Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Vấn đề cơ bản của Triết học và nhận thức của bản thân về vai trò của Triết học trong đời sống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (341.75 KB, 21 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
🞠◊🞠◊🞠

VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC VÀ NHẬN THỨC
CỦA BẢN THÂN VỀ VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC
TRONG ĐỜI SỐNG
Tiểu luận cuối kỳ
(Môn học: Triết học Mác – Lênin)

MÃ SỐ LỚP HP: LLCT130105_04
GVHD: TS. ĐẶNG THỊ MINH TUẤN
NHÓM THỰC HIỆN: NHÓM 4
HỌC KỲ: 2 –NĂM HỌC: 2019-2020


TP.HỒ CHÍ MINH – 6/2020

Họ tên sinh viên thực hiện đề tài:
1. Nguyễn Thị Huế

19146338

2. Đinh Văn Bình

19146308

3. Ngơ Hữu Đạt

19119163



4. Trần Kiều Mỹ Nương

19158143

ĐIỂM: ………………………………………………………….

NHẬN

XÉT

CỦA

GV

:……...…………………………………………

………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………………………………
……………………………………….
…………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………
……

GV ký tên