Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Phân tích tư tưởng hồ chí minh về đoàn kết quốc tế và sự vận dụng trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.09 KB, 31 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA MARKETING – QUẢN TRỊ THƯƠNG HIỆU

BÀI THẢO LUẬN

ĐỀ TÀI 1: Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế
và sự vận dụng trong giai đoạn hiện nay.
ĐỀ TÀI 2: Phân tích Tư tưởng của Hồ Chí Minh về đạo đức?
Liên hệ tới quá trình tu dưỡng đạo đức của sinh viên trường
Đại học Thương mại hiện nay?

Giảng viên hướng dẫn: ThS. Ngô Thị Huyền Trang
Mơn: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Nhóm thực hiện: Nhóm 4
Lớp học phần: 2158HCMI0111

1


Hà Nội – 2021
I. MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa
kiệt xuất của Việt Nam đã để lại cho chúng ra một di sản tinh thần
vô giá, một hệ thống tư tưởng về nhiều mặt. Trong đó tư tưởng về đại
đồn kết là tư tưởng nổi bật, có giá trị trường tồn đối với quá trình
phát triển của dân tộc ta và của toàn nhân loại. Đây là tư tưởng
xuyên suốt và nhất quán trong tư duy lý luận và trong hoạt động
thực tiễn của Hồ Chí Minh và đã trở thành “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt
các hoạt động đối ngoại từ khi lập quốc đến nay.
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết quốc gia là nội dung mang tính
chiến lược trong tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Bài học


đại đồn kết quốc tế ngày càng mang tính thời sự, có ý nghĩa hết sức
quan trọng trong bối cảnh ngày nay – đất nước đang chuyển mình
mạnh mẽ để đón nhận những cơ hội cùng thách thức lớn của quá
trình hội nhập ngày một sâu, rộng.
II. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc
tế
2.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh là gì ?
Theo Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản
Việt Nam (2011): “Tư tưởng Hồ Chí Minh” là một hệ thống quan điểm
tồn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội
chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ
nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát
triển các giá trị truyền thống tốt đẹp dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của
Đảng, dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của
nhân dân ta giành thắng lợi”
2.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế.

2


“Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết quốc tế” là hệ thống
những luận điểm, nguyên tắc, phương pháp giáo dục. Tư tưởng này
trước hết là đoàn kết trong phong trào cộng sản, cơng nhân quốc tế
và đồn kết trong các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Đoàn kết quốc
tế là nhân tố đảm bảo sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội cũng như
thắng lợi của công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, phi thực
dân hóa trên phạm vi tồn thế giới. Nói cách khác, tư tưởng về đoàn

kết quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh là những định hường, nền tảng,
cơ sở lý luận quan trọng cho việc hoạch định và thực thi đường lối,
chính sách đối ngoại Việt Nam, là ánh sáng soi đường của đối ngoại
Việt Nam.
2.1.3. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết
quốc tế
2.1.3.1. Truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
Ý thức quốc gia, dân tộc, làm chủ đất nước của cộng đồng người
Việt có từ ngàn xưa. Cuộc chiến đấu với thiên nhiên, với giặc ngoại
xâm trong lịch sử ngàn năm đã hun đúc nên truyền thống tốt đẹp
của người Việt Nam: Yêu nước nồng nàn, độc lập tự chủ, kiên cường
bất khuất, đoàn kết thống nhất, nhân ái khoan dung.
Trước hết, là. Chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá
trình lịch sử của dân tộc Việt Nam. Những nội dung chủ yếu của chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam đã từng bước được đúc kết, hình thành một
hệ thống các nguyên lý với tư tưởng của các anh hùng hào kiệt như:
Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi,… chính sức mạnh
truyền thống ấy đã thúc giục người thanh niên Nguyễn Tất Thành ra
đi tìm đường chủ nghĩa yêu nước cứu nước. Đó cũng là động lực chi
phối mọi suy nghĩ, hành động của Người trong suốt cuộc đời hoạt
động cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: Lúc đầu, chính chủ
nghĩa yêu nước chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi theo
Lênin, tin theo quốc tế thứ III. Truyền thống yêu nước của dân tộc
được Nguyễn Tất Thành tiếp thu từ những ngày ở quê hương và trên
con đường bôn ba khắp năm châu bốn bể. Người đã đến với những
người lao động trên thế giới, đến với tình hữu ái vơ sản và đến với

3



Chủ nghĩa Mác – Lênin, đó là con đường cứu nước, giải phóng dân
tộc.
Thứ hai, đó là tinh thần đồn kết, tương ái của dân tộc. Truyền
thống này hình thành cùng một lúc với sự hình thành dân tộc, từ
hồn cảnh và yêu cầu đấu tranh chống thiên nhiên, chống giặc ngoại
xâm. Người Việt Nam quen gắn bó với nhau trong tình làng nghĩa
xóm, tối lửa tắt đèn có nhau. Bước sang thế kỷ XX, mặc dù xã hội
Việt Nam có sự phân hóa về giai cấp, truyền thống này vẫn bền
vững. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã chú ý kế thừa và phát huy sức mạnh
truyền thống đoàn kết của dân tộc để hình thành tư tưởng đồn kết
quốc tế, phấn đấu vì một thế giới hịa bình, ổn định và phát triển.
Thứ ba, ngoại giao truyền thống của Việt Nam cũng là một nhân
tốc quan trọng hình thành tư tưởng đồn kết quốc tế của Hồ Chí
Minh. Ngoại giao truyền thống Việt Nam xem trọng việc giữ hòa khí,
đồn kết hữu nghị với các nước, phấn đấu cho sự thái hịa, u
chuộng hịa bình là bản chất của ngoại giao Việt Nam. Trong khi lập
trường nguyên tắc giữ vững độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ,
chống lại sự xâm lược của các ngoại bang. Đại Việt luôn kiên trì
đường lối hịa bình trong quan hệ ngoại giao với các nước láng giềng.
Hòa hiếu là tư tưởng cốt lõi của ngoại giao Đại Việt đúng như nhà sử
học Phan Huy Chú đã đúc kết lịch sử ngoại bang của đất nước chúng
ta: “Trong việc trị nước, hòa hiếu với láng giềng là việc lớn”.
2.1.3.2.Chủ nghĩa Mác – Lênin và Quốc tế cộng sản
Sau nhiều năm bôn ba ở các nước, cuối năm 1917, Nguyễn Ái
Quốc trở lại nước Pháp, tham gia phong trào công nhân Pháp và gia
nhập Đảng Xã hội Pháp. Nguyễn Ái Quốc muốn nhanh chóng tìm ra
con đường cứu nước đúng đắn và tìm lực lượng đoàn kết tin cậy. Điều
quan trọng hơn hết của Nguyễn Ái Quốc là “sự đoàn kết”, “đoàn kết
với các dân tộc thuộc địa”. Hầu hết trong các buổi mít ting, thảo
luận, Người đều phát hiện và khéo lái những vấn đề đang thảo luận

sang vấn đề đoàn kết với các vấn đề thuộc địa. Người đã từng nói:
“Trong các cuộc bàn cãi, người ta rất ít nói đến sự đồn kết với các
dân tộc thuộc địa, nhưng đó lại là vấn đề mà tôi quan tâm hơn hết.”

