỗ làm trung gian trong việc thanh tốn và tín dụng,
nay do nắm được phần lớn tư bản tiền tệ trong xã hội, ngân hàng đã trở thành

người có quyền lực vạn năng chi phối các hoạt động kinh tế – xã hội.
- Các tổ chức độc quyền ngân hàng cho các tổ chức độc quyền công nghiệp vay và
nhận gửi những số tiền lớn của các tổ chức độc quyền công nghiệp trong một thời
gian dài, nên lợi ích của chúng xoắn xuýt với nhau, hai bên đều quan tâm đến hoạt
động của nhau, tìm cách thâm nhập vào nhau. Từ đó hình thành một loại tư bản
mới gọi là tư bản tài chính.
- Tư bản tài chính là sự thâm nhập và dung hợp vào nhau giữa tư bản độc quyền
ngân hàng và tư bản độc quyền trong công nghiệp.
- Bọn đầu sỏ tài chính (trùm tư bản tài chính) thiết lập sự thống trị của mình thơng
qua “chế độ tham dự”. Thực chất của chế độ tham dự là một nhà tư bản tài chính
hoặc một tập đồn tài chính, nhờ nắm được số cổ phiếu khống chế mà chi phối
được công ty gốc hay “công ty mẹ”, rồi qua công ty mẹ chi phối các công ty phụ
thuộc hay các “công ty con”, các công ty này lại chi phối các “công ty cháu” v.v..
Bởi vậy, với một số tư bản nhất định, một trùm tư bản tài chính có thể chi phối
được những lĩnh vực sản xuất rất lớn.


c) Xuất khẩu tư bản :
- Xuất khẩu hàng hóa là mang hàng hóa ra nước ngồi để thực hiện giá trị và giá trị
thặng dư, còn xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (đầu tư tư bản ra
nước ngồi) nhằm mục đích chiếm đoạt giá trị thặng dư ở các nước nhập khẩu tư
bản đó.
- Xuất khẩu tư bản trở thành tất yếu vì trong những nước tư bản chủ nghĩa phát
triển đã tích luỹ được một khối lượng tư bản lớn và nảy sinh tình trạng “thừa tư
bản”. Tình trạng thừa này khơng phải là thừa tuyệt đối, mà là thừa tương đối, nghĩa
là khơng tìm được nơi đầu tư có lợi nhuận cao ở trong nước. Tiến bộ kỹ thuật ở các
nước này đã dẫn đến tăng cấu tạo hữu cơ của tư bản và hạ thấp tỷ suất lợi nhuận;
trong khi đó, ở những nước kém phát triển về kinh tế, nhất là ở các nước thuộc địa,
dồi dào nguyên liệu và nhân công giá rẻ nhưng lại thiếu vốn và kỹ thuật.
- Do tập trung trong tay một khối lượng tư bản khổng lồ nên việc xuất khẩu tư bản

ra nước ngoài trở thành một nhu cầu tất yếu của các tổ chức độc quyền.
- Xét về hình thức đầu tư, có thể phân chia xuất khẩu tư bản thành xuất khẩu tư bản
trực tiếp và xuất khẩu tư bản gián tiếp. Xuất khẩu tư bản trực tiếp là đưa tư bản ra
nước ngoài để trực tiếp kinh doanh thu lợi nhuận cao.
- Xuất khẩu tư bản gián tiếp là cho vay để thu lợi tức.
- Việc xuất khẩu tư bản là sự mở rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra nước
ngồi, là cơng cụ chủ yếu để bành trướng sự thống trị của tư bản tài chính ra tồn
thế giới. Tuy nhiên, việc xuất khẩu tư bản, về khách quan có những tác động tích
cực đến nền kinh tế các nước nhập khẩu, như thúc đẩy quá trình chuyển kinh tế tự
cung tự cấp thành kinh tế hàng hóa, thúc đẩy sự chuyển biến từ cơ cấu kinh tế


