Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MÁC LÊ NIN VỀ NHÀ NƯỚC VÀ SỰ VẬN DỤNG Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.21 KB, 18 trang )

MỞ ĐẦU
Nguồn gốc và bản chất của Nhà nước là một vấn đề phức tạp. Trong lịch sử tư
tưởng nhân loại đã xuất hiện nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí trái ngược nhau
về vấn đề này. Những học thuyết nhà nước xuất hiện trước khi chủ nghĩa Mác ra đời
thường tuyên truyền tính chất thần bí, thần thánh và duy tâm về nhà nước. Ngày nay
các nhà tư tưởng tư sản xuyên tạc một cách tinh vi hơn, che đậy bản chất nhà nước
một cách kín đáo hơn. Họ cho rằng, nhà nước tư sản hiện đại là nhà nước dân chủ
nhất là nhà nước phúc lợi chung. Những qaun điểm đó khơng những khơng đúng
đắn, khoa học mà ngược lại, che đậy, xuyên tạc bản chất đích thực của nhà nước. Lý
luận khoa học về nhà nước, nguồn gốc và bản chất của nhà nước chỉ có thể có được
khi vận dụng quan điểm duy vật lịch sử vào việc nghiên cứu sự phát triển xã hội
Quan điểm về nhà nước có một vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống lý luận
của triết học Mác-Lênin, bởi nó khơng thuần túy là những lý thuyết khoa học mà gắn
bó chặt chẽ với quan điểm chính trị. Chính vì vậy, tìm hiểu những tư tưởng của Mac
-Lênin về nhà nước có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với chúng ta trong q trình
xây dựng và hồn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay. Chính vì lẽ
đó tác giả chọn đề tài “ Quan điểm của triết học Mác – Lênin về nhà nước và sự
vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong xây dựng nhà nước Việt Nam” để
nghiên cứu.


CHƯƠNG 1. QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ NHÀ NƯỚC
1.1. Nguồn gốc và bản chất của nhà nước
1.1.1. Nguồn gốc của nhà nước
Theo quan điểm mácxít, nhà nước là một hiện tượng lịch sử,không phải xã hội nào
cũng có nhà nước. Nhà nước ra đời và tồn tại khi trong xã hội xuất hiện những mâu
thuẫn giai cấp phát triển đến mức khơng điều hồ được. Như vậy, trước khi giai cấp ra
đời thì khơng thể có nhà nước.
Xã hội cộng sản ngun thuỷ khơng có giai cấp, nhà nước cũng chưa xuất hiện.
Đứng đầu các thị tộc, bộ lạc - những tổ chức xã hội thời kỳ này - là những tộc trưởng,
hội đồng các tộc trưởng. Đó là những cơ quan quản lý xã hội cịn rất đơn giản và mang


tính tự quản.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất trong thời kỳ cuối của xã hội nguyên thủy đã
làm xuất hiện chế độ tư hữu và xã hội bị phân chia thành những giai cấp có lợi ích đối
lập nhau, mâu thuẫn nhau, đấu tranh gay gắt với nhau. Bộ máy quản lý mới phù hợp với
xã hội có đối kháng giai cấp ra đời. Bộ máy đó chính là nhà nước. Ph.Ăngghen viết: “xã
hội đó đã bị phân thành những mặt đối lập khơng thể điều hịa mà xã hội đó bất lực
khơng sao loại bỏ được. Nhưng muốn cho những mặt đối lập đó, những giai cấp có
quyền lợi kinh tế mâu thuẫn nhau đó, khơng đi đến chỗ tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt
luôn cả xã hội trong một cuộc đấu tranh vơ ích, thì cần phải có một lực lượng cần thiết,
một lực lượng rõ ràng là đứng trên xã hội, có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và giữ
cho sự xung đột đó nằm trong vịng “trật tự”. Và lực lượng đó, nảy sinh ra từ xã hội,
nhưng lại đứng trên xã hội và ngày càng tách rời khỏi xã hội, chính là nhà nước”.
Khi xã hội phân chia thành giai cấp, mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt khơng
thể điều hồ được thì nhà nước xuất hiện. Khẳng định điều đó, V.I.Lênin viết: “Nhà
nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp khơng thể điều hồ được.
Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai
cấp khơng thể điều hồ được, thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của nhà
nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là khơng thể điều hồ được”.