4


Sau khi được biết Quốc tế thứ III do Lênin sáng lập có chủ
trương đồn kết các dân tộc thuộc địa và nhất là được đọc “Bản sơ
thảo lần thứ nhất luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của
Lênin, lần đầu tiên Nguyễn Ái Quốc biết có một tổ chức quốc tế ủng
hộ sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc bị áp bức. Luận cương của
Lênin đã giải quyết trọn vẹn một vấn đề rất cơ bản mà Nguyễn Ái
Quốc đặc biệt quan tâm là vấn đề dân tộc và thuộc địa đặt ra trong
mối quan hệ quốc tế, chỉ ra con đường giải phóng các dân tộc thuộc
địa. Luận cương tạo ra một bước chuyển biến căn bản trong nhận
thức tư tưởng về vấn đề đồng minh về xác định kẻ thù. Luận cương
là lời giải đáp hợp lí nhất, đúng đắn nhất mà Nguyễn Ái Quốc tìm
thấy được về con đường cứu nước, con đường giải phóng dân tộc, đó
là “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng cịn con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản, gắn chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam với chủ nghĩa Mác – Lênin.
Đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp họp tại Tua (tháng
12/1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ qua phiếu tán thành Đảng gia nhập
Quốc tế III, trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản
Pháp. Bằng việc làm đó, Nguyễn Ái Quốc đã nêu cao ngọn cờ đoàn
kết quốc tế. Từ đoàn kết các dân tộc thuộc địa, mở thành đoàn kết
với giai cấp vơ sản chính quốc và giai cấp vơ sản thế giới. Nguyễn Ái
Quốc viết những bản tham luận, phát biểu trong các kỳ sinh hoạt
đảng và các cuộc họp của các tổ chức xã hội khác, tham gia lãnh

đạo Ban Nghiên cứu về thuộc địa, ra báo Người cùng khổ… Nguyễn
Ái Quốc đã vạch rõ tội ác của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, tranh thủ
sự ủng hộ của dư luận tiến bộ Pháp và thế giới, hình thành mặt trận
đoàn kết quốc tế đối với sự nghiệp giải phóng các dân tộc bị áp bức.
Những việc làm đó đã đánh dấu một bước chuyển biến quyết định
trong nhận thức tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc,
từ đây, Người đã tiếp thu sâu sắc và sáng tạo những khẩu hiệu chiến
lược của Mác – Lênin, “Vơ sản tồn thế giới, đồn kết lại”, “Vơ sản
toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại”. Người đã gọi
Lênin là hiện thân của tình anh em bốn bể. Người nhấn mạnh: “Lao
động tất cả các nước đoàn kết lại” và Người khẳng định, chính Lênin
và Quốc tế Cộng sản đã chỉ ra cho dân tộc và giai cấp vô sản thế giới

5


sự cần thiết và con đường tập hợp đoàn kết các lực lượng cách mạng
trong phạm vi từng nước và thế giới vào cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc. Hồ Chí Minh tiếp thu và đi theo chủ
nghĩa Mác – Lênin trên tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, trên cơ sở
đó Người xây dựng và phát triển tư tưởng đoàn kết quốc tế của mình.
Như vậy, chủ nghĩa Mác – Lênin và Quốc tế Cộng sản là nhân tốc
quan trọng có ý nghĩa định hình rõ rệt tư tưởng đồn kết quốc tế của
Hồ Chí Minh. Trải qua gần 10 năm tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái
Quốc đã từ chủ nghĩa yêu nước chân chính đến với chủ nghĩa Mác –
Lênin và Quốc tế Cộng sản, từ một nhà yêu nước trở thành một chiến
sĩ quốc tế chân chính.
2.1.3.3. Q trình tìm đường cứu nước Nguyễn Ái Quốc
Ra đi tìm đường cứu nước, qua những chuyến đi, những cuộc
khảo nghiệm, chủ nghĩa yêu nước ở Người có những biến chuyển

mới. Sự đồng cảm với đồng bào mình được nâng lên thành sự đồng
cảm với nhân dân lao động, với các dân tộc cùng cảnh ngộ bị áp bức
như dân tộc mình. Người thể hiện sự đồng cảm với nhân dân lao
động và các dân tộc cùng cảnh ngộ và đưa ra kết luận: “Dù màu da
có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: Giống người bóc
lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là
thật mà thơi: tính hữu ái vơ sản”. Kết luận trên vô cùng quan trọng,
là khởi đầu của tư tưởng đồn kết quốc tế Hồ Chí Minh – đồn kết với
những người lao khổ, cần lao trên thế giới.
Cũng từ quá trình 10 năm trải nghiệm thực tiễn ở nhiều nước,
Nguyễn Ái Quốc cũng rút ra kết luận rằng: “Nguyên nhân đầu tiên đã
gây ra sự suy yếu của các dân tộc phương Đơng, đó là sự biệt lập…
họ thiếu sự tin cậy lẫn nhau, sự phối hợp hành động và sự cổ vũ lẫn
nhau”. Vì vậy, Người chỉ ra sự cần thiết của việc xây dựng khối đoàn
kết chiến đấu giữa các dân tộc bị đọa đày, đau khổ. Việc thực hiện
đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng; góp phần cùng nhân
dân thế giới thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng của thời đại.

6


Là người dân từ một đất nước thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc thấy
được khả năng tiềm tàng của sức mạnh đoàn kết của các dân tộc
thuộc địa và tin tưởng vào thắng lợi của cuộc đấu tranh của họ. Để
thể hiện sự đồn kết giữa nhân dân lao động chính quốc và nhân dân
lao động thuộc địa, Người yêu cầu các Đảng Cộng sản và giai cấp
cơng nhân ở chính quốc phải có hiểu biết đúng về thuộc địa và có sự
giúp đỡ thiết thực đối với những người anh em thuộc địa. Trong thời
gian ở nước ngoài, Người đã tham gia tích cực phong trào cách mạng

của cơng nhân Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc… từng bước xây dựng
nhiều tổ chức quốc tế như: Hội Liên hiệp thuộc địa (1921), Hội Liên
hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đơng (1925),… là nhà cách mạng hoạt
động tích cực trong Đảng Cộng sản Pháp, Quốc tế III, các Quốc tế
Nông dân, Thanh niên, Phụ nữ… thường xuyên mở rộng nhiều chính
sách, các nhà hoạt động xá hội… Tất cả hoạt động nói trên của
Người đều hướng vào mục tiêu tăng cường thêm bạn bè, đồng chí
cho cách mạng Việt Nam.
2.1.3.4. Yếu tố chủ quan từ bản thân Hồ Chí Minh
Một quan điểm được đưa ra nếu không được sự ủng hộ, tin cậy
từ mọi người thì khó mà trở thành một tư tưởng lớn. Nhưng ở Hồ Chí
Minh, Người nhận được sự tin tưởng, được dân yêu, dân kính phục,
xem như vị cha già của dân tộc. Người đã vượt qua tầm nhìn hạn hẹp
của các nhà yêu nước tiền bối để hướng ra bên ngoài, gắn kết sự
nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc với cơng cuộc cách mạng của
toàn thể các dân tộc bị áp bức.
2.2. Lực lượng, ngun tắc và hình thức tổ chức đồn kết
quốc tế
2.2.1. Lực lượng đoàn kết quốc tế
Lực lượng đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm:
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; phong trào đấu tranh
giải phóng dân tộc và phong trào hồ bình, dân chủ thế giới, trước
hết là phong trào chống chiến tranh của nhân dân các nước đang
xâm lược Việt Nam.
Đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Hồ Chí Minh
cho rằng, sự đồn kết giữa giai cấp cơng nhân quốc tế là một bảo

7



đảm vững chắc cho thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản. Chủ trương
đồn kết giai cấp cơng nhân quốc tế, đoàn kết giữa các đảng cộng
sản trong tư tưởng Hồ Chí Minh xuất phát từ tính tất yếu về vai trị
của giai cấp cơng nhân trong thời đại ngày nay. Hồ Chí Minh cho
rằng, chủ nghĩa tư bản là một lực lượng phản động quốc tế, là kẻ thù
chung của nhân dân lao động toàn thế giới. Trong hoàn cảnh đó, chỉ
có sức mạnh của sự đồn kết, nhất trí, sự đồng tình và ủng hộ lẫn
nhau của lao động tồn thế giới theo tinh thần “bốn phương vơ sản
đều là anh em” mới có thể chống lại được.
Đối với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, từ rất sớm, Hồ
Chí Minh đã thấy rõ âm mưu chia rẽ dân tộc của các nước đế quốc.
Chính vì vậy, Người đã lưu ý Quốc tế Cộng sản về những biện pháp
nhằm “làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt
nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một liên
minh phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong
những cái cánh của cách mạng vô sản”. Thêm vào đó, để tăng cường
đồn kết giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng vơ sản chính quốc,
Hồ Chí Minh còn đề nghị Quốc tế Cộng sản, bằng mọi cách phải “làm
cho đội quân tiên phong của lao động thuộc địa tiếp xúc mật thiết
với giai cấp vô sản phương Tây để dọn đường cho một sự hợp tác
thật sự sau này”.
Đối với các lực lượng tiến bộ, những người u chuộng hồ bình,
dân chủ, tự do và cơng lý, Hồ Chí Minh cũng tìm mọi cách để thực
hiện đồn kết. Trong xu thế mới của thời đại, sự thức tỉnh dân tộc
gắn liền với sự thức tỉnh giai cấp, Hồ Chí Minh đã gắn cuộc đấu tranh
vì độc lập ở Việt Nam với mục tiêu bảo vệ hịa bình, tự do, cơng lý và
bình đẳng để tập hợp và tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng tiến
bộ trên thế giới. Gắn cuộc đấu tranh vì độc lập của dân tộc với mục
tiêu hịa bình, tự do và cơng lý, Hồ Chí Minh đã khơi gợi lương tri của
những người tiến bộ tạo nên những tiếng nói ủng hộ mạnh mẽ của

