Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về nhà nước pháp quyền và sự vận dụng trong cải cách tư pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (864.28 KB, 105 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

PHM TH HNG Lấ

TƯ TƯởNG Hồ CHí MINH Về NHà NƯớC PHáP QUYềN
Và Sự VậN DụNG TRONG CảI CáCH TƯ PHáP
Chuyờn ngnh: Lý lun v lch s nh nc v phỏp lut
Mó s: 60 38 01

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: GS.TS. HONG TH KIM QU

H NI - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Phạm Thị Hồng Lê




MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1: SỰ HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN ............................. 6
1.1.

Sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền........ 6

1.1.1.

Tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong lịch sử ............................. 6

1.1.2.

Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền .... 10

1.1.3.

Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
pháp quyền ................................................................................... 12

1.2.


Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
pháp quyền .................................................................................. 14

1.2.1.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Hiến pháp, pháp luật ........................... 14

1.2.2.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức quyền lực nhà nước, về nhà
nước của dân, do dân, vì dân ......................................................... 28

1.2.3.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, quyền công dân ....... 32

1.2.4.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức .... 43

Chương 2: CẢI CÁCH TƯ PHÁP VÀ Ý NGHĨA, NỘI DUNG CƠ
BẢN CỦA SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN ............................................... 48
2.1.

Khái niệm về cơ quan tư pháp và cải cách tư pháp .................. 48

2.2.


Cải cách tư pháp ở Việt Nam qua các thời kì ............................ 53


2.3.

Quan điểm về cải cách tư pháp .................................................. 60

2.3.1.

Cải cách tư pháp phải dựa trên các yêu cầu về đổi mới tổ chức và
hoạt động của cơ quan tư pháp theo hướng nhà nước pháp quyền .... 60

2.3.2.

Cải cách tư pháp phải gắn với việc xây dựng đội ngũ cán bộ tư
pháp theo hướng đồng bộ, chuyên nghiệp ..................................... 63

2.3.3.

Cải cách tư pháp gắn liền với quá trình hoàn thiện hệ thống
pháp luật, đặc biệt là pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự............ 64

2.3.4.

Cải cách tư pháp phải gắn với việc tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng, giám sát của Mặt trận tổ quốc và nhân dân ......................... 65

2.4.

Ý nghĩa, nội dung của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh

về nhà nước pháp quyền trong cải cách tư pháp hiện nay ....... 67

2.4.1.

Ý nghĩa của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
pháp quyền trong cải cách tư pháp hiện nay .................................. 67

2.4.2.

Nội dung vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp
quyền trong cải cách tư pháp hiện nay .......................................... 68

KẾT LUẬN ................................................................................................. 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 97


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật Hình sự

CCTP

Cải cách tư pháp

CNXH

Chủ nghĩa xã hội


ĐBQH

Đại biểu quốc hội

HĐND

Hội đồng nhân dân

MTTQ

Mặt trận tổ quốc

NNPQ

Nhà nước pháp quyền

TAND

Toà án nhân dân

TTHS

Tố tụng hình sự

UBND

Uỷ ban nhân dân

VKS


Viện Kiểm sát

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC BẢNG

Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1: Thống kê các khung hình phạt trong Bộ luật Hình
sự năm 1999 gắn với việc phân loại tội phạm

72


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Một trong những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại của dân tộc ta
trong thế kỉ XX là thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 và việc
thành lập nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Cách mạng tháng tám đã xoá
bỏ chế độ thuộc địa nửa phong kiến ở nước ta, mở ra kỉ nguyên mới của lịch
sử dân tộc, kỉ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Thành quả lớn nhất của cách mạng tháng Tám năm 1945 là đã xây dựng

Nhà nước cách mạng kiểu mới ở Việt Nam. Đặc trưng nổi bật của Nhà nước
cách mạng kiểu mới đó là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Ngay sau khi giành được chính quyền, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
cùng toàn dân xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân. Sau một tháng kể từ
ngày Cách mạng tháng Tám thành công, trong bài “Chính phủ là công bộc của
dân”, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Các công việc của Chính phủ làm phải
nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu sự tự do hạnh phúc cho mọi người, cho
nên Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi của nhân dân lên hết
thảy. Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh” [16].
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Hồ chủ tịch, Hiến pháp năm 1946, bản
hiến pháp đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam và trong lịch sử các dân tộc
Đông Nam châu Á đã được xây dựng và thông qua. Với hiến pháp năm 1946,
chủ nghĩa lập hiến và quyền con người từ các giá trị tư tưởng đã trở thành các
giá trị pháp luật hiện thực trong điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam. Những
quy định của Hiến pháp năm 1946 là chuẩn mực hiến định đầu tiên cho việc
xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
Tuy nhiên, quá trình xây dựng và tổ chức Nhà nước trong mấy chục