1.1.2. Bản chất của nhà nước
Nhà nước, về bản chất là quyền lực chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế, qua
đó nó thống trị về chính trị. Theo Ph.Ăngghen, “Vì nhà nước nảy sinh ra từ nhu cầu phải
kiềm chế những sự đối lập giai cấp; vì nhà nước đồng thời cũng nảy sinh ra giữa cuộc
xung đột của các giai cấp ấy, cho nên theo lệ thường, nhà nước là nhà nước của giai cấp
có thế lực nhất, của cái giai cấp thống trị về mặt kinh tế và nhờ có nhà nước mà cũng trở
thành giai cấp thống trị về mặt chính trị”.
Nhà nước là cơng cụ thống trị chính trị giai cấp, nhưng trong thực tế, nó lại tồn tại
như một cơng quyền, một quyền lực công cộng. Nhà nước là công cụ thống trị chính trị
giai cấp, nhưng trong thực tế, nó lại tồn tại như một công quyền, một quyền lực công

cộng. Vì vậy, nhà nước khơng chỉ mang tính giai cấp, mà cịn mang tính xã hội; khơng
chỉ có chức năng thống trị giai cấp mà cịn có những chức năng xã hội. Hơn nữa, chức
năng xã hội còn là cơ sở cho sự thống trị chính trị. Khi nhà nước nằm trong tay của giai
cấp đang đóng vai trị tiến bộ và cách mạng, thì tính tích cực của chức năng xã hội của
nó biểu hiện càng rõ rệt.
Do vậy, sẽ là mơ hồ nếu khơng thấy được tính chính trị, tính giai cấp của các chủ
trương, chính sách và sự tác động can thiệp của nhà nước vào các lĩnh vực kinh tế, văn
hoá, giáo dục, v.v.. Nhưng ngược lại, nếu quy các chức năng đa dạng của nhà nước về
chức năng giai cấp, hoặc tuyệt đối hố tính giai cấp, mà khơng thấy được tính xã hội, vai
trị tích cực sáng tạo của chức năng xã hội của nhà nước trong sự phát triển đất nước thì
sẽ là cực đoan, phiến diện.
1.2. Các kiểu nhà nước và hình thức nhà nước
Gắn liền với bản chất giai cấp, trong lịch sử đã xuất hiện bốn kiểu nhà nước khác
nhau: nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản và nhà nước vô sản. Mỗi
kiểu nhà nước lại có nhiều hình thức khác nhau. Hình thức nhà nước có ảnh hưởng trong
việc củng cố, bảo vệ và thực thi quyền lực nhà nước. Hình thức nhà nước không làm
thay đổi bản chất nhà nước. Khẳng định về vấn đề này, Ph.Ăngghen viết: “Nhà nước
chẳng qua chỉ là một bộ máy của một giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp khác,


điều đó, trong chế độ cộng hồ dân chủ cũng hoàn toàn giống như trong chế độ quân
chủ”.
Nhà nước chủ nơ có nhà nước chủ nơ dân chủ, có nhà nước chủ nơ q tộc; nhà
nước phong kiến có nhà nước phong kiến quân chủ phân quyền, có nhà nước quân chủ
tập quyền. Dưới chủ nghĩa tư bản hình thức nhà nước phổ biến là chế độ cộng hoà dân
chủ tư sản. Nhà nước vô sản là nhà nước kiểu mới, về bản chất nó là chính quyền của
nhân dân, là quyền lực của nhân dân. Đây là điểm khác nhau cơ bản của nhà nước vô
sản so với nhà nước của các giai cấp bóc lột. Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Trong đa số
những nhà nước đã từng tồn tại trong lịch sử, những quyền ban cho cơng dân cịn tỷ lệ
với tài sản của họ, và điều đó trực tiếp nói lên rằng nhà nước là một tổ chức của giai cấp

hữu sản, dùng để bảo vệ giai cấp này chống lại giai cấp khơng có của”.
V.I.Lênin viết: “chun chính vơ sản, nghĩa là việc tổ chức đội tiền phong của
những người bị áp bức thành giai cấp thống trị để trấn áp bọn áp bức, thì khơng thể giản
đơn đóng khung trong việc mở rộng chế độ dân chủ được. Đồng thời với việc mở rộng
rất nhiều chế độ dân chủ - lần đầu tiên biến thành chế độ dân chủ cho người nghèo, chế
độ dân chủ cho nhân dân chứ không phải cho bọn nhà giàu”, “Dân chủ cho tuyệt đại đa
số nhân dân”.
1.3. Nhà nước vô sản - tính tất yếu và đặc điểm của nhà nước vơ sản
1.3.1. Tính tất yếu của nhà nước vơ sản
Sau khi cách mạng thành công, giai cấp công nhân và nhân dân lao động vẫn cịn
cần có nhà nước của mình vì ba lý do sau:
Thứ nhất, xã hội còn phân chia giai cấp, cuộc đấu tranh giai cấp vẫn còn tiếp tục,
vẫn còn các lực lượng mưu toan phục hồi chế độ cũ, vẫn còn âm mưu xâm lược của các
thế lực đế quốc. Giai cấp công nhân, nhân dân lao động cần có nhà nước của mình để
trấn áp lực lượng phản cách mạng, trấn áp bọn phá hoại trật tự xã hội mới và bảo vệ tổ
quốc xã hội chủ nghĩa.