các tổ chức quần chúng, các nhân sĩ trí thức và từng con người trên
hành.
2.2.2. Hình thức tổ chức
Đồn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là vấn
đề sách lược, một thủ đoạn chính trị nhất thời mà là vấn đề có tính
ngun tắc, một đòi hỏi khách quan của cách mạng Việt Nam. Từ
năm 1924, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm về thành lập “Mặt trận
thống nhất của nhân dân chính quốc và thuộc địa” chống chủ nghĩa

8


đế quốc, đồng thời kiến nghị Quốc tế Cộng sản cần có giải pháp cụ
thể để quan điểm này trở thành sự thật.
Đối với các dân tộc trên bán đảo Đơng Dương, Hồ Chí Minh dành
sự quan tâm đặc biệt. Cả ba dân tộc đều là láng giềng gần gũi của
nhau, có nhiều điểm tương đồng về lịch sử, văn hoá và cùng chung
một kẻ thù là thực dân Pháp. Năm 1941, để khơi dậy sức mạnh và
quyền tự quyết của mỗi dân tộc, theo đúng quan điểm của Hồ Chí
Minh về tập hợp lực lượng cách mạng, Đảng quyết định thành lập
Mặt trận Việt Nam Độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh); giúp Lào
và Campuchia thành lập mặt trận yêu nước. Trong hai cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Hồ Chí Minh đã chỉ đạo
việc hình thành Mặt trận nhân dân ba nước Đông Dương.
Với các dân tộc châu Á, Người chỉ rõ, các dân tộc châu Á có độc
lập thì nền hồ bình thế giới mới thực hiện. Vận mệnh dân tộc châu Á
có quan hệ mật thiết với vận mệnh dân tộc Việt Nam. Do vậy, từ
những năm 20 của thế kỷ XX, cùng với việc sáng lập Hội Liên hiệp
thuộc địa tại Pháp, Hồ Chí Minh đã tham gia sáng lập Hội Liên hiệp
các dân tộc bị áp bức tại Trung Quốc. Đây là hình thức sơ khai của

mặt trận thống nhất các dân tộc bị áp bức theo xu hướng vô sản, lần
đầu tiên xuất hiện trong lịch sử phong trào đấu tranh giải phóng dân
tộc. Với việc tham gia sáng lập các tổ chức này, Hồ Chí Minh đã góp
phần đặt cơ sở cho sự ra đời của Mặt trận nhân dân Á – Phi đoàn kết
với Việt Nam.
Những năm đấu tranh giành độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh tìm
mọi cách xây dựng các quan hệ với mặt trận dân chủ và lực lượng
đồng minh chống phátxít, nhằm tạo thế và lực cho cách mạng Việt
Nam. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ,
bằng hoạt động ngoại giao khơng mệt mỏi, Hồ Chí Minh đã nâng cao
vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, tranh thủ được sự đồng tình,
ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa, của bạn bè quốc tế và nhân
loại tiến bộ, trong đó có cả nhân dân u chuộng hồ bình Pháp
trong kháng chiến chống Pháp và cả nhân dân u chuộng hồ bình
Mỹ trong kháng chiến chống Mỹ, hình thành Mặt trận nhân dân thế
giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược.
Như vậy, tư tưởng đồn kết vì thắng lợi của cách mạng Việt Nam
đã định hướng cho việc hình thành bốn tầng mặt trận: Mặt trận đại
đoàn kết dân tộc; Mặt trận đoàn kết Việt Nam – Lào – Campuchia ;
Mặt trận nhân dân Á – Phi đoàn kết với Việt Nam; Mặt trận nhân dân
thế giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược. Đây thực sự

9


là sự phát triển rực rỡ nhất và thắng lợi to lớn nhất của tư tưởng Hồ
Chí Minh về đại đoàn kết.
2.2.3. Nguyên tắc đoàn kết quốc tế
2.2.3.1. Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích; có lý, có
tình

Muốn thực hiện được đồn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng phản động quốc tế, phải
tìm ra được những điểm tương đồng về mục tiêu và lợi ích giữa các
dân tộc, các lực lượng tiến bộ và phong trào cách mạng thế giới. Từ
rất sớm, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra sự tương đồng này nhờ đặt
cách mạng Việt Nam trong bối cảnh chung của thời đại, kết hợp lợi
ích của cách mạng Việt Nam với trào lưu cách mạng thế giới và nhận
thức về nghĩa vụ của Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng chung
của nhân dân tiến bộ trên thế giới.
- Đối với phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế, Hồ Chí Minh
giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội, thực hiện đoàn kết thống nhất trên nền tảng của chủ nghĩa
Mác- Lênin và chủ nghĩa quốc tế vơ sản, có lý, có tình.
- Đối với các dân tộc trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn
cờ độc lập, tự do và quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Hồ Chí
Minh thực hiện nhất quán quan điểm có tính ngun tắc: Dân
tộc Việt Nam tơn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ và quyền tự quyết của tất cả các dân tộc-quốc gia
trên thế giới, đồng thời mong muốn các nước trên thế giới quan
hệ hợp tác, hữu nghị với Việt Nam trên cơ sở những nguyên tắc
đó.
- Đối với các lực lượng tiến bộ trên thế giới, Hồ Chí Minh giương
cao ngọn cờ hịa bình, chống chiến tranh xâm lược. Trong suốt
cuộc đời mình, Hồ Chí Minh ln giương cao ngọn cờ hịa bình,
đấu tranh cho hịa bình, một nền hịa bình thật sự cho tất cả
các dân tộc – “hịa bình trong độc lập, tự do”.
2.2.3.2. Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ
Đoàn kết quốc tế là để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ
của các lực lượng quốc tế nhằm tăng thêm nội lực, tạo sức mạnh
thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng đã đặt Để đồn kết tốt

phải có nội lực tốt. Nội lực là nhân tố quyết định, còn nguồn lực ngoại
sinh chỉ có thể phát huy tác dụng thơng qua nguồn lực nội sinh.

10


Chính vì vậy, trong đấu tranh cách mạng, Hồ Chí Minh luôn nêu cao
khẩu hiệu: “Tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính”, “Muốn
người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”. Trong
đấu tranh giành chính quyền, Người chủ trương “đem sức ta mà tự
giải phóng cho ta”.
Hồ Chí Minh chỉ rõ, muốn tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế,
Đảng phải có đường lối độc lập, tự chủ và đúng đắn. Trả lời một
phóng viên nước ngồi, Người nói: “Độc lập nghĩa là chúng tôi điều
khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, khơng có sự can thiệp ở ngồi
vào”. Người u cầu phải chú trọng đến thực lực trong quan hệ quốc
tế. “Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng
mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”.