1


năm qua cho thấy, hàng loạt vấn đề về tổ chức và hoạt động của nhà nước vẫn
chưa được tổng kết làm rõ. Do vậy, các giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt
động của nhà nước được triển khai trong nhiều giai đoạn lịch sử vẫn chưa
đem lại các kết quả mong muốn. Sự bất cập trong tổ chức bộ máy nhà nước
và cơ chế vận hành của bộ máy này đang cản trở việc phát huy vai trò của nhà
nước ta trong cơ chế kinh tế mới.
Nhận thức lý luận về chế độ pháp quyền trong hoạt động nhà nước và
xã hội vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển và do vậy chưa tạo lập được
các cơ ở khoa học vững chắc cho việc tìm kiếm các giải pháp cải cách thực

tiễn đối với đời sống nhà nước. Chính vì thế, việc nghiên cứu lý luận và thực
tiễn tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền đang là một trong những
tất yếu khách quan, là vấn đề cấp thiết, có ý nghĩa quan trọng trong công cuộc
cải cách tư pháp hiện nay.
Tính tất yếu khách quan này xuất phát từ định hướng xây dựng CNXH,
mà mục tiêu cơ bản là xây dựng một chế độ: dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh. Chúng ta ý thức sâu sắc rằng để đạt được một chế
độ xã hội với mục tiêu như vậy, công cụ, phương tiện cơ bản chỉ có thể là nền
kinh tế thị trường XHCN, một nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam trên nền tảng của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua quá trình tìm hiểu và sưu tầm tài liệu cho thấy, đã có rất nhiều bài
viết, công trình nghiên cứu khoa học về đề tài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước pháp quyền, có thể kể tên một số bài viết đã được thực hiện như:
- Một số vấn đề về nhà nước pháp quyền ở nước ta, Tạp chí Cộng sản
số 1(122) năm 2007 của TS Nguyễn Văn Hiện;
- Xây dựng nhà nước pháp quyền; Tạp chí Cộng sản số 1 (122) năm
2007 của đồng chí Tô Huy Rứa, Uỷ viên BCT;
2


- Xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân; Tạp chí
Cộng sản số 61 năm 2004 của GS Lê Xuân Lựu;
- Một số đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật, Tạp chí dân
chủ và pháp luật số 5 năm 2005 của TS Hoàng Thị Kim Quế;
- Chủ tịch Hồ Chí Minh và sự nghiệp xây dựng nhà nước kiểu mới và
pháp luật ở Việt Nam; Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội năm 1982 của
tác giả Nguyễn Ngọc Minh;
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới; Nhà xuất bản chính trị

quốc gia, Hà Nội năm 1995 của tác giả Hoàng Văn Hảo;
Và một số tài liệu như Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh
toàn tập của nhà xuất bản Chính trị quốc gia, các Nghị quyết hội nghị Trung
ương 8 khoá VII năm 1995, văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
lần thứ IX…
Các tài liệu, bài viết trên đã tiếp cận vấn đề và nhận định đánh giá vấn
đề ở các góc độ khác nhau, tuy nhiên cũng cần phải làm rõ thêm các đặc điểm
phù hợp với Việt Nam là căn cứ vào đâu, hoàn cảnh Việt Nam, thế giới, đặc
điểm tâm lý, văn hoá của đất nước ta hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Bản luận văn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền và sự vận
dụng trong cải cách tư pháp” là công trình tập trung nghiên cứu tổng thể và chi
tiết một số vấn đề cơ bản liên quan đến nhà nước pháp quyền, đặc điểm của nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước pháp quyền, từ đó đưa ra những nhận thức về lý luận và thực tiễn trong
việc xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân trong công cuộc
xây dựng CNXH thời kì đổi mới, vận dụng vào quá trình cải cách tư pháp ở
nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Lý luận và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do
dân và vì dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội qua một số nội dung sau:

3


- Đảm bảo mọi lợi ích và quyền hành đều thuộc về nhân dân;
- Giải quyết mối quan hệ công dân-nhà nước là mối quan hệ chính trị
cơ bản để xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân;
- Xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân phải dựa trên
truyền thống, đặc điểm dân tộc, nhất là truyền thống chính trị của đất nước;

- Xây dựng quyền lực nhà nước của các công dân trên nền tảng một hệ
thống pháp luật ngày càng hoàn thiện;
- Nhà nước pháp quyền XHCN phải được vận hành và tổ chức theo
nguyên tắc tập trung dân chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam;
- Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam phải phù hợp với những
giá trị phổ biến tiến bộ của nhân loại.
- Xây dựng nhà nước pháp quyền thể hiện qua công cuộc cải cách tư
pháp hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Với phương pháp luận là Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh giúp cho tư duy và góc độ nghiên cứu luôn đi đúng hướng và có hiệu
quả, kết hợp với phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp so sánh,
đánh giá, tổng kết kinh nghiệm và phương pháp liên ngành; là ba phương
pháp nghiên cứu chính và cụ thể để sử dụng khi nghiên cứu đề tài này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Hiện nay chúng ta đang từng bước xây dựng nhà nước pháp quyền Việt
Nam XHCN của dân, do dân và vì dân. Chỉ khi có một nhà nước như vậy mới có
thể phát huy được quyền dân chủ của nhân dân, đảm bảo quyền sống, quyền
được làm việc, được lao động, được học hành, được đảm bảo an ninh trật tự, an
toàn xã hội. Nó ảnh hưởng đến sự lành mạnh của nền dân chủ, tới cuộc sống và
số phận của từng người dân, tới chiều hướng phát triển của xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã xác định xây dựng nhà nước

4


pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng là một trong những nhiệm vụ
có tính chiến lược; đề tài được nghiên cứu góp phần làm sáng rõ các giá trị
lâu bền, thể hiện tầm nhìn vượt thời đại tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
pháp quyền mang tính thời đại đối với thực tế nước ta hiện nay, không chỉ có

quan điểm lý luận mà còn xây dựng một nhà nước pháp quyền thực tế, nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam, đặc biệt “chế độ pháp trị”, điều hành đời
sống xã hội, quản lý xã hội bằng pháp luật là dân chủ, tiến bộ và có tính chất
phổ biến đối với các xã hội hiện đại.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 2 chương:
Chương 1. Sự hình thành và nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước pháp quyền
Chương 2. Cải cách tư pháp và ý nghĩa, nội dung cơ bản của sự vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền.