Thứ hai, xã hội trong thời kỳ quá độ vừa thốt thai từ xã hội cũ, cịn mang rất nhiều
dấu vết của xã hội cũ. Để quản lý một xã hội như vậy, vẫn cần có sự cưỡng chế, cần
pháp luật, kỷ cương, nghĩa là cần có nhà nước, cơng cụ làm chủ của nhân dân.
Thứ ba, xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp vĩ đại, khó khăn, phức tạp, nó địi
hỏi phải có một nhà nước do những người lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
lập ra để tổ chức quản lý công việc xây dựng xã hội mới. Nhà nước kiểu mới đó chính là
nhà nước vơ sản.
Khẳng định tính tất yếu của nhà nước vô sản, C.Mác viết: “Giữa xã hội tư bản chủ
nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang
xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của
thời kỳ ấy khơng thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô
sản”.

1.3.2. Những đặc điểm của nhà nước vô sản
Nhà nước vô sản là kiểu nhà nước cuối cùng trong lịch sử, nhà nước vơ sản có
những đặc trưng cơ bản của nhà nước nói chung - cơng cụ trấn áp của một giai cấp với
một giai cấp khác. Song, “chuyên chính” khơng phải là đặc trưng duy nhất của kiểu nhà
nước này. Nhà nước vơ sản có các đặc trưng khác với các nhà nước của giai cấp bóc lột.
Một là, lần đầu tiên trong lịch sử xuất hiện một nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Nó khơng còn là nhà nước của thiểu số thống trị đa số như trước đây, mà là nhà nước
của đa số “thống trị” thiểu số những kẻ chống lại lợi ích của nhân dân lao động. Cơ sở
xã hội và nòng cốt của nhà nước vô sản là liên minh công nhân, nơng dân, trí thức, tức
liên minh giữa các giai cấp, tầng lớp lao động, trong đó giai cấp cơng nhân đóng vai trị
lãnh đạo thơng qua đội tiên phong chính trị của mình. Trong nhà nước vơ sản, mọi
quyền lực đều thuộc về nhân dân. Nhân dân lao động khơng những làm chủ về chính trị
mà cịn làm chủ về kinh tế, văn hố, xã hội. Đó là bản chất của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Tính chất của dân, do dân, vì dân thể hiện thơng qua nguyên tắc tổ chức, cơ chế
hoạt động và pháp luật nhà nước.


Hai là, lần đầu tiên trong lịch sử, đã ra đời một nhà nước mà chức năng chủ yếu
nhất của nó khơng phải là bạo lực trấn áp mà là tổ chức xây dựng, phát triển xã hội.
V.I.Lênin chỉ rõ rằng: “Chunchính vơ sản… khơng phải chỉ là bạo lực đối với bọn bóc
lột, và cũng khơng phải chủ yếu là bạo lực” 58, mà chủ yếu là thực hiện được kiểu tổ
chức lao động xã hội cao hơn so với chủ nghĩa tư bản.
Với hai đặc điểm trên, nhà nước vơ sản khơng cịn là nhà nước theo ngun nghĩa
mà là nhà nước “nửa nhà nước”. Lần đầu tiên trong lịch sử xuất hiện một nhà nước của
dân, do dân và vì dân, chức năng chủ yếu nhất của nó khơng phải là bạo lực trấn áp mà
là tổ chức xây dựng, phát triển xã hội.


CHƯƠNG 2. VẬN DỤNG TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC VIỆT
NAM HIỆN NAY

2.1. Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng và hoàn thiện nhà
nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay
Nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là “Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà
nước là thống nhất; có sự phân cơng, phối hợp và kiểm sốt giữa các cơ quan trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ
chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: “Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật
thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân... Tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân cơng, phân
cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương”.Đó là nhà nước thuộc
phạm trù nhà nước vô sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ
quá độ ở Việt Nam là một tất yếu khách quan. Tính tất yếu đó khơng chỉ bắt nguồn từ
đặc điểm của thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội,
mà còn xuất phát từ thực tế và đòi hỏi của cách mạng Việt Nam là xây dựng nhà nước
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Trong đổi mới, Đảng ta chủ trương dân chủ hoá xã hội, dân chủ hoá tổ chức và
phương thức hoạt động của Nhà nước. Chủ trương đó khơng chỉ phản ánh địi hỏi tất yếu
khách quan của q trình xây dựng và hồn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
từ một đất nước chưa trải qua chế độ dân chủ tư sản, mà cịn bắt nguồn từ u cầu phải
khắc phục tình trạng thiếu dân chủ và dân chủ cịn mang nặng tính hình thức trong tổ


chức và hoạt động của Nhà nước ta. Mặt khác, do ảnh hưởng của chiến tranh và những
nguyên nhân khác, thực chất Nhà nước ta cịn mang nặng tính chất là một hệ thống quan
liêu, mệnh lệnh hành chính. Vì vậy, dân chủ hoá tổ chức và phương thức hoạt động của