2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết quốc tế và áp
dụng trong giai đoạn hiện nay
2.3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết quốc tế
2.3.1.1. Sự cần thiết phải đoàn kết quốc tế
Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng. Theo Hồ
Chí Minh, thực hiện đoàn kết quốc tế để tập hợp lực lượng bên ngồi,
tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của các trào lưu cách mạng thời
đại để tạo thành sức mạnh tổng hợp cho cách mạng Việt Nam. Kết
hợp sức mạnh dân tộc (sự tổng hợp của các yếu tố vật chất và tinh

thần) và sức mạnh thời đại (sức mạnh của phong trào cách mạng thế
giới, sức mạnh của chủ nghĩa Mác – Lênin) tạo nên một sức mạnh to
lớn giúp cho dân tộc Việt Nam vượt qua mọi thử thách, khó khăn
trong dựng nước và giữ nước. Vì vậy, Thực hiện đại đồn kết toàn
dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế; đại đoàn kết toàn dân tộc
là cơ sở cho việc thực hiện đoàn kết quốc tế.
Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm góp phần cùng nhân dân thế
giới thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng của thời đại. Hồ Chí
Minh chỉ ra rằng, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải được gắn liền
với chủ nghĩa quốc tế vơ sản, đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với
đoàn kết quốc tế; thực hiện đồn kết quốc tế khơng vì thắng lợi của
cách mạng mỗi nước mà cịn vì sự nghiệp chung của nhân loại tiến
bộ trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
phản động quốc tế vì các mục tiêu cách mạng của thời đại. Theo Hồ
Chí Minh, muốn tăng cường đồn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh vì
mục tiêu chung, các đảng cộng sản trên thế giới phải kiên trì chống
lại mọi khuynh hướng sai lầm của chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa vị kỷ
dân tộc, chủ nghĩa sô vanh… – những khuynh hướng làm suy yếu sức

11


mạnh đoàn kết, thống nhất các lực lượng cách mạng thế giới. Vậy
nên, thực hiện đoàn kết quốc tế, kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu
nước với chủ nghĩa quốc tế vơ sản là nhằm góp phần cùng nhân dân
thế giới thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng của dân tộc và
thời đại.
2.3.1.2.

Lực lượng đoàn kết quốc tế và hình thức tổ chức


Tư tưởng Hồ Chí Minh đã đề ra các lực lượng đoàn kết bao gồm:
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; phong trào đấu tranh
giải phóng dân tộc và phong trào hịa bình, dân chủ thế giới, trước
hết là phong trào chống chiến tranh của nhân dân các nước đang
xâm lược Việt Nam. Đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế, Hồ Chí Minh cho rằng, sự đồn kết giữa giai cấp công nhân quốc
tế là một bảo đảm vững chắc cho thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản.
Chủ trương đoàn kết giai cấp cơng nhân quốc tế, đồn kết giữa các
đảng cộng sản trong tư tưởng Hồ Chí Minh xuất phát từ tính tất yếu
về vai trị của giai cấp cơng nhân trong thời đại ngày nay. Đối với
phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh đã thấy rõ âm
mưu chia rẽ dân tộc của các nước đế quốc. Chính vì vậy, Người đã
lưu ý Quốc tế Cộng sản về những biện pháp nhằm “làm cho các dân
tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau
hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một liên minh phương Đông
tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của
cách mạng vơ sản” Thêm vào đó là tăng cường đồn kết giữa cách
mạng thuộc địa và cách mạng vô sản chính quốc. Đối với các lực
lượng tiến bộ, những người u chuộng hồ bình, dân chủ, tự do và
cơng lý, Hồ Chí Minh cũng tìm mọi cách để thực hiện đoàn kết. Trong
xu thế mới của thời đại, sự thức tỉnh dân tộc gắn liền với sự thức tỉnh
giai cấp, Hồ Chí Minh đã gắn cuộc đấu tranh vì độc lập ở Việt Nam
với mục tiêu bảo vệ hịa bình, tự do, cơng lý và bình đẳng để tập hợp
và tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới.
Đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh khơng phải là vấn
đề sách lược, một thủ đoạn chính trị nhất thời mà là vấn đề có tính
ngun tắc, một địi hỏi khách quan của cách mạng Việt Nam. Vì
vậy, tư tưởng đồn kết vì thắng lợi của cách mạng Việt Nam đã định
hướng cho việc hình thành bốn tầng mặt trận: Mặt trận đại đồn kết

dân tộc; Mặt trận đoàn kết Việt Nam – Lào – Campuchia ; Mặt trận
nhân dân Á - Phi đoàn kết với Việt Nam; Mặt trận nhân dân thế giới
đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược. Đây thực sự là sự
phát triển rực rỡ nhất và thắng lợi to lớn nhất của tư tưởng Hồ Chí
Minh về đại đoàn kết.
2.3.1.3.Nguyên tắc đoàn kết quốc tế

12


Thứ nhất, Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích; có
lý, có tình. Muốn thực hiện được đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng phản động quốc tế,
phải tìm ra được những điểm tương đồng về mục tiêu và lợi ích giữa
các dân tộc, các lực lượng tiến bộ và phong trào cách mạng thế giới.
Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra sự tương đồng này nhờ đặt
cách mạng Việt Nam trong bối cảnh chung của thời đại, kết hợp lợi
ích của cách mạng Việt Nam với trào lưu cách mạng thế giới và nhận
thức về nghĩa vụ của Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng chung
của nhân dân tiến bộ trên thế giới. Đối với phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thực hiện đoàn kết thống nhất trên nền
tảng của chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vơ sản, có lý, có
tình. Đối với các dân tộc trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn
cờ độc lập, tự do và quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Đối với các
lực lượng tiến bộ trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ hịa
bình, chống chiến tranh xâm lược. Là một chiến sĩ cách mạng quốc
tế kiên định, Hồ Chí Minh đã suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp củng
cố khối đoàn kết, thống nhất trong cách mạng thế giới, Thời đại Hồ
Chí Minh sống là thời đại của phong trào đấu tranh giải phóng dân

tộc diễn ra mạnh mẽ trên hầu khắp các châu lục của thế giới. Trong
tiến trình đó, Người khơng chỉ là nhà tổ chức, người cổ vũ mà còn là
người ủng hộ nhiệt thành cuộc đấu tranh của các dân tộc vì các
quyền dân tộc cơ bản của họ. Và có thể thấy rằng, trong suốt cuộc
đời mình, Hồ Chí Minh ln giương cao ngọn cờ hịa bình, đấu tranh
cho hịa bình, một nền hịa bình thật sự cho tất cả các dân tộc - “hịa
bình trong độc lập, tự do”.
Thứ hai, Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ. Đoàn kết quốc tế là
để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng quốc tế
nhằm tăng thêm nội lực, tạo sức mạnh thực hiện thắng lợi các nhiệm
vụ cách mạng đã đặt ra. Để đồn kết tốt phải có nội lực tốt. Nội lực
là nhân tố quyết định, còn nguồn lực ngoại sinh chỉ có thể phát huy
tác dụng thơng qua nguồn lực nội sinh. Chính vì vậy, trong đấu tranh
cách mạng, Hồ Chí Minh ln nêu cao khẩu hiệu: “Tự lực cánh sinh,
dựa vào sức mình là chính”, “Muốn người ta giúp cho, thì trước mình
phải tự giúp lấy mình đã”. Hồ Chí Minh chỉ rõ, muốn tranh thủ được
sự ủng hộ quốc tế, Đảng phải có đường lối độc lập, tự chủ và đúng
đắn. Chính vì thế, trong các cuộc kháng chiến thực dân, với đường lối
đúng đắn, sáng tạo của Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách
mạng giành thắng lợi.