5


Chương 1
SỰ HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
1.1. Sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền
1.1.1. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong lịch sử
Pháp quyền là một khái niệm được hình thành và phát triển dọc theo
chiều dài lịch sử của văn minh nhân loại. Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền
luôn gắn liền với tư tưởng phát triển dân chủ đã hình thành ngay từ thời cổ
đại, thể hiện trong quan điểm của các nhà tư tưởng của thời cổ đại như Xôcrat
(469-399 tr.CN), Arixtốt (384-322 tr.CN), Xixêrôn (l06-43 tr.CN). Những tư
tưởng này đã được các nhà tư tưởng chính trị và pháp lý tư bản sau này như
John Locke (1632 - 1704), Montesquieu (1698 - 1755), J.J.Rút-xô (1712 1778), I.Kant (1724 - 1804), Hêghen (1770 - 1831)… phát triển như một thế
giới quan pháp lý mới. Các nội dung, nguyên tắc cơ bản của pháp quyền đã
không ngừng được giải thích, bổ sung và hoàn thiện theo từng giai đoạn và
từng thời kỳ lịch sử. Từ thời Hy Lạp cổ đại, tư tưởng pháp quyền xuất hiện

nơi mà nền dân chủ sơ khai đã được hình thành. Trong giai đoạn này, các nhà
tư tưởng cổ đại không chỉ thuần túy quan tâm tới tính thượng tôn của pháp
luật mà còn coi pháp quyền như là một phương thức tìm kiếm sự tổ chức hợp
lý của hệ thống quyền lực nhà nước. Đáng chú ý trong thời kỳ này là tư tưởng
pháp quyền sơ khai của hai triết gia nổi tiếng Plato và Aristotle. Plato khẳng
định pháp luật phải là ông chủ của chính quyền để ngăn ngừa sự xuất hiện của
những kẻ chuyên quyền. Tương tự, Aristotle cho rằng pháp luật cần phải được
xem như là sự kiềm chế đối với các pháp quan để hạn chế sự tùy tiện trong
quá trình đưa ra các phán quyết.
Tư tưởng và các học thuyết pháp quyền được tiếp tục bổ sung và phát
triển khi giai cấp tư sản ở các quốc gia phương Tây không ngừng lớn mạnh,
6


đấu tranh chống lại giai cấp phong kiến và giáo hội, từ đó từng bước giành
ảnh hưởng trên chính trường. Trong thời kỳ này, tư tưởng pháp quyền được
phát triển và hòa quyện vào các học thuyết về phân quyền, chủ nghĩa lập hiến
và dân chủ. Nhiều nhà nghiên cứu lớn đã xuất hiện với vai trò hết sức quan
trọng trong việc bồi đắp và phát triển các học thuyết pháp quyền. Các tên tuổi
và tác phẩm trứ danh trong thời kỳ này cần phải kể đến là Locke J. với tác
phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền”, J.J. Rousseau với tác phẩm “Khế
ước xã hội” và Ch.L. Montesquieu với tác phẩm “Tinh thần pháp luật”. Đặc
điểm nổi bật nhất của tư tưởng pháp quyền trong giai đoạn này là đề cao các
giá trị dân chủ, tự do và quyền con người. J.J. Rousseau đã bắt đầu tác phẩm
của mình với câu nói bất hủ: “Con người được sinh ra một cách tự do, nhưng
khắp nơi lại bị xiềng xích”. Từ đó, các nhà tư tưởng trong giai đoạn này tập
trung tìm kiếm một cơ chế chế ước quyền lực nhà nước, chống lại sự lạm
quyền và xây dựng một mô hình chính phủ hợp lý nhằm hạn chế việc vi phạm
các quyền con người. Ch.L. Montesquieu với học thuyết tam quyền phân lập
đã được các học giả tư sản phương Tây coi là hòn đá tảng trong việc xây dựng

lý luận tổ chức quyền lực nhà nước tư sản. Một nhà nghiên cứu đã nhận xét
khái quát tư tưởng pháp quyền chủ đạo trong giai đoạn này bằng một khẩu
hiệu: Con người chỉ được tự do khi chính phủ không được tự do.
Các hướng tiếp cận về pháp quyền trong nền khoa học pháp lý thế giới
là hết sức phong phú, đa dạng. Để có thể hiểu được toàn diện khái niệm pháp
quyền trong nền khoa học pháp lý thế giới, chúng ta cần xem xét các học
thuyết pháp quyền trong mối quan hệ biện chứng, liên tục, đan xen, gắn bó và
bổ sung cho nhau. Trong khi hệ thống pháp luật Anh-Mỹ nhấn mạnh pháp
quyền như một sự cơ chế đảm bảo cho sự vận hành hợp lý và hiệu quả của hệ
thống pháp luật nhằm giúp các cá nhân trong xã hội có thể hợp tác và theo
đuổi những kế hoạch phát triển của mình thì các học thuyết pháp quyền của