Nhà nước ở nước ta phải gắn liền với quá trình đổi mới căn bản tổ chức và hoạt động
của Nhà nước.
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (1994) chủ trương xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta mới được chính thức khẳng định.
Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng coi xây dựng nhà nước
pháp quyền như một trong năm quan điểm cần quán triệt trong việc tiếp tục cải cách bộ
máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, qua tổng kết những thành tựu trong nghiên
cứu lý luận, cũng như thực tiễn từng bước xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta,
Đảng ta coi xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng
là một nhiệm vụ có tính chiến lược và xun suốt, trong “đẩy mạnh cải cách tổ chức và
hoạt động của nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng
định: “Đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” tập trung vào ba nội
dung lớn: một là, tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước, trong đó
nhấn mạnh đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, của Chính phủ; hai là, xây dựng
đội ngũ cán bộ, cơng chức trong sạch, có năng lực đáp ứng yêu cầu của tình hình mới;
ba là, tích cực phịng ngừa và kiên quyết đấu tranh phịng, chống tham nhũng, lãng phí,
thực hành tiết kiệm. Đại hội XII của Đảng coi việc tiếp tục xây dựng, hoàn thiện nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới
hệ thống chính trị.
Đại hội XIII thể hiện mạnh mẽ quyết tâm xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam khi không chỉ một lần nữa khẳng định lại quan
điểm: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm


của đổi mới hệ thống chính trị”, hơn thế, cịn xác định rõ: “Xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” là một trong những định hướng chiến lược phát triển
đất nước trong thời kỳ 2021 – 2030, đồng thời nhấn mạnh, “xây dựng Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa” cũng là một trong những nhiệm vụ trọng tâmđể đưa đất nước ta
bước vào một giai đoạn phát triển mới,thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược phát triển
đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”.

2.2. Những nguyên tắc cơ bản trong xây dựng nhà nước pháp quyền Xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
2.2.1. Xây dựng nhà nước dưới hình thức nhà nước pháp quyền
Để thể hiện và thực hiện đầy đủ bản chất quyền lực của mình, nhà nước xã hội
chủ nghĩa phải tồn tại dưới hình thức chế độ dân chủ, hơn nữa phải là chế độ dân chủ xã
hội chủ nghĩa, chế độ dân chủ cao nhất, triệt để nhất và rộng rãi nhất.
Hình thức chế độ dân chủ là hình thức bắt buộc đối với nhà nước xã hội chủ
nghĩa, nếu khơng muốn làm tha hóa bản chất quyền lực của minh. Khẳng định điều đó,
Ph.Ăngghen viểt: “Nếu có một điều gì chắc chắn thì đó là đảng ta và giai cấp cơng nhân
chỉ có thể đi đến nắm quyền thống trị dưới một hình thức chính trị, như nền cộng hòa
dân chủ. Nền cộng hòa này cũng chính là hình thức nhà nước xã hội chủ nghĩa từ một
đất nước không trải qua chế độ dân chủ tư sản, mà còn bắt nguồn từ yêu cầu phải khắc
phục tình trạng thiếu dân chủ và dân chủ cịn mang nặng tính hình thức trong tổ chức và
hoạt động của Nhà nước. Một trong những lý do chủ yếu của tình trạng đó là do, Nhà
nước chưa thực sự tồn tại dưới hình thức chế độ dân chủ, chưa xây dựng được những
thiết chế, cơ chế nhà nước thực hiện một cách hữu hiệu quyền dân chủ, quyền làm chủ
của nhân dân. Mặt khác, do ảnh hưởng của chiến tranh và những nguyên nhân khác, nên
Nhà nước còn mang nặng tính chất là một hệ thống quan liêu, mệnh lệnh hành chính. Vì
vậy, dân chủ hóa tổ chức và phương thức hoạt động của Nhà nước ở Việt Nam phải gắn
liền với quá trình đổi mới căn bản tổ chức và hoạt động của Nhà nước. Chủ trương đổi
mới Nhà nước theo mơ hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đánh dấu mốc
quan ừọng trong quá trình đổi mới và xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.