13


2.3.2. Vận dụng
2.3.2.1. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc
và đoàn kết quốc tế trong hoạch định chủ trương, đường lối của
Đảng
Phải khơi dậy và phát huy đến mức cao nhất sức mạnh dân tộc,
và sức mạnh quốc tế, trong đó đặt lợi ích dân tộc, của đất nước lên

hàng đầu, lấy đó làm cơ sở để xây dựng các chủ trương, chính sách
kinh tế - xã hội. Cùng với việc phát huy tối đa sức mạnh của khối đại
đoàn kết dân tộc, qua hơn 30 năm đổi mới, tư tưởng đoàn kết quốc
tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã được Đảng ta vận dụng một cách
sáng tạo trong việc hoạch định chủ trương, đường lối. Từ tuyên bố
“muốn là bạn” (Đại hội Đảng lần thứ VII), “sẵn sàng là bạn” (Đại hội
Đảng lần thứ VIII), “là bạn và đối tác tin cậy” (Đại hội Đảng lần thứ
IX) đến Đại hội Đảng lần thứ XII, Đảng ta khẳng định: “Quan hệ đối
ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, có hiệu quả. Vị thế, uy
tín quốc tế của nước ta tiếp tục được nâng cao”1. Tinh thần đoàn kết
quốc tế, huy động tối đa sức mạnh toàn dân tộc kết hợp sức mạnh
thời đại để bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ, vì hịa
bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.
2.3.2.2. Xây dựng khối đại đoàn kết tồn dân tộc trên nền tảng liên
minh cơng - nơng - trí dưới sự lãnh đạo của Đảng
Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh sức sống
của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết toàn dân tộc. Đại đoàn kết
toàn dân tộc, từ chỗ là tư tưởng của lãnh tụ đã trở thành quan điểm
xuyên suốt đường lối chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Tư tưởng đó cần thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm của
tất cả những người Việt Nam yêu nước và phải biến thành hành động
cách mạng của hàng triệu, hàng triệu con người, tạo thành sức mạnh
vô địch trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Sự thật lịch sử đã chứng tỏ rằng, Mặt trận dân tộc thống nhất
càng rộng rãi thì liên minh cơng - nơng - trí càng mạnh, sự lãnh đạo
của Đảng càng vững. Đồng hời, khối liên minh này càng được củng
cố, sự lãnh đạo của Đảng càng được tăng cường thì Mặt trận dân tộc
thống nhất càng được mở rộng và sức mạnh của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc càng được nhân lên to lớn hơn.


14


Để tiếp tục tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời
gian tới, cần thực hiện tốt một số vấn đề cơ bản sau: Trước hết, tiếp
tục đẩy mạnh tuyên truyền để các cấp, ngành, lực lượng nhận thức
sâu sắc về sự cần thiết phải tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân
tộc hiện nay. Hai là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của
Nhà nước và tiếp tục thể chế hóa các quan điểm, đường lối, chính
sách của Đảng về đại đồn kết tồn dân tộc. Ba là, giải quyết tốt
quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội; kết hợp hài hịa lợi
ích cá nhân, lợi ích tập thể và tồn xã hội. Bốn là, tăng cường quan
hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của
khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Năm là, kiên quyết đấu tranh với các
quan điểm sai trái, thù địch, phá hoại, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn
dân tộc.
2.3.2.3. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải kết hợp với đoàn kết quốc tế
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, việc phát huy bài học kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ nghĩa yêu nước với
chủ nghĩa quốc tế, lợi ích dân tộc và nghĩa vụ quốc tế theo tư tưởng
Hồ Chí Minh, phải nhất quán coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận
không thể tách rời của cách mạng thế giới, tiếp tục đoàn kết, ủng hộ
các phong trào cách mạng, các xu hướng và trào lưu tiến bộ của thời
đại vì các mục tiêu hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội. Để nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, chủ động hội nhập kinh
tế với khu vực và thế giới, Đảng, Nhà nước ta chủ trương nêu cao
nguyên tắc độc lập tự chủ, tự lực tự cường, chủ trương phát huy
mạnh mẽ sức mạnh dân tộc- sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, sức
mạnh của người làm chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, trên cơ sở

sức mạnh bên trong mà tranh thủ và tận dụng sự đồng tình, ủng hộ
rộng rãi của lực lượng bên ngoài.
III. VẬN DỤNG
III.1. Nhiệm vụ và yêu cầu khi vận dụng
Nhiệm vụ:
Hiện nay, khi những điều kiện quốc tế có sự thay đổi khá nhiều
so với trước, việc nghiên cứu về vấn đề đoàn kết quốc tế sẽ mở ra
khả năng rộng lớn để vận dụng, thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ
đối ngoại mà Đại hội XIII của Đảng đề ra:

15


-

-

-

Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hồ
bình, hợp tác và phát triển, đa phương hoá, đa dạng hoá quan
hệ đối ngoại.
Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các
nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp
quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Trong đó, mục tiêu bao
trùm là giữ vững mơi trường hồ bình, ổn định, thuận lợi cho sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện các nhiệm vụ
chiến lược về phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời kiên quyết,
kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và các lợi ích chính
đáng của ta theo luật pháp quốc tế. Trong việc bảo đảm môi

trường hồ bình thì một trong những u cầu then chốt là phải
ln kiên trì, bình tĩnh, sáng suốt xử lý đúng đắn mọi vấn đề
phức tạp trong đối ngoại, trong đó có vấn đề chủ quyền, lãnh
thổ. Để tranh thủ và tận dụng tối đa cơ hội, kiểm soát và hố
giải các thách thức, ứng phó tốt với những chuyển biến bên
ngồi, phải ln đề cao xây dựng sự đồn kết và đồng thuận
quốc tế.
Cố gắng tìm kiếm và tranh thủ điểm đồng thuận về lợi ích để
thúc đẩy hợp tác và phát triển trên cơ sở bảo vệ lợi ích quốc gia
- dân tộc và tôn trọng luật pháp quốc tế, đồng thời thông qua
đây để tiến hành bảo vệ đất nước từ sớm, từ xa.
Yêu cầu:

Trong bối cảnh mới, việc vận dụng tư tưởng "dĩ bất biến ứng vạn
biến" của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn là một yêu cầu quan trọng. Cái
"bất biến" vẫn là lợi ích quốc gia, dân tộc, mà cốt lõi là độc lập dân
tộc, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và biển đảo của Tổ
quốc, chế độ XHCN, vai trò và quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Cái "vạn biến" là sự biến chuyển nhanh chóng, khó lường
của tình hình, sự điều chỉnh chiến lược và chính sách của các nước,
của tương quan và tập hợp lực lượng, sự chuyển hóa của "đối tác",
"đối tượng"… Đảng và Nhà nước ta đã và đang kiên trì nguyên tắc
bất biến là "thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
hịa bình, hợp tác và phát triển" (9), đồng thời tiếp tục thực hiện đa
dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại, xác định đúng đắn một
cách biện chứng về "đối tác" và "đối tượng" trong từng vấn đề thuộc
lợi ích quốc gia, dân tộc để kịp thời đề ra những chính sách, biện
pháp hợp tác và đấu tranh phù hợp và hiệu quả.
3.2. Những chú ý khi vận dụng
Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồn kết quốc tế, để thực sự tạo nên

sức mạnh, phải được xây dựng trên những nguyên tắc cơ bản:

16


 Khơng phân biệt, bình đẳng, cùng có lợi;
 Tơn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau;
 Phải phát huy tinh thần “tự lực cánh sinh”, dựa vào sức của
mình là chính;
 Có lý, có tình.
Trong quá trình khảo nghiệm thực tế, Người đã nhận ra rằng: "Sử
dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đồn kết mn người như
một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại, lúc nào dân ta khơng đồn kết
thì bị nước ngồi xâm lấn"; "Khơng đồn kết thì suy và mất. Có đồn
kết thì thịnh và cịn. Chúng ta phải lấy đồn kết mà xoay vần vận
mệnh, giữ gìn dân tộc và bảo vệ nước nhà". Trong nhiều bài nói và
viết, Người ln nhấn mạnh đến luận điểm: Đoàn kết là sức mạnh,
đoàn kết là một lực lượng vơ địch. Từ đó, Người đi đến khẳng định
một vấn đề có tính chất giống như một chân lý của thời đại: "Đoàn
kết, đoàn kết, đại đoàn kết, Thành công, thành công, đại thành
công".
Tuy vậy, chúng ta cũng đang đứng trước những thách thức, nguy
cơ hay những khó khăn lớn trên con đường phát triển của đất nước.
Ví như nạn tham nhũng, tệ quan liêu cũng như sự suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên đã và đang cản trở việc thực hiện có hiệu quả đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, gây bất bình và
làm giảm niềm tin trong nhân dân. Các thế lực phản động khơng
ngừng tìm mọi cách thực hiện âm mưu "diễn biến hịa bình", chống
phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta do Đảng Cộng sản Việt