7


Đức nhấn mạnh đến nguyên tắc phân chia, phân công quyền lực trong tổ chức
bộ máy nhà nước, củng cố cơ chế tiếp cận công lý và đảm bảo quyền con
người. Hướng tiếp cận về pháp quyền của Trung Quốc, quốc gia có hệ thống
pháp luật XHCN lại thể hiện thái độ thận trọng trên con đường tìm kiếm mô
hình nhà nước pháp quyền XHCN. Trong khi đó, các tổ chức quốc tế nhấn
mạnh đến tính linh hoạt, tính mở và năng động của khái niệm pháp quyền trên
thế giới tùy thuộc vào đặc điểm cụ thể của hệ thống chính trị, kinh tế, xã hội,
văn hóa, truyền thống, tính cách dân tộc của từng quốc gia.
Những đặc trưng này được xem là các giá trị phổ biến của nhà nước
pháp quyền nói chung đã được đề cập trong nhiều quan điểm, học thuyết của
các nhà tư tưởng, các nhà lý luận chính trị - pháp lý trong lịch sử phát triển
các tư tưởng chính trị - pháp lý nhân loại.
Các giá trị phổ biến này được trình bày dưới các dạng thức khác nhau
bởi các nhà lý luận, phục thuộc vào lập trường chính trị - pháp lý và quan
điểm học thuật của từng người. Các trình bày có thể khác nhau, song về bản

chất có thể quy về các giá trị có tính tổng quát sau:
Nhà nước pháp quyền là biểu hiện tập trung của chế độ dân chủ. Dân chủ
vừa là bản chất của nhà nước pháp quyền vừa là điều kiện, tiền đề của chế độ
nhà nước.
Mục tiêu của nhà nước pháp quyền là xây dựng và thực thi một nền dân
chủ, đảm bảo quyền lực chính trị thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện
quyền dân chủ của mình thông qua dân chủ trực tiếp; dân chủ đại diện.
Nhà nước pháp quyền được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật.
Hiến pháp và pháp luật luôn giữ vai trò điều chỉnh cơ bản đối với toàn
bộ hoạt động Nhà nước và hoạt động xã hội, quyết định tính hợp hiến và hợp
pháp của mọi tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.

8


Tuy nhiên không phải mọi chế độ lập Hiến, mọi hệ thống pháp luật đều
có thể đưa lại khả năng xây dựng nhà nước pháp quyền, mà chỉ có Hiến pháp
và hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng mới có thể làm cơ sở cho chế độ
pháp quyền trong nhà nước và xã hội.
Nhà nước pháp quyền tôn trọng, đề cao và đảm bảo quyền con người
trong mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội.
Quyền con người là tiêu chí đánh giá tính pháp quyền của chế độ nhà
nước. Mọi hoạt động của Nhà nước đều phải xuất phát từ sự tôn trọng và đảm
bảo quyền con người, tạo mọi điều kiện cho công dân thực hiện quyền của
mình theo đúng các quy định của luật pháp.
Mối quan hệ giữa cá nhân và nhà nước được xác định chặt chẽ về
phương diện luật pháp và mang tính bình đẳng. Mô hình quan hệ giữa Nhà
nước và cá nhân được xác định theo nguyên tắc: Đối với cơ quan nhà nước
chỉ được làm những gì luật cho phép; đối với công dân được làm tất cả trừ

những điều luật cấm.
Quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền được tổ chức và thực
hiện theo các nguyên tắc dân chủ: phân công quyền lực và kiểm soát quyền
lực. Tính chất và cách thức phân công, kiểm soát quyền lực nhà nước rất đa
dạng, tuỳ thuộc vào chính thể nhà nước ở các nước khác nhau, nhưng đều có
điểm chung là quyền lực nhà nước không thể tập trung vào một người, vào
một cơ quan, mà phải được phân công (phân chia) giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp.
Đồng thời, việc tổ chức và thực thi quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ
với các cơ chế kiểm soát quyền lực cụ thể kể cả bên trong bộ máy nhà nước
và bên ngoài bộ máy nhà nước.
Nhà nước pháp quyền gắn liền với một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và
pháp luật phù hợp.
Nền tảng của nhà nước pháp quyền là Hiến pháp và một hệ thống pháp

9


luật dân chủ và công bằng, do vậy, một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật
luôn là một yêu cầu, một điều kiện cần thiết nhằm đảm bảo cho Hiến pháp,
pháp luật luôn được tôn trọng, đề cao và tuân thủ nghiêm minh.
Hình thức và phương thức bảo vệ Hiến pháp và pháp luật ở các quốc gia
có thể đa dạng và khác nhau, nhưng đều hướng tới mục tiêu là bảo đảm địa vị
tối cao, bất khả xâm phạm của Hiến pháp, loại bỏ hành vi trái với tinh thần và
quy định của Hiến pháp, không phụ thuộc và chủ thể của các hành vi này.
Đồng thời với bảo vệ Hiến pháp, nhà nước pháp quyền luôn đòi hỏi
phải xây dựng và thực thi một chế độ tư pháp thật sự dân chủ, minh bạch và
trong sạch để duy trì và bảo vệ pháp chế trong mọi lĩnh vực hoạt động của
Nhà nước và xã hội.
Trong nhà nước pháp quyền, quyền lực nhà nước luôn được giới hạn