Có thể nói, trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước trước đây chưa sử dụng
thuật ngữ nhà nước pháp quyền, nhưng một số đặc trưng, giá trị phổ biến của nhà nước

pháp quyền thì đã được nhận thức và diễn đạt khá rõ nét trong các bản Hiến pháp 1946,
Hiến pháp 1959 và Hiến pháp 1980. Đó chính là kết quả của việc yận dụng tư tưởng về
nhà nước kiểu mới của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh.
Bước vào đổi mới, nhận thức của Đảng ta về nhà nước pháp quyền ngày càng đầy
đủ hơn, rõ ràng, cụ thể hom và quyết tâm xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa dưới hình
thức nhà nước pháp quyền cũng ngày càng cao hơn.
Tại Đại hội Đảng lần thứ VI, chủ trương đổi mới nhà nước đã manh nha một số
nội dung về nhà nước pháp quyền. Đó là sự khẳng định, “quản lý đất nước bằng pháp
luật, chứ không chỉ bằng đạo lý”. “Phải quan tâm xây dựng pháp luật. Từng bước bồ
sung và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật để bảo đảm cho bộ máy nhà nước được tổ chức
và hoạt động theo pháp luật”. Đến Đại hội VII, quan điểm đổi mới tứià nước được bổ
sung thêm nội dung: “Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp, vói sự phân cơng rành mạch ba quyền đó”. Như vậy, qua hai nhiệm kỳ Đại hội
của thời kỳ đổi mới, tư duy về đổi mới nhà nước theo hướng xây dựng nhà nước pháp
quyền của Đảng có những bước tiến quan trọng. Tuy nhiên, đến Hội nghị đại biểu toàn
quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994) chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở nước ta mới được chính thức khẳng định. Thuật ngữ nhà nước pháp quyền
lần đầu tiên được chính thức sử dụng trong Văn kiện quan trọng của Đảng. Đến Đại hội
lần thứ IX, Đảng ta mới có quyết tâm cao trong việc đổi mới Nhà nước theo hướng xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong Văn kiện Đại hội IX, Đảng ta coi:
“Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng” là một
nhiệm vụ có tính chiến lược và xun suốt trong đổi mới, xây dựng và hoàn thiện nhà
nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đối với Việt Nam là điều mới
mẻ, hiểu biết của chúng ta cịn ít, có nhiều việc phải vừa làm, vừa tìm tịi, rút kinh
nghiệm. Mơ hình nhà nước pháp quyền đã được nhân loại thử nghiệm, chọn lọc qua


nhiều thế kỷ và đang trở thành hình thức phổ biến trên thế giới. Tuy nhiên, xây dựng
nhà nước pháp quyền ở Việt Nam khơng có nghĩa là “bê ngun” những mơ hình ấy áp

đặt vào nước ta.
Nhà nước pháp quyền mà Việt Nam chủ trương xây dựng lả Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, nhà nước đó về bản chất là đối lập với nhà nước pháp quyền tư sản.
Hơn nữa, ngay ở phương Tây, các nhà nước pháp quyền cũng khơng hồn tồn giống
nhau. Nhà nước pháp quyền là hình thức nhà nước ngày nay được nhiều nước lựa chọn,
song nó phải được xây dựng sao cho phù hợp với đặc điểm và truyền thống dân tộc,
cũng như trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, dân trí của xã hội. Vì vậy, xây dựng nhà
nước pháp quyền ở nước ta phải có sự chuẩn bị về mặt lý luận, thận trọng trong từng
bước đi cho phù hợp với thực tế, tránh nơn nóng, chủ quan.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền trong
thời gian vừa qua, có thể rút ra những đặc trung cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam như sau:
Một là, đó là nhà nước của dân, do dân và vì dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân.
Hai là, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hơp và kiểm sốt
chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp.
Ba là, Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và
bảo đảm cho Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí . tối thượng trong việc điều chỉnh các
quan hệ thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Bốn là, Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; nâng
cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân; thực hành dân chủ, đồng thòi tăng
cường kỷ cương, kỷ luật.
Năm là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo, đồng thời bảo đảm sự giám sát của nhân dân, sự phản biện xã hội của


Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận.
Trải qua hơn 15 nãm tập trung đổi mới Nhà nước theo hướng xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đến Đại hội lần thứ XII, trong phương hướng, nhiệm vụ

“Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, Đảng ta khẳng định:
“Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh
đạo ỉà nhiệm vụ trọng tầm của đổi mới hệ thống chinh trị”. Và chỉ ra những nhiệm vụ
cơ bản, đó là: 1) Tiếp tục hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức của Nhà
nước theo quy định của Hiển pháp năm 2013. Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo
Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật; 2) Đẩy mạnh việc
hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật. Bảo đảm pháp luật vừa là công
cụ để Nhà nước quản lý xã hội vừa là công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám sát
quyền lực nhà nước. Quản lý đất nước theo pháp luật, đồng thời coi trọng xây dựng nền
tảng đạo đức xã hội; 3) Xác định cơ chế phân công, phối hợp, thực thi quyền lực nhà
nước, nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống
nhất
2.2.2. Phát huy chức năng xã hội trên cơ sở đảm bảo sự thống nhất giữa tính giai
cấp và tính xã hội của nhà nước
Cũng như các nhà nước khác, nhà nước xã hội chủ nghĩa có cả chức năng bạo lực
trấn áp và chức năng tổ chức xây dựng. Nhưng điểm khác nhau hết sức cơ bản so vói
các nhà nước bóc lột là đối với nhà nước xã hội chủ nghĩa, chức năng tổ chức xây dựng
là chủ yếu. V.I.Lênin đã nhiều lần chỉ ra rằng, thực chất của chun chính vơ sản không
phải chỉ là bạo lực và cũng không phải chủ yếu là bạo lực. Điều chủ yếu trong nền
chuyên chính của giai cấp cơng nhân là những nhiệm vụ và chức năng có tính chất sáng
tạo, là “đưa ra được và thực hiện được kiểu tổ chức lao động xã hội cao hơn so với chủ
nghĩa tư bản. Đấy là thực chất của vấn đề. Đấy là nguồn sức mạnh, là điều bảo đảm cho


thắng lợi hoàn toàn và tất nhiên của chủ nghĩa cộng sản”. Bởi lẽ, “xét đến cùng, thi năng
suất lao động là cái quan trọng nhất, chủ yếu nhất cho thắng lợi của chế độ xã hội mới”.
Đưa ra được và thực hiện được kiểu tổ chức lao động xã hội cao hơn, một phương thức
sản xuất có năng suất lao động cao hơn khơng phải vi lợi ích ích kỷ của một giai cấp, mà
vì lợi ích của sự tiến bộ xã hội, vì lợi ích của quảng đại quần chúng lao động. Như vậy

xét về bản chất, sứ mệnh cùa nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước có khả năng thực
hiện tốt nhất chức năng xã hội của mình. Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong quá trình thực
hiện chức năng xã hội vượt qua được những ừở ngại mà bất kể một nhà nước bóc lột nào
cũng không thể vượt qua được, trở ngại về sự đối kháng về lợi ích, mà trước hết là lợi
ích kinh tế gỉữa giai cấp thống trị với quần chứng lao động.
Trước đây, trong quá trình xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, ở những mức độ
khác nhau chúng ta đã quá nhấn mạnh tính giai cấp, tính chính trị của nhà nước, ít quan
tâm nghiên cứu chức năng xã hội của nhà nước. Thậm chí có thời kỳ còn quan niệm một
cách giản đơn về phát huy chức năng xã hội của nhà nước: Nhà nước can thiệp càng sâu,
càng tỉ mỉ vào các quá ưìãh kinh tế - xã hội càng tốt. Hậu quả là bộ máy nhà nước ưở
nên nặng nề, cồng kềnh, cách thức hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả. Kinh tế - xã hội bị
gị bó, kém năng động. Đây cũng là một trong những nguyên nhân đẩy chủ nghĩa xã hội
rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng.
Trong đổi mới, Đảng ta một mặt vẫn kiên trì quan điểm giai cấp trong xây dựng
và đổi mới nhà nước, mặt khác rất chú trọng cải cách bộ máy nhà nước, đổi mới tổ chức
và phương thức hoạt động của nhà nước cho phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Tổ chức bộ máy như thế nào, cơ chế quản lý mọi mặt của đời sống xã hội ra sao, sự can
thiệp của Nhà nước vào các quá trình kinh tế - xã hội ở mức độ nào là thích hợp để phát
huy vai trò của chức năng xã hội của Nhà nước đã và đang là vấn đề đặt ra ở nước ta.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, để phát huy chức năng xã hội của Nhà nước,
trong Văn kiện Đại hội lần thứ XII khi nói về nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu phát triển
kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020, Đảng ta đã chỉ ra một số nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
- Xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, vững mạnh. Nâng cao hiệu lực, hiệu


quả quản lý và định hướng phát triển kinh tế - xã hội. Tập trung tạo dựng thể chế, pháp
luật, cơ chế, chính sách và mơi trường, điều kiện thuận lợi, an toàn để kinh tế thị trường
vận hành đầy đủ, thông suốt, hiệu quả và hội nhập quốc tế; phát huy mạnh mẽ quyền
dân chủ, tự do sáng tạo của người dân trong phát triển kinh tế - xã hội.
- Phân định rõ chức năng của Nhà nước và chức năng của thị trường. Nhà nước