Nam lãnh đạo. Mặt khác, các thế lực thù địch ra sức phá hoại khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, lợi dụng các vấn đề “nhân quyền”, “ dân
tộc”, “tôn giáo” hòng li gián, chia rẽ nội bộ Đảng, Nhà nước và nhân
dân ta. Đại hội XIII của Đảng đề ra: thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, hồ bình, hợp tác và phát triển, đa phương
hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc
gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên
hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi.
3.3 Thực trạng chung gồm chính trị - xã hội, kinh tế, văn hóa
trong giai đoạn hiện nay
3.3.1 Chính trị - Xã hội
Quan hệ giữa Việt Nam với Lào, Campuchia và các nước ASEAN
tiếp tục có những bước tiến mới, quan trọng. Những nỗ lực lớn của
Việt Nam trong xây dựng mối quan hệ hợp tác quốc tế, nhất là trong
lĩnh vực kinh tế ngày càng nhiều. Kết quả năm 2018, Việt Nam xuất
khẩu đạt 243,5 tỷ USD và xuất siêu 6,8 tỷ USD một phần quan trọng
nhờ quan hệ tốt với các đối tác lớn

17


Nguy cơ lớn nhất đối với độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ
của Việt Nam hiện nay, là vấn đề Biển Đơng. Tình hình Biển Đơng
trong vịng hơn 10 năm qua diễn biến ngày càng phức tạp, không chỉ
là vấn đề tranh chấp chủ quyền, mà còn là tâm điểm cạnh tranh chiến
lược giữa các nước lớn. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết
quốc tế, Việt Nam đã, đang và luôn sẵn sàng giải quyết những tranh
chấp, bất đồng trên Biển Đơng bằng biện pháp hịa bình, trên cơ sở
luật pháp quốc tế, đồng thời coi trọng việc giữ gìn mối quan hệ hữu
nghị truyền thống với các nước láng giềng. Nhờ lập trường chính

nghĩa, nhờ những bằng chứng pháp lý và căn cứ lịch sử khẳng định
chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam
luôn nhận được sự quan tâm, ủng hộ của cộng đồng quốc tế.
3.3.2 Kinh tế
Sau chiến thắng năm 1975, sau gần 10 năm rơi vào tình thế khó
khăn trên trường quốc tế, tới năm 1986, Đại hội lần thứ VI của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã mở ra một giai đoạn phát triển mới, một thời kỳ
“Đổi mới” toàn diện, tạo nên thế và lực mới cho dân tộc.
Từ quan hệ hợp tác toàn diện với Liên Xô, với Lào và Campuchia,
với các nước khác trong Hội đồng tương trợ kinh tế… đến nay, Việt
Nam đã xác lập mối quan hệ thương mại với trên 200 quốc gia và
vùng lãnh thổ trên thế giới, là đối tác chiến lược và đối tác toàn diện
với gần 30 quốc gia, trong đó có tất cả các nước lớn và 5 nước Ủy
viên thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, là đối tác toàn diện
với tất cả các nước trong cộng đồng ASEAN; lần đầu tiên được bầu
vào Ủy ban Luật thương mại quốc tế của Liên hợp quốc (UNCITRAL);
lần thứ hai được bầu, trở thành Ủy viên không thường trực Hội đồng
bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021 , là Chủ tịch luân phiên
của ASEAN. Là thành viên của WTO, của nhiều thể chế đa phương,
đến nay, Việt Nam đã tham gia và đang đàm phán ký kết 16 Hiệp
định thương mại tự do FTA với 59 đối tác trên toàn thế giới.
Việt Nam ngày càng chủ động, sáng tạo hơn trong triển khai hợp
tác quốc tế, hội nhập quốc tế, góp phần phục vụ tốt lợi ích quốc gia,
dân tộc. Tính đến nay, Việt Nam được 71 nước công nhận là quốc gia
có nền kinh tế thị trường và hiện trong top đầu của ASEAN về mức
độ hội nhập và độ mở của nền kinh tế. Mối quan hệ với các đối tác
kinh tế khiến tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam tương
đương 200% GDP.
3.3.3 Văn hóa xã hội
Văn hóa là một phần khơng thể thiếu trong trong đồn kết quốc

tế. Việt Nam cũng đã du nhập nhiều văn hóa phương tây, kêt hợp với

18


văn hóa truyền thống tạo sự hịa hợp cùng theo kịp thời đại cũng như
các nền văn hóa lớn trên thế giới.
Nhưng khơng vì đó mà chũng ta đánh mất đi những tinh hoa văn
hóa được đúc kết bao đời nay. Chúng ta cần tỉnh táo trước những văn
hóa đồi trụy, xuyên tạc lịch sử, tôn giáo gây mất tinh thần đồn kết
ảnh hưởng đến văn hóa nước nhà.
3.4. Phương pháp khắc phục và củng cố
3.4.1. Phương pháp khắc phục trong giai đoạn hiện nay
Đoàn kết quốc tế là yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của
đất nước ta trong thời kì hội nhập hiện nay. Chúng ta cần có hướng đi
cụ thể để củng cố và phát triển:
Một là, phải nhận thức sâu sắc và vận dụng đúng đắn tư tưởng
Hồ Chí Minh trong xây dựng quan hệ đối ngoại, hợp tác và phát triển.
Quán triệt quan điểm độc lập, tự chủ, dựa vào sức mình là chính để
q trình mở rộng quan hệ đối ngoại, đa dạng hóa, đa phương hóa
mang lại hiệu quả cao, bền vững và không làm phương hại đến chủ
quyền quốc gia, bản sắc dân tộc, hội nhập mà khơng hịa tan, độc
lập nhưng khơng đóng cửa, biệt lập với hành trình phát triển của
nhân loại.
Hai là, ra sức phát triển kinh tế - xã hội, tạo sức mạnh tổng hợp
của quốc gia  - dân tộc. Nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia là yếu
tố quyết định thành cơng của q trình hội nhập quốc tế. Đó là sức
mạnh được tạo nên từ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, hiệu lực
quản lý của Nhà nước, của khối đoàn kết toàn dân tộc, của văn hóa,
con người Việt Nam

Ba là, cố gắng tìm kiếm và tranh thủ điểm đồng thuận về lợi ích
để thúc đẩy hợp tác và phát triển trên cơ sở bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc và tôn trọng luật pháp quốc tế, đồng thời thông qua đây để
tiến hành bảo vệ đất nước từ sớm, từ xa.
Bốn là, tăng cường kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại, tranh thủ sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế, cần nhìn nhận biện
chứng trong sự đan xen và chuyển hóa lẫn nhau giữa đối tác và đối
tượng. Theo đó, trong mỗi đối tác có thể có những mâu thuẫn với lợi
ích của ta cần phải kiên quyết, kiên trì đấu tranh; trong mỗi đối
tượng vẫn có thể có mặt đồng thuận cần hợp tác; tranh thủ ngày
càng tốt hơn sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
3.4.2. Củng cố

19


Tiếp tục đường lối ngoại giao rộng mở, đa phương hóa, đa dạng
hóa, hợp tác nhiều mặt với tất cả các nước, các tổ chức quốc tế trên
nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của
nhau, khơng can thiệp vào cơng việc của nhau, bình đẳng, cùng có
lợi, giải quyết các vấn đề tranh chấp đang tồn tại bằng biện pháp
hịa bình. Để giữ được độc lập, tự chủ trong đối ngoại, hội nhập,
chúng ta phải có tầm nhìn chiến lược, khả năng bao qt và dự liệu
cả cơ hội và nguy cơ, đồng thời luôn chủ động, tích cực tham gia các
cơ chế hợp tác quốc tế, đề xuất sáng kiến, đóng góp tích cực vào
quá trình xây dựng thể chế và kiến trúc điều tiết quan hệ quốc tế.
Giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý
của Nhà nước trong quá trình hội nhập và phát triển. Để giữ vững sự
lãnh đạo của Đảng và tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước
trong hội nhập và phát triển song song với kiên quyết, kiên trì đấu

tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc thì phải tiếp tục tăng cường xây dựng Đảng,
xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đồng thời ngăn
chặn, từng bước đẩy lùi tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống
3.5.Các bước đi cụ thể
Thực hiện tốt các giải pháp khắc phục tăng cường sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc. Để tiếp tục phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế, giữ vững độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, cần nâng
cao nhận thức, trách nhiệm của hệ thống chính trị, các cấp, các
ngành toàn xã hội đối với việc xây dựng, củng cố và phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới. Muốn vậy, phải
tiếp tục quán triệt sâu sắc và thực hiện nhất quán quan điểm: Cách
mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đại
đồn kết tồn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ
lợi ích giữa các tầng lớp, giai cấp và các thành phần trong xã hội,
trong đó đặc biệt chú trọng việc không ngừng nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân.
Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh
đảm bảo thế lực cho đât nước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ Quốc. Trong tình hình đó, chúng ta càng cần phải tập trung làm
tốt hơn nữa công tác xây dựng Ðảng. Phương hướng chung của việc
xây dựng, chỉnh đốn Ðảng hiện nay là phải tiếp tục phát huy truyền