trong các mối quan hệ: Nhà nước và kinh tế; Nhà nước và xã hội.
Trong mối quan hệ giữa Nhà nước và kinh tế, vị trí, vai trò, chức năng,
nhiệm vụ của Nhà nước được xác định bởi tính chất, trình độ của các mô hình
kinh tế thị trường, theo hướng Nhà nước tôn trọng, phát huy các quy luật
khách quan của thị trường, thông qua thị trường để điều tiết các quan hệ kinh
tế, đồng thời khắc phục, hạn chế các mặt tiêu cực của thị trường.
Trong mối quan hệ với xã hội, Nhà nước thông qua luật pháp để quản
lý xã hội, tôn trọng đề cao vị trí, vai trò và quyền tự chủ (tự quản) của các cấu
trúc xã hội (các tổ chức xã hội, các cộng đồng xã hội).
Mối quan hệ giữa Nhà nước, kinh tế, xã hội là mối quan hệ tương tác,
quy định và chi phối lẫn nhau. Nhà nước không đứng trên kinh tế và xã hội.
Nhà nước pháp quyền gắn liền với kinh tế và xã hội, phục vụ kinh tế và xã hội
trong phạm vi Hiến pháp và pháp luật.
1.1.2. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền
Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, cha ông ta đã
tích lũy được biết bao kinh nghiệm quý báu về xây dựng nhà nước, được phản

10


ánh trong các bộ sử lớn của dân tộc như Đại Việt sử ký toàn thư, Lịch triều
hiến chương loại chí,... Kinh nghiệm làm luật, trị nước được ghi lại trong các
bộ luật nổi tiếng như Hình thư (đời Lý), Quốc triều hình luật (đời Trần), bộ
luật Hồng Đức (đời Lê),... mà giá trị của nó có thể sánh ngang với các bộ luật
nổi tiếng ở phương Đông, trong đó có những tư tưởng còn được đề cập đến
sớm hơn cả phương Tây, ví dụ vấn đề bình đẳng đối với phụ nữ: cho phép ly
hôn, có quyền thừa kế tài sản, công nhận công lao chung của vợ chồng trong
vấn đề tài sản, cho phép nhận con nuôi…
Những yếu tố tích cực của nhà nước thân dân thời kỳ phong kiến hưng
thịnh trong lịch sử dân tộc cùng với hình ảnh lý tưởng về nhà nước "vua

Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn", "nước lây dân làm gốc" tiếp thu được ở
Nho giáo,... là những hành trang đầu tiên Hồ Chí Minh mang theo trên con
đường cứu nước và tìm kiếm một mô hình nhà nước tiên bộ cho đất nước sau
khi giành được độc lập.
Chủ tịch Hổ Chí Minh khởi xướng cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do cho
dân tộc mình và cho các dân tộc thuộc địa bằng việc vạch trần bản chất vô
nhân đạo, phản tiến hóa của cái gọi là "công lý" mà thực dân, đế quốc thi
hành ở các xứ "bảo hộ" [17, tr.349]. Người viết:
Ở Đông Dương có 2 thứ công lý: một thứ cho người Pháp,
một thứ cho người bản xứ. Người Pháp thì được xử như ở Pháp.
Người Việt Nam thì không có hội đồng bổi thẩm, cũng không có
luật sư người Việt. Thường người ta xử án và tuyên án theo giấy tờ,
vắng mặt người bị cáo. Nếu có vụ kiện cáo giữa người Việt Nam
với người Pháp thì lúc nào người Pháp cũng có lý cả, mặc dù tên
này ăn cướp hay giết người [17, tr.420].
Năm 1919, nhân danh một nhóm người Việt Nam yêu nước tại Pháp,
dưới tên ký Nguyễn Ái Quốc, Người gửi đến Hội nghị Véc xây bản "Yêu
sách của nhân dân An Nam" đòi các quyền tự do tối thiểu cho dân tộc mình.
11


Trong lịch sử chính trị và pháp lý của nước ta, đây là văn kiện pháp lý
đầu tiên đặt vấn đề kết hợp khăng khít quyền tự quyết của các dân tộc với các
quyền tự do, dân chủ của nhân dân; tức là kết hợp chặt chẽ quyền dân tộc và
quyền con người. Đây cũng là lần đầu tiên một người Việt Nam yêu nước,
nhân một Hội nghị quốc tế, đã dũng cảm đứng lên đoạt lại ngọn cờ về quyển
dân tộc và quyền con người trong tay thực dân, đế quốc, biến những chiêu bài
bịp bợm của chúng thành những yêu sách chính trị và pháp lý chính đáng, buộc
chúng phải thực hiện những quyền dân tộc và dân chủ mà chúng đã rêu rao.
Trên hành trình cứu nước, Người đã khảo sát mô hình nhà nước tư sản

Mỹ, Pháp, "những cuộc cách mạng không đến nơi", vì ở đó, chính quyền vẫn
ở trong tay một số ít người. Người đã phát hiện ra rằng, sau những lời hoa mỹ
về "quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc"
của Tuyên ngôn độc lập 1776, là sự bất bình đẳng, nghèo đói, nạn phân biệt
chủng tộc và biết bao sự tàn bạo, bất công khác, nhất là đối với người da đen.
Người coi đó là: “Một cuộc cách mạng chưa đến nơi, vì cách mạng đã thành
công hơn 150 năm nay mà công nông vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính cách
mạng lần thứ hai” [18, tr.270].
Sau khi đến Liên Xô, Người đã tìm hiểu một mô hình Nhà nước Xô
viết, nhà nước đó: "Phát đất ruộng cho dân cày, giao công xưởng cho thợ
thuyền,... ra sức tổ chức kinh tế mới để thực hành chủ nghĩa thế giới đại
đổng" [18]. Mô hình nhà nước đó là một gợi ý cho Người về một kiểu nhà
nước sẽ được xây dựng ở Việt Nam trong tương lai.
1.1.3. Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
pháp quyền
Từ những nghiên cứu, khảo sát trên, Hồ Chí Minh từng bước hình
thành và phát triển tư tường của mình về một mô hình nhà nước sẽ được xây
dựng ở Việt Nam trong tương lai.
Năm 1930, trong Chánh cương vắn tắt, lần đầu tiên Người nêu mục