thuần nông thành cơ cấu kinh tế nông – công nghiệp, mặc dù cơ cấu này còn què
quặt, lệ thuộc vào kinh tế của chính quốc.
d) Sự phân chia thế giới về mặt kinh tế giữa các liên minh độc quyền quốc tế :
- Việc xuất khẩu tư bản tăng lên về quy mô và mở rộng phạm vi tất yếu dẫn đến
việc phân chia thế giới về mặt kinh tế là phân chia lĩnh vực đầu tư tư bản, phân
chia thị trường thế giới giữa các tổ chức độc quyền. Cuộc đấu tranh giành thị
trường tiêu thụ, nguồn nguyên liệu và lĩnh vực đầu tư có lợi nhuận cao ở nước
ngoài trở nên gay gắt. Những cuộc đụng đầu trên trường quốc tế giữa các tổ chức
độc quyền có sức mạnh kinh tế hùng hậu dẫn đến các cuộc cạnh tranh khốc liệt
giữa chúng, tất yếu dẫn đến xu hướng thỏa hiệp, ký kết hiệp định để củng cố địa vị
độc quyền của chúng trong những lĩnh vực và những thị trường nhất định. Từ đó
hình thành các liên minh độc quyền quốc tế, các tập đoàn xuyên quốc gia…
e) Sự phân chia thế giới về mặt lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc :
- Khi đầu tư ra nước ngoài, đặc biệt là ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, tư bản
độc quyền không chỉ thu được lợi nhuận độc quyền không thôi mà là “siêu lợi
nhuận độc quyền” do có những điều kiện thuận lợi mà tài chính quốc khơng có
được như nguồn ngun liệu dồi dào giá rẻ hoặc lấy không, giá nhân công rẻ
mạt…Do đó ln diễn ra sự cạnh tranh khốc liệt giữa các tổ chức độc quyền thuộc

các quốc gia khác nhau. Điều này địi hỏi có sự can thiệp của nhà nước nhằm giúp
cho các tổ chức độc quyền của nước mình giành giật thị trường và mơi trường đầu
tư nhằm thu được siêu lợi nhuận độc quyền ở ngoại quốc. Sự can thiệp đó của nhà
nước đã biến nó thành một nước đế quốc chủ nghĩa.
- Chủ nghĩa đế quốc là sự kết hợp giữa yêu cầu vươn ra và thống trị ở nước ngoài
của tư bản độc quyền với đường lối xâm lăng của nhà nước.


- Chủ nghĩa đế quốc là một đặc trưng của chủ nghĩa tư bản độc quyền biểu hiện
trong đường lối xâm lược nước ngoài, biến những nước này thành hệ thống thuộc
địa của các cường quốc nhằm đáp ứng yêu cầu thu siêu lợi nhuận độc quyền của tư
bản độc quyền.
- Lợi ích của việc xuất khẩu tư bản : thúc đẩy các cường quốc tư bản đi xâm chiếm
các nước khác và lập nên hệ thống thuộc địa, vì trên thị trường thuộc địa dễ dàng
loại trừ được các đối thủ cạnh tranh, dễ dàng nắm được độc quyền nguyên liệu và
thị trường tiêu thụ. Đối với tư bản tài chính, khơng phải chỉ những nguồn ngun
liệu đã được tìm ra mới có ý nghĩa, mà cả những nguồn ngun liệu có thể tìm
được cũng rất quan trọng, do đó tư bản tài chính có khuynh hướng mở rộng lãnh
thổ kinh tế và thậm chí cả lãnh thổ nói chung. CNTB phát triển càng cao, nhu cầu
nguyên liệu càng lớn, sự cạnh tranh càng gay gắt thì cuộc đấu tranh để giành giật
thuộc địa giữa chúng càng quyết liệt.
- Bước vào thế kỷ XX, việc phân chia thế giới về mặt lãnh thổ giữa các đế quốc tư
bản ra đời sớm đã hồn thành. Nhưng sau đó các đế quốc ra đời muộn hơn đấu
tranh đòi chia lại thế giới. Đó là ngun nhân chính dẫn đến các cuộc Chiến tranh
thế giới lần thứ nhất 1914 – 1918 và lần thứ hai 1939 – 1945, và những xung đột
nóng ở nhiều khu vực trên thế giới…
* Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước :
- CNTB độc quyền nhà nước là chủ nghĩa tư bản độc quyền có sự điều tiết, can
thiệp của nhà nước về kinh tế, là phương thức kết hợp giữa sức mạnh của
tư bản độc quyền với sức mạnh kinh tế của nhà nước. Chủ nghĩa tư bản độc quyền