20


thống tốt đẹp, giữ vững và tăng cường bản chất cách mạng và tính

tiên phong của Ðảng, xây dựng Ðảng thực sự trong sạch, vững mạnh
cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức, đổi mới phương thức lãnh
đạo, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với Nhân dân, bảo đảm cho
Đảng đủ sức lãnh đạo sự nghiệp của đất nước khơng ngừng phát
triển.
Kiên trì thực hiện mục tiêu : “Dân giàu, nước mạnh , dân chủ ,
công bằng, văn minh” phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân tộc.
Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, và
chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa
lịch sử. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Đại đồn kết dân tộc không chỉ
là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm
vụ hàng đầu của cả dân tộc". Tăng cường vai trò nòng cốt chính trị,
trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội trong
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp, vận động nhân
dân đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, đẩy mạnh cuộc vận
động "Tồn dân đồn kết xây dựng nơng thôn mới, đô thị văn
minh", thực hành dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội. Thực hiện
tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội, đại diện bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp, chính đáng của đồn viên, hội viên, tích cực tham gia
xây dựng Đảng, Nhà nước, tăng cường đối ngoại nhân dân. Xây dựng
thế trận lòng dân, phát huy sức mạnh đoàn kết, đồng thuận của
nhân dân trong và ngoài nước để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tiếp tục đường lối ngoại giao rộng mở, đa phương hóa, đa dạng
hóa, hợp tác nhiều mặt với tất cả các nước, các tổ chức quốc tế trên
nguyên tắc tơn trọng độc lập, chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ của
nhau, khơng can thiệp vào cơng việc của nhau, bình đẳng, cùng có
lợi, giải quyết các vấn đề tranh chấp đang tồn tại bằng biện pháp
hịa bình. Giữ vững độc lập, tự chủ không chỉ bao gồm việc khắc
phục sự lệ thuộc, chống sự áp đặt, lôi kéo, chi phối mà cịn là nêu
cao và phát huy tính chủ động trong việc tham gia vào các công việc

chung của cộng đồng khu vực và quốc tế. Theo đó, để giữ được độc
lập, tự chủ trong đối ngoại, hội nhập, chúng ta phải có tầm nhìn
chiến lược, khả năng bao qt và dự liệu cả cơ hội và nguy cơ, đồng
thời ln chủ động, tích cực tham gia các cơ chế hợp tác quốc tế, đề
xuất sáng kiến, đóng góp tích cực vào quá trình xây dựng thể chế và
kiến trúc điều tiết quan hệ quốc tế.
IV. KẾT LUẬN

21


Tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế bao gồm nhiều nội
dung rộng lớn, phong phú, cao đẹp, có giá trị bền vững và có ý nghĩa
thời đại sâu sắc. Tư tưởng của Người không chỉ là tài sản tinh thần vô
giá của Đảng Cộng sản Việt Nam, của dân tộc Việt Nam, mà cịn là di
sản vơ giá của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, của
cả nhân loại trong thời đại ngày nay. Mỗi một người dân Việt Nam
cần học tập và rèn luyện theo tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh
đồn kết với các nước, các dân tộc khác, giữ vững mối quan hệ tốt
đẹp giữa nước ta với các quốc gia, dân tộc khác. Mỗi người dân đều
cần tự mình hiểu về đoàn kết quốc tế, tiếp thu những truyền thống
tốt đẹp của dân tốc ta, tránh những tư tưởng lệch lạc,độc hại gây
mất đoàn kết. Là một người con Việt Nam thì ta cần tin tưởng và
đường lối của Đảng và chính phủ, tiếp thu những điều tốt đẹp của
bạn bè quốc tế, ln hịa nhập nhưng vânx giữ ngun tinh thần dân
tộc cao đẹp.
Cùng với tinh thần quốc tế vơ sản của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng đồn kết quốc tế cao đẹp Hồ Chí Minh sẽ mãi mãi soi đường
cho giai cấp cơng nhân, cho cả lồi người tiến tới tương lai tươi sáng,
đi tới một chân trời mới, tới bến bờ hạnh phúc tràn đầy. Tin tưởng và

sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước, học tập và rèn luyện theo tư
tưởng Hồ Chí Minh sẽ giúp cho bản thân chúng ta và dân tộc ta ngày
càng trở nên tốt đẹp hơn. Hiện nay, mạng xã hội ngày càng phát
triển mạnh mẽ, sẽ có rất nhiều thành phần phản động lợi dụng các
ứng dụng truyền thông để lan truyền những tư tưởng sai lệch nhằm
chia rẽ mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước khác cũng như dẫn
dắt thế hệ trẻ hiểu sai về tình yêu nước và sự đồn kết quốc tế. Vì
vậy, việc tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế sẽ giúp
cho mỗi con người, mỗi cá nhân giữ vững ý chí, tư tưởng đúng đắn về
tinh thần tốt đẹp, bao dung và cao quý của dân tộc.
Đề tài 2: Phân tích Tư tưởng của Hồ Chí Minh về đạo đức? Liên hệ tới quá trình
tu dưỡng đạo đức của sinh viên trường Đại học Thương mại hiện nay?
Chương 1: Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
A. Vai trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
Các nguyên tác xây dựng đạo đức
a) Nói đi đơi với làm, phải nêu gương về đạo đức
Muốn có đạo đức cách mạng: Trước hết nói phải đi đơi với làm và luôn nêu gương về
đạo đức. Điều này đã được Người đề cập trong “Đường Kách mệnh” khi nói đến tư
cách của một người cách mệnh. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình

22


Người đã giáo dục mọi người và ngay chính bản thân mình đã thực hiện một cách
nghiêm túc và đầy đủ nhất.
Đối với mỗi người đều nói nhiều mà làm ít, nói mà khơng làm, hơn nữa nói một đằng,
làm một nẻo thì chỉ đem lại hậu quả phản tác dụng. “Hãy làm theo tơi nói, đừng làm
theo tơi làm”, đó là thói đạo đức giả của các giai cấp bóc lột. Cịn việc nêu gương thì
khơng ở lĩnh vực nào mà vấn đề nêu gương lại được đặt ra như trong lĩnh vực đạo đức.
Nêu gương về đạo đức phải diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi. Trong gia đình: Đó là tấm