quản lý và định hướng phát triển kinh tế - xã hội bằng pháp luật, quy hoạch, kế hoạch và
các công cụ điều tiết phù hợp với kinh tế thị trường, giảm thiểu can thiệp bằng mệnh
lệnh hành chính.
- Hồn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, cơng khai,
minh bạch đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Tạo chuyển
biến mạnh mẽ trong nhận thức và xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà
nước nhằm phục vụ tốt nhất người dân và doanh nghiệp. Khuyến khích, hỗ trợ cho mọi
ý tưởng sáng tạo, thúc đẩy đổi mới, phát triển, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, xã hội,
khoa học - cơng nghệ, vãn hóa, nghệ thuật,...
- Xây dựng chính phủ kiến tạo, nền hành chính hiện đại, chuyên nghiệp, kỷ
cương, năng động, hiệu lực, hiệu quả, lấy kết quả phục vụ và mức độ hài lòng của người
dân, doanh nghiệp là tiêu chí đánh giá. Tăng cường cơng khai, minh bạch và trách
nhiệm giải trình.
- Tập trung cải cách thủ tục hành chính theo hướng tinh giản, gắn với nâng cao
chất lượng chính sách, pháp luật; quy định rõ cơ quan chịu trách nhỉệm đối YỚi từng thủ
tục hành chính. Cơng khai, minh bạch các quy trình, thủ tục hành chính. Thiết lập hệ
thống thơng tin tiếp nhận, xử lỷ kiến nghị và kết quả giải quyết thủ tục hành chính.
- Hồn thiện cơ chế phân cấp, bảo đảm thống nhất, thông suốt trong lãnh đạo,
quản lý, điều hành tự Trung ương đến cơ sở. Phân định rõ quyền hạn và trách nhiệm
trong quản lý kinh tế, xã hội giữa Trung ương và địa phương, bảo đảm sự tập trung
thống nhất quản lý của Trung ương và phát huy tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của
các cấp chính quyền địa phương.


- Hồn thiện tồ chức và hoạt động của chính quyền địa phương bảo đảm phục vụ
tốt nhất người dân, doanh nghiệp. Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm quản lý nhà
nước về kinh tế, xã hội đối với chính quyền các cấp
2.2.3. Xây dựng nhà nước gắn liền với cuộc đấu tranh ngăn ngừa và khắc phục
bệnh quan liêu, tham nhũng
Nhà nước xã hội chủ nghĩa khơng dung hịa vói bệnh quan liêu, tham nhũng.

Quan liêu làm tha hóa bản chất quyền lực nhà nước, làm suy yếu chế độ xã hội chủ
nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi quan liêu, tham nhũng là kẻ thù của nhân dân, kẻ thù
của chủ nghĩa xã hội, là một thứ “giặc trong lịng”, “giặc nội xâm”. Chính vì vậy phải
loại trừ bệnh quan liêu ra khỏi bộ máy nhà nước.
Quan liêu, tham nhũng là hiện tượng xa lạ với bản chất của nhà nước xã hội chủ
nghĩa, nhưng lại là một căn bệnh rất dễ phát sinh, nhất là khi nhà nước đó chưa tồn tại
trên cơ sở của chính nó. Trên thực tế, nhà nước ở các nước xã hội chủ nghĩa đã nhiễm
phải căn bệnh này ở những mức độ khác nhau. Đe bảo đảm nhà nước trong sạch, vững
mạnh, phảỉ kiên quyết đấu tranh loại bỏ căn bệnh nguy hiểm này.
Tuy nhiên, còn nhà nước là còn khả năng quan liêu, tham nhũng. Do đó, cuộc đấu
tranh chống quan liêu, tham nhũng đòi hỏi phải được tiến hành thường xuyên, bền bỉ và
lâu dài. Nói về điều đó, V.I.Lênin viết: “Chỉ khi nào toàn thể nhân dân đều tham gia
quản lý thì khi ấy mới có thể đả phá chù nghĩa quan liêu đến cùng, đến thắng lợi hồn
tồn được”. Vì vậy để đoạn tuyệt với quan liêu, tham nhũng, theo V.I.Lênin phải “thi
hành ngay những biện pháp khiến tất cả mọi người đều làm chức năng kiểm sát và giám
thị, khiến tất cả mọi người đều tạm thời biến thành “quan liêu”, và, do đó, khiến khơng
một ai có thể biến thành “quan liêu” được”.
Nước ta xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa từ một xã hội không kinh qua chế
độ dân chủ tư sản, một xã hội mà trình độ kinh tế, văn hóa cịn thấp kém, thì cuộc đấu
tranh đó càng khó khăn, phức tạp và lâu dài. Trong q trình xây dựng chính quyền cách
mạng, chính quyền nhân dân, Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm đến cuộc đấu tranh