12


tiêu "dựng ra chính quyền công nông binh" [18, tr.1]. Ý tưởng này chỉ thấy
Người đề cập đến có một lần.
Năm 1941, Hồ Chí Minh về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng, chủ trì
Hội nghị Trung ương 8 (5-1941), hoàn chỉnh sự chuyển hướng chi đạo chiến
lược và sách lược, đề ra Chương trình Việt Minh, về vấn đề chính quyền, Hội
nghị chủ trương:
Không nên nói công nông liên hợp và lập chính quyền Xô

viết, mà phải nói toàn thế nhân dân liên hiệp và lập chính phủ dân
chủ cộng hoà [6, tr.7].
Chương trình Việt Minh cũng ghi rõ: Sau khi đánh đuổi được
đế quốc Pháp, Nhật, sẽ thành lập một chính phủ nhân dân của Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa lấy lá cờ đỏ ngôi sao vàng năm cánh làm lá
cờ toàn quốc. Chính phủ ấy do quốc gia đại hội cử ra [10, tr.150].
Khi thời cơ giải phóng dân tộc đã đến gần, trong Thư gửi đồng bào
toàn quốc (10-1944), Hồ Chí Minh cũng nói rõ: trước hết cần có một chính
phủ đại biểu cho sự chân thành đoàn kết và hành động nhất trí của toàn thể
quốc dân, gồm tất cà các đảng phái cách mệnh, các đoàn thể ái quốc trong
nước bầu cừ ra. "Một cơ cấu như thế mới đủ lực lượng và oai tín, trong thì
lãnh đạo công việc cứu quốc, kiến quốc ngoài thì giao thiệp với các hữu
bang" [19, tr.505].
Như vậy, từ mô hình nhà nước công nông binh chuyển sang mô hình nhà
nước đại biểu cho khối đoàn kết của toàn thể quốc dân là một bước chuyển sáng
suốt của Hồ Chí Minh, phản ánh được nét đặc thù của thực tiễn dân tộc, phù hợp
với sự chuyển hướng chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam.
Sang năm 1945, phong trào phát triển mạnh, căn cứ địa cách mạng
được mở rộng, hình thành một vùng rộng lớn gồm 6 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn,
Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và một số vùng ngoại vi
thuộc các tình Bắc Giang, Vĩnh Yên, Phú Thọ, Yên Bái,...

13


Trước tình hình đó, Hồ Chí Minh chi thị thành lập Khu giải phóng, cử
ra ủy ban chỉ huy lâm thời, thực hiện chức năng của chính quyền cách mạng.
Tại các địa phương trong Khu giải phóng, các ủy ban nhân dân cách mạng
cũng được thành lập, do nhân dân cử ra, để thi hành 10 chính sách của Việt
Minh. Khu giải phóng là hình ảnh "nước Việt Nam mới phôi thai", "các ủy

ban nhân dân cách mạng vừa lãnh đạo nhân dân chuẩn bị tổng khởi nghĩa,
vừa tập cho nhân dân cầm chính quyền" [3, tr.134]
Tiếp theo, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào đã đi đến
quyết định lịch sử: phát động tổng khởi nghĩa, thành lập ủy ban Dân tộc giải
phóng Việt Nam, ra mắt Quốc dân Đại hội, làm chức năng của Chính phủ lâm
thời ngay sau Cách mạng Tháng Tám thắng lợi.
Sau khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, trong
gần 1/4 thế kỷ, trên cương vị là Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam mới,
nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở châu Á, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có
công đầu trong việc đặt nền móng xây dựng một nhà nước kiểu mới trong lịch
sử dân tộc: Nhà nước của dân, do dân, vì dân, một nền móng cho nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại, tất cả những nghiên cứu, khảo sát cùng thực tiễn tổ chức, hoạt
động của Hồ Chí Minh được nói đến ở trên là cơ sở góp phần hình thành nên
tư tưởng của Người về nhà nước pháp quyền.
1.2. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Hiến pháp, pháp luật
Tiếp xúc với nền văn minh Âu - Mỹ, nhất là kinh nghiệm tổ chức, hoạt
động của nhà nước trong quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội, Hồ Chí
Minh cho rằng, quản lý xã hội bằng pháp luật là dân chủ, tiến bộ và có tính
chất phổ biến đối với các xã hội hiện đại.
Nhận thức được tầm quan trọng của luật pháp, từ rất sớm, Hồ Chí Minh

14


đã đề cập đến vai trò của chúng trong điều hành và quản lý xã hội. Năm 1919,
tám yêu sách của nhân dân An Nam gửi tới Hội nghị Véc- xây đã có 4 điểm liên
quan đến vấn đề pháp quyền, còn lại liên quan đến công lý và quyền con người.
Bản Yêu sách của nhân dân An Nam được Hồ Chí Minh chuyển thành