nhà nước là một nấc thang phát triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền.
a) Sự kết hợp về nhân sự giữa các tổ chức độc quyền và nhà nước tư sản


- V.I. Lênin đã từng nhấn mạnh rằng, sự liên minh về nhân sự của các ngân hàng
với công nghiệp được bổ sung bằng sự liên minh về nhân sự của ngân hàng và
cơng nghiệp với chính phủ theo kiểu : hôm nay là bộ trưởng, ngày mai là chủ ngân
hàng; hôm nay là chủ ngân hàng, ngày mai là bộ trưởng.
- Sự kết hợp về nhân sự được thực hiện thơng qua các đảng phái tư sản.
Chính các đảng phái này đã tạo ra cho tư bản độc quyền một cơ sở xã hội để thực
hiện sự thống trị và trực tiếp xây dựng đội ngũ công chức cho bộ máy nhà nước.
- Thơng qua các hội chủ xí nghiệp, một mặt, các đại biểu của các tổ chức độc
quyền tham gia vào bộ máy nhà nước với những cương vị khác nhau; mặt khác,
các quan chức và nhân viên chính phủ được cài vào các ban quản trị của các tổ
chức độc quyền, nắm giữ những chức vụ trọng yếu chính thức hoặc danh
dự, hoặc trở thành những người đỡ đầu các tổ chức độc quyền. Sự thâm
nhập vào nhau này (còn gọi là sự kết hợp) đã tạo ra những biểu hiện mới trong
mối quan hệ giữa các tổ chức độc quyền và cơ quan nhà nước từ trung
ương đến các địa phương ở các nước tư bản.
b) Sự hình thành và phát triển của sở hữu nhà nước
- Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống,
nhưng nét nổi bật nhất là sức mạnh của độc quyền và của nhà nước kết hợp với
nhau trong lĩnh vực kinh tế. Cơ sở của những biện pháp độc quyền nhà nước trong
kinh tế là sự thay đổi các quan hệ sở hữu. Nó biểu hiện khơng những ở chỗ sở hữu
nhà nước tăng lên mà cả ở sự tăng cường mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và
sở hữu độc quyền tư nhân, hai loại sở hữu này đan kết với nhau trong quá
trình chu chuyển của tổng tư bản xã hội.
- Sở hữu nhà nước hình thành dưới những hình thức sau đây :



– Xây dựng doanh nghiệp nhà nước bằng vốn của ngân sách
– Quốc hữu hố các xí nghiệp tư nhân bằng cách mua lại
– Nhà nước mua cổ phiếu của các doanh nghiệp tư nhân
– Mở rộng doanh nghiệp nhà nước bằng vốn tích luỹ của các doanh nghiệp , tư
nhân
c) Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản
- Sự điều tiết kinh tế của nhà nước được thực hiện bằng nhiều công cụ khác
nhau như pháp lý (luật chống độc quyền…), giá cả, thuế khóa, tài chínhtiền tệ, ngân hàng, phát triển các xí nghiệp nhà nước…Ví dụ, nhà nước phát triển
các xí nghiệp quốc doanh mở đường cho một số ngành, lĩnh vực mới phát triển,
sau đó chuyển giao lại cho các tổ chức độc quyền. Để cứu nguy cho nền kinh tế
trong những điều kiện nhất định, nhà nước có thể mua lại một số xí nghiệp làm ăn
thua lỗ và nhượng lại cho tư nhân khi nó đã đi vào hoạt động ổn định…
- Bản thân sự điều tiết của nhà nước cũng có mặt tích cực và mặt tiêu
cực. Những sai lầm trong sự điều tiết của nhà nước có khi lại đưa đến hậu quả tai
hại hơn là tác động tiêu cực của cạnh tranh tự do và độc quyền tư nhân. Vì thế, hệ
thống điều tiết kinh tế của nhà nước đã dung hợp cả ba cơ chế: thị
trường, độc quyền tư nhân và điều tiết của nhà nước nhằm phát huy mặt tích cực
và hạn chế mặt tiêu cực của từng cơ chế. Xét đến cùng và về bản chất, hệ thống
điều tiết đó phục vụ cho chủ nghĩa tư bản độc quyền.
CHƯƠNG 5
1, Khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở vn :


- Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tên gọi mà Đảng Cộng sản Việt
Nam đặt ra cho mơ hình kinh tế hiện tại của nước Cộng hịa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam. Nó được mơ tả là một nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, trong đó khu
vực kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, với mục tiêu dài hạn là xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
2, Đặc trưng của nên kinh tế thị trường của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa Việt
Nam :

* Những đặc trưng chung của nền kinh tế thị trường :
- Về chủ thể kinh tế : Các chủ thể kinh tế được tự do sản xuất kinh doanh theo luật
pháp và được bình đẳng khơng phân biệt đối xử. Các chủ thể kinh tế đều có cơ hội
để tiếp cận các nguồn lực phát triển có hiệu quả.
- Về thị trường : Thực hiện các giải pháp để tạo lập và phát triển các yếu tố thị
trường cơ bản như thị trường hàng hóa và dịch vụ; thị trường vốn, tiền tệ; thị
trường khoa học, công nghệ; thị trường lao động, thị trường bất động sản và lành
mạnh hóa các yếu tố thị trường đó nhằm tạo điều kiện cho nền kinh tế thị trường
phát triển ổn định, bền vững và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Về cơ chế vận hành : Tôn trọng tính khách quan của các quy luật kinh tế thị
trường; tính năng động của cơ chế thị trường.
- Về vai trò của Nhà nước : Nhà nước điều tiết nền kinh tế thị trường trên cơ sở
vận dụng các quy luật kinh tế của nền kinh tế thị trường vào điều kiện Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế để định hướng phát triển nền kinh tế, tạo
lập môi trường cho nền kinh tế phát triển ổn định, bền vững và hạn chế mặt trái của
cơ chế thị trường.


* Những đặc trưng riêng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam
- Về hệ thống mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã chỉ rỏ : phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhằm mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thực hiện: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”. Để thực hiện được mục tiêu đó trong phát triển nền kinh tế
thị trường, phải tạo điều kiện để giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất và khơng ngừng
phát triển lực lượng sản xuất; phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn với xây
dựng quan hệ sản xuất mới XHCN phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân
phối; phát triển kinh tế thị trường để từng bước xây dựng hạ tầng kinh tế cho chủ
nghĩa xã hội; cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân.

* Mục tiêu kinh tế - xã hội - văn hóa là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta phải đạt là :
- Làm cho dân giàu : Nội dung căn bản của dân giàu là mức bình quân GDP đầu
người tăng nhanh trong một thời gian ngắn và khoảng cách giàu, nghèo trong xã
hội ngày càng được thu hẹp.
- Làm cho nước mạnh : Thể hiện ở mức đóng góp to lớn của nền kinh tế thị trường
cho ngân sách quốc gia; ở sự gia tăng ngành kinh tế mũi nhọn; ở sự sử dụng tiết
kiệm, có hiệu quả các nguồn tài nguyên quốc gia; ở sự bảo vệ môi trường sinh thái,
bảo vệ các bí mật quốc gia về tiềm lực kinh tế, khoa học, công nghệ và an ninh,
quốc phịng.
- Làm cho xã hội cơng bằng, văn minh : Thể hiện ở việc xử lý các quan hệ lợi ích
ngay trong nội bộ nền kinh tế thị trường, ở đó việc góp phần to lớn vào giải quyết


×