chống quan liêu, tham nhũng. Tuy nhiên, hiện nay quan liêu, tham nhũng ở nước ta đang
thực sự là nguy cơ lớn, nó đang có chiều hướng lộng hành, gây bất bình trong nhân dân,
làm suy yếu nhà nước, cuộc đấu tranh này, do đó, đang nổi lên như một nhiệm vụ cấp
thiết hơn bao giờ hết.
Trong thời kỳ đổi mới, sau một số năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2)
khóa VIII về lĩnh vực đấu tranh phòng và chống quan liêu, tham nhũng, Hội nghị Trung
ương 4 khóa IX đã chỉ ra rằng: Chúng ta đã đạt được một số kết quả có tác dụng cảnh

báo, rân đe, ngăn ngừa, kiềm chế nhất định nhưng vẫn chưa đạt yêu cầu đề ra, chưa ngăn
chặn và đẩy lùi được các tệ nạn đó. Đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng ở nước ta đẫ
và đang là vấn đề bức xúc,
Nói về quyết tâm trong cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, Văn kiện
Đại hội lần thứ X chỉ rõ: “Tỉch cực phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng
phí là địi hỏi bức xúc của xã hội, là quyết tâm chính trị của Đảng ta, nhằm xây dựng
một bộ máy lãnh đạo và quản lý trong sạch, vững mạnh, khắc phục một trong những
nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ ta”.
Đồng thời, trong Văn kiện này, Đảng cũng đã chỉ ra một số biện pháp cụ thể phải
tién hành sắp tới: “Phải thi hành một cách kiên quyết và đồng bộ hệ thống các biện pháp
phịng, chống tham nhũng, lãng phí, bao gồm: bổ sung, hoàn thiện các quy định về quản
lý kinh tế - tài chính, về thanh tra, kiểm tra; tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, sắp
xếp, tổ chức bộ máy gọn nhẹ; bảo đảm công khai, minh bạch các hoạt động kinh tế, tài
chính trong các cơ quan, đơn vị; tiếp tục đổi mói chế độ tiền lương đối vói cán bộ cơng
chức. Khẩn trương và nghiêm chỉnh thực hiện Luật Phòng, chổng tham nhũng, Luật
Thực hành tiết kiệm, chống lãng phỉ; bổ sung, sửa đổi Luật Khiếu nại và tố cảo. Xử lý
kiên quyết, kịp thời, công khai những người tham nhũng bất kể ở chức vụ nào, đương
chức hay đã nghỉ hưu... Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ờ cơ sở; phát huy vai trò của cơ
quan dân cử, của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của nhân dân trong
việc giám sát cán bộ, công chức và cơ quan công quyền; phát hiện, đấu tranh với các
hành vi tham nhũng, lãng phí”.


Tuy vậy, đến Đại hội lần thứ XI, XII, XIII Đảng vẫn thấy rằng: “Quan liêu, tham
nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, chưa được
ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc xã hội” rằng tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí cịn diễn
biển phức tạp. Vì vậy, khẳng định phải tiếp tục đẩy mạnh chống quan liêu, tham nhũng,
lãng phí./.

KẾT LUẬN

Ở Việt Nam, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với nền tảng tư tưởng là
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Mnh đối với sự nghiệp xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là một tất yếu lịch sử và tất yếu
khách quan. Đối với dân tộc Việt Nam, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối
với nhà nước, đối với xã hội không chỉ là tất yếu lịch sử, tất yếu khách quan mà còn là ở
chỗ sự lãnh đạo đó cịn có cơ sở đạo lý sâu sắc và cơ sở pháp lý vững vàng. Sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản - Đảng duy nhất cầm quyền đối với đời sống xã hội và đời sống nhà
nước không những không trái (mâu thuẫn) với bản chất nhà nước pháp quyền nói chung
mà cịn là điều kiện có ý nghĩa tiên quyết đối với q trình xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta.
Trong ý nghĩa ấy, nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, một Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng
và kim chỉ nam hành động là một trong những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đối với Nhà nước, sự lãnh đạo của Đảng là lãnh đạo


chính trị, quyết định phương hướng chính trị của Nhà nước, bảo đảm cho Nhà nước ta
thực sự là tổ chức thực hiện quyền lực của nhân dân, thực sự của dân, do dân và vì dân,
để thực hiện thành công công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước triển khai tổ chức thực hiện các nghị quyết, chủ trương của Đảng bằng các
hoạt động quản lý nhà nước, tổ chức tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân tham gia quản
lý nhà nước, quản lý xã hội trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội, an
ninh, quốc phịng, đối ngoại…

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.C.Mác và Ph.Ăngghen (1995),Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, t.22
2. C.Mác và Ph.Ăngghen, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia. H. 1995, t.21
3. V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1976, t.33
4.C.Mác và Ph.Ăngghen (1995),Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, t.19
5.V.I.Lênin (1977),Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, Mát-xcơ-va, t.39

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011),Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
7.Đảng Cộng sản Việt Nam (2001),Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX,
Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội
8. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2016
9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII,
Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021



×