“Việt Nam yêu cầu ca”, trong đó yêu cầu thứ bảy là: “Bảy xin hiến pháp ban
hành, Trăm điều phải có thần linh pháp quyền” [17]. Đây là tư tưởng rất đặc
sắc của Hồ Chí Minh, phản ánh nội dung cốt lõi của Nhà nước dân chủ mới Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Đồng thời, đây cũng là nguyên tắc
xuyên suốt trong hoạt động quản lý nhà nước của Người.
Sau Cách mạng Tháng Tám, năm 1945, Hồ Chí Minh đề ra một trong
sáu nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là: Chúng
ta phải có một Hiến pháp dân chủ. Ngày 20/9/1945, Chủ tịch lâm thời nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà ký Sắc lệnh thành lập Ban dự thảo Hiến pháp
gồm 7 thành viên do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm trưởng ban. Bản dự thảo
Hiến pháp hoàn thành khẩn trương và nghiêm túc dưới sự chỉ đạo trực tiếp
của Hồ Chủ tịch. Tại kỳ họp thứ 2 của Quốc hội khoá I vào tháng 10/1946,
Quốc hội đã thảo luận dân chủ và thông qua bản dự thảo Hiến pháp này. Đó là
bản hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam: Hiến pháp năm 1946. Trong
phiên họp Quốc hội thông qua hiến pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát biểu:
“… Hiến pháp đã nêu một tinh thần đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc Việt
Nam và một tinh thần liêm khiết, công bình của các giai cấp”. Và nhấn mạnh
rằng: “Chính phủ cố gắng làm theo đúng 3 chính sách: dân sinh, dân quyền
và dân tộc” [13].
Sau năm 1954, khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, đất nước đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhiều quy định trong Hiến
pháp năm 1946 không còn phù hợp, Hồ Chí Minh đã chủ trương sửa đổi và
ban hành Hiến pháp mới - Hiến pháp năm 1959. Trong tư duy Hồ Chí Minh,

15


một khi điều kiện kinh tế - xã hội thay đổi thì pháp luật, nhất là đạo luật “gốc”
- Hiến pháp, cũng phải thay đổi để bảo đảm khả năng điều chỉnh hợp lý các
quan hệ xã hội đã phát sinh và định hình.
Ngoài hai bản Hiến pháp năm 1946, 1959, từ năm 1945 đến 1969, Hồ

Chí Minh còn chỉ đạo soạn thảo, ký quyết định công bố 16 đạo luật và 1.300
văn bản dưới luật, trong đó có 243 Sắc lệnh quy định về tổ chức nhà nước đã
hình thành một thể chế bộ máy nhà nước có nhiều nhân tố cơ bản của một nhà
nước pháp quyền.
Hồ Chí Minh luôn khẳng định: Pháp luật của ta là pháp luật dân chủ,
phải nghiêm minh và phát huy hiệu lực thực tế. Nhà nước sử dụng pháp luật
để quản lý xã hội. Song pháp luật của ta đã có sự thay đổi về chất, mang bản
chất của giai cấp công nhân, là một loại hình pháp luật kiểu mới, pháp luật
thật sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao
động. Báo cáo tại hội nghị chính trị đặc biệt, ngày 27/3/1964, một trong 5
nhiệm vụ để hoàn thành sự nghiệp cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên
là “Tăng cường không ngừng chính quyền nhân dân. Nghiêm chỉnh thực hiện
dân chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ địch. Triệt để chấp hành mọi chế
độ và pháp luật của Nhà nước” [26, tr.235].
Nét đặc sắc trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về tổ chức nhà nước là các
cơ quan nhà nước hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy định của
pháp luật nhưng trong điều kiện của một nước thuộc địa nửa phong kiến ở
phương Đông, Hồ Chí Minh sử dụng linh hoạt pháp trị và đức trị trong tổ
chức hoạt động của Nhà nước và quản lý nhà nước.
Cán bộ trực tiếp thực thi luật pháp phải thật sự công tâm và nghiêm
minh. Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên có nhiệm vụ “gương mẫu chấp
hành pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của các đoàn thể cách mạng của quần

16


chúng mà mình tham gia”. Trong việc giữ vững tính nghiêm minh và hiệu lực
của pháp luật, cán bộ làm công tác tư pháp có vai trò quan trọng. Họ chính là
người trực tiếp thực thi luật pháp, đại diện cụ thể cho “cán cân công lý”. Vì
thế, Hồ Chí Minh yêu cầu ở họ phải có phẩm chất đạo đức cần thiết: Trong

công tác xử án phải công bằng, liêm khiết, trong sạch như thế cũng chưa đủ vì
không thể chỉ hạn chế hoạt động của mình trong khung toà án mà còn phải
gần dân, giúp dân, học dân, hiểu dân để giúp mình thêm liêm khiết thêm công
bằng, trong sạch.
Với Hồ Chí Minh, pháp luật không phải là để trừng trị con người mà là
công cụ bảo vệ, thực hiện lợi ích của con người. Tư tưởng pháp quyền trong
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước thông qua đội ngũ cán bộ, công
chức của Người thấm đượm một tấm lòng thương yêu nhân dân, chăm lo cho
ấm no, hạnh phúc của nhân dân, thấm đượm lòng nhân ái, nghĩa đồng bào
theo đạo lý truyền thống ngàn năm của dân tộc Việt Nam. Vì thế, kết hợp
giữa đức trị và pháp trị trong tổ chức nhà nước của Hồ Chí Minh có nội hàm
triết lý, mang đậm tính dân tộc và dân chủ sâu sắc.
Là người đầu tiên truyền bá và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin
vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấm nhuần sâu
sắc quan điểm của các nhà mácxít về bản chất của pháp luật.
Trước hết, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, nhà nước và pháp
luật chỉ ra đời, tồn tại và phát triển khi xã hội phân chia thành những giai cấp
đổi kháng về lợi ích và mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Không
tồn tại nhà nước và pháp luật phi giai cấp, “siêu giai cấp”. Nhà nước của giai
cấp nào lập ra thì pháp luật mang bản chất của giai cấp đó.
Tính giai cấp của pháp luật thể hiện ở chỗ, pháp luật phản ánh ý chí nhà
nước của giai cấp thống trị. Giai cấp thống trị thông qua nhà nước thể hiện ý chí
tập trung, thống nhất ý chí của giai cấp mình thông qua các văn bản pháp luật do
17