gương của bố mẹ đối với con cái, của anh chị đối với các em; trong nhà trường thì đó
là tấm gương của thầy, cơ giáo đối với học sinh; trong tổ chức, tập thể, Đảng, Nhà
nước là tấm gương của những người đứng đầu, phụ trách, lãnh đạo, của cấp trên đối
với cấp dưới; trong xã hội thì đó là tấm gương của người này đối với người khác;
những gương “Người tốt việc tốt” mà Hồ Chí Minh đã dầy cơng phát hiện thu thập,
chỉ đạo việc in thành sách để mọi người học tập và làm theo là một việc làm rất cụ thể.
Về vấn đề này Hồ Chí Minh đã nói: “Người tốt, việc tốt nhiều lắm ở đâu cũng có.
Ngành nào, giới nào, địa phương nào, lứa tuổi nào cũng có”. Một bài diễn văn hay
không bằng một tấm gương sống - điều mà Hồ Chí Minh nói về Lê-nin đã đặt ra cho
việc xây dựng đạo đức mới một nguyên tắc rất cơ bản là sự nêu gương về đạo đức.
Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương chung cho cả dân tộc và cho các thế
hệ người Việt Nam mãi mãi về sau học tập.
b) Xây đi đôi với chống:
Nghĩa là đồng thời với việc giáo dục, xây dựng, rèn luyện đạo đức cách mạng phải đi đ
ôi với đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chống những hành vi phi đạo đức.
Muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích cho xây. Cũng vì vậy Hồ Chí Minh căn d
ặn toàn Đảng: “Phải cương quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân nâng cao đạo đức cách
mạng bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đồn kết, tính tổ chức và kỷ luật”. Việc xâ
y dựng đạo đức cách mạng khơng phải dễ dàng, bởi ai lại khơng thích quyền lực, ai thấ
y vàng, tiền bạc, nhà cao cửa rộng lại không ham, cho nên đấu tranh để thắng những h
am muốn của bản thân mình là một cuộc đấu tranh gay go và phức tạp. Nhưng nếu chú
ng ta kiên quyết thì sẽ thành cơng. Hơn nữa, trong Đảng, trong mỗi con người vì nhữn
g lý do khác nhau, nên không phải mọi người đều tốt. Bác Hồ chỉ rõ những kẻ địch cần
chống trước hết là chống thói quen và truyền thống lạc hậu; và đặc bịêt là chống chủ n
ghĩa cá nhân đang ẩn chứa trong mỗi con người, khi có điều kiện tác động nó sẽ phát tr
iển. Cho nên, Bác yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên "trước hết phải đánh thắng lòng tà là
kẻ thù trong mình". Và phải phê phán đấu tranh loại bỏ hàng trăm thứ bệnh do chủ ngh
ĩa cá nhân gây ra vì nó là vật cản nguy hiểm cho việc xây dựng đạo đức cách mạng. Ch
o nên, chúng ta chống là nhằm để xây dựng, đi liền với xây và lấy xây làm chính, lấy g
ương tốt để giáo dục và xây dựng đạo đức cách mạng cho mỗi người và đạo đức trong

Đảng

23


c) Phải tu dưỡng về đạo đức suốt đời:

Bác đã chỉ rõ: "Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do q trình đấ
u tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mà
i càng sáng, vàng càng luyện càng trong".
Việc tu dưỡng đạo đức cách mạng phải trên tinh thần tự giác, tự nguyện, dựa vào lươn
g tâm của mỗi người và sự đóng góp xây dựng của tập thể của quần chúng. Đã là con n
gười thì khó tránh khỏi vấp phải khuyết điểm, sai lầm. Vấn đề là phải dũng cảm nhìn n
hận sai lầm, khuyết điểm để sửa chữa, khắc phục. Và, việc tu dưỡng đạo đức cách mạn
g phải gắn liền với thực tiễn hoạt động cách mạng, phải bền bỉ, ở mọi lúc, mọi nơi, mọ
i hoàn cảnh. Bác đã viết “tư tưởng cộng sản với tư tưởng cá nhân ví như lúa với cỏ dại.
Lúa phải chăm bón rất khó nhọc thì mới tốt được. Cịn cỏ dại khơng cần chăm sóc cũn
g mọc lên lu bù. Tư tưởng cộng sản phải rèn luyện mới có được. Cịn tư tưởng cá nhân
thì cũng như cỏ dại, sinh sôi, nảy nở rất dễ. Vì vậy gột rửa chủ nghĩa cá nhân ví như rử
a mặt thì phải rửa hàng ngày". Bác là một tấm gương suốt đời tự rèn luyện và trở thành
tấm gương tuyệt vời về con người mới. Những đức tính q báu của bác khơng phải là
bẩm sinh có được mà do quá trình tu dưỡng rèn luyện học tập, từng bước hấp thụ tinh
hoa đạo đức dân tộc và nhân loại mà đã trở thành tư tưởng bất tử.
Cho nên, xây dựng, rèn luyện tu dưỡng đạo đức cách mạng và chống chủ nghĩa cá nhâ
n là phải được tiến hành đồng thời, thường xuyên, bền bỉ, suốt đời trong quá trình hoạt
động cách mạng.

Giải pháp nhằm nâng cao đạo đức cho sinh viên trường Đại học Thương Mại
trong giai đoạn hiện nay
Chương 1: Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức

B. Vai trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
a, Đạo đức là gốc, là nền tảng tinh thần của xã hội, của người cách mạng:
Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng, một lãnh tụ cách mạng thể giới đã bàn
nhiều về vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln
coi trọng, quan tâm xây dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân,
với nội dung cốt lõi là trung với nước, hiếu với dân; yêu thương con người; cẩn, kiệm,
liêm, chính, chí cơng vơ tư; tinh thần quốc tế trong sáng; nói đi đơi với làm, nêu gương
về đạo đức; xây đi đôi với chống; tu dưỡng, rèn luyện đạo đức suốt đời. Theo Chủ tịch
Hồ Chí Minh, đạo đức là nền tảng của người cách mạng, ví như gốc của cây, ngọn
nguồn của dịng sơng: “Cũng như sơng có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì
sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo
đức, khơng có dạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân dân”. Với
cán bộ, đảng viên, càng phải yêu cầu cao về đạo đức, bởi: “Làm cách mạng để cải tạo

24


xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là nhiệm vụ
rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh
dược nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng,
mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”. Đạo đức cách mạng sẽ giúp cán
bộ, đảng viên vượt qua mọi khó khăn, gian kHồ, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ;
khắc phục bệnh kiêu ngạo, quan liêu, xa dân, khinh dân, lên mặt “quan cách mạng”.
+ Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Người trăn trở với nguy cơ Đảng xa rời cuộc
sống, xa rời quần chúng, rơi vào thối hóa, biến chất. Vì vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu
Đảng phải "là đạo, đức, là văn minh". Người thường nhắc lại ý của V.I.Lênin: đảng
cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại. Trong
Di chúc, người căn dặn: "Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức
cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật
trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của

nhân dân".
+ Đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội. Theo Hồ Chí Minh,
sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội chưa phải là ở lý tưởng cao xa, ở mức sống vật chất
dồi dào, ở tư tưởng được tự do giải phóng, mà trước hết là ở những giá trị đạo đức cao
đẹp, ở phẩm chất của những người cộng sản ưu tú, bằng tấm gương sống và hành động
của mình, chiến đấu cho lý tưởng đó trở thành hiện thực.
b) Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng
+ Trung với nước, hiếu với dân
"Trung" và "hiếu" là những khái niệm cũ trong tư tưởng đạo đức truyền thống Việt
Nam và phương Đông, phản ánh mối quan hệ lớn nhất và cũng là phẩm chất đạo đức
bao trùm nhất: "Trung với vua, hiếu với cha mẹ".
Trung với nước là tuyệt đối trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, trung
thành với con đường đi lên của đất nước; là suốt đời phấn đấu cho Đảng cho cách
mạng. Hiếu với dân thể hiện ở chỗ thương dân, tin dân, phục vụ nhân dân hài lòng. Để
làm được như vậy, phải gần dân, kính trọng và học tập nhân dân, phải dựa vào dân và
lấy dân làm gốc. Đối với cán bộ lãnh đạo, Hồ Chí Minh u cầu phải nắm vững dân
tình, hiểu rõ dân tâm, thường xuyên quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí.
+ Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí Cơng vơ tư Đây là phẩm chất đạo đức gắn liền với
hoạt động hàng ngày của mỗi con người, là đại cương đạo đức Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm, chính,
nhưng khơng bao giờ thực hiện mà lại bắt nhân dân tuân theo để phụng sự quyền lợi
cho chúng. Ngày nay, ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm gương
cho nhân dân theo là để đem lại hạnh phúc cho dân. Với ý nghĩa như vậy cần, kiệm,
liêm, chính, chí cơng vơ tư cũng là một biểu hiện cụ thể, một nội dung của phẩm chất
"trung với nước, hiếu với dân".
+ Thương u con người, sống có tình nghĩa

25



×