các cơ quan nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện. C.Mác và Ph. Ăngghen,
khi nghiên cứu về pháp luật tư sản đã đi đến kết luận: “Pháp luật của các ông
chỉ là ý chí của giai cấp các ông được đề lên thành luật, cái ý chí mà nội
dung là do các điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp các ông quyết định”

[2, tr.562]. Rõ ràng ý chí của giai cấp thống trị, thông qua pháp luật, hướng
tới việc điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm định hướng các quan hệ xã hội
phát triển theo hướng có lợi cho giai cấp thống trị, đồng thời bảo vệ và cùng
cố địa vị của giai cấp thống trị.
Như vậy, bản chất giai cấp luôn là thuộc tính chung của bất kỳ kiểu
pháp luật nào, nhưng mồi kiểu pháp luật có những cách thể hiện riêng. Tuy
nhiên, điểm chung của pháp luật trong các kiểu nhà nước bóc lột trước đó chỉ
là ý chí của thiểu số giai cấp thống trị, là công cụ áp bức giai cấp còn pháp
luật xã hội chủ nghĩa thì hoàn toàn khác với các kiểu pháp luật trước đó về
chất, nó thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, là công
cụ để xây dựng xã hội mới trong đó mọi người đều được sống tự do, bình
đẳng, dân chủ và công bằng xã hội được bảo đảm.
Trong quá trình hoạt động của mình, với tinh thần phê phán sâu sắc và
đấu tranh kiên quyết chống pháp luật tư sản và chế độ thuộc địa tàn bạo, Hồ
Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Đây là sự kiện đánh dấu sự thay
đổi về chất trong tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật. Đứng trên lập trường
của chủ nghĩa duy vật lịch sử Mácxít, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
“Trong các nhà nước bóc lột, pháp luật là vũ khí của giai cấp thống trị dùng
để cai trị các giai cấp đối kháng, pháp luật đó là ý chí của thiểu số, bảo vệ,
duy trì lợi ích của giai cấp thống trị và áp bức đa số nhân dân lao động” [15].
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người khởi xướng. Tổ chức cuộc đấu tranh vạch trần
bản chất phản nhân dân, phản tiến bộ của nhà nước và pháp luật đế quốc, thực
dân: “Pháp luật cũ là ý chí của thực dân Pháp, không phải là ý chí của toàn

18


thể nhân dân ta” [32, tr.185]. Pháp luật là vũ khí của giai cấp thống trị để
trừng trị giai cấp chống lại mình; mục đích đầu tiên của pháp luật bóc lột là
trừng trị và áp bức giai cấp; bản chất của pháp luật bóc lột là phản dân chủ,

phản tiến bộ. Người khẳng định ở đâu chủ nghĩa thực dân cũng đều biến
người dân thuộc địa thành nô lệ, không có quyền sống, quyền được pháp luật
bảo hộ. Công lý được đề cao trong các cương lĩnh của các cuộc cách mạng tư
sản chỉ là giả hiệu, lừa dân. Trong tham luận tại Đại hội lần thứ 3 Quốc tế
công hội đỏ, Hồ Chí Minh chỉ ra ràng: “Bộ luật thuộc địa do những nhà khai
hóa Pháp soạn ra chính là để đàn áp bất kỳ một biểu hiện nào có tính tự chủ
của người dân bản xứ nói chung và tầng lớp vô sản nói riêng...” [17, tr.92].
Cũng từ cách phê phán bản chất của pháp luật phong kiến, tư sản, thực
dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chi rõ: Phong kiến đặt ra luật pháp để trị nông
dân. Tư bản đặt ra luật pháp để trị công nhân và nhân dân lao động... Luật
pháp của giai cấp bóc lột đặt ra để áp bức các giai cấp bị bóc lột. Luật pháp
cũ đặt ra để giữ gìn trật tự xã hội thật, nhưng trật tự xã hội ấy chi có lợi cho
thực dân phong kiến, không phải có lợi cho toàn thể nhân dân... Đồng thời,
Người khẳng định:
Không có pháp luật chung chung, mà chi có một bên là pháp
luật cách mạng tiến bộ và một bên là pháp luật phản động. Pháp
luật của chúng ta là ý chí của giai cấp vô sản, đại biểu cho lợi ích
của nhân dân lao động. Pháp luật ta không những đặt ra là để đàn áp
kẻ thù của cách mạng mà còn để cải tạo xã hội theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, giáo dục quần chúng làm cách mạng, xây dựng cuộc
sống tốt đẹp của mình [15, tr.185].
Như vậy, pháp luật của nước ta là ý chí của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động và của cả dân tộc, nó bảo vệ quyền lợi cho hàng triệu người lao
động. Pháp luật đó nhằm mục đích đấu tranh, loại trừ áp bức, bất công, thiết lập

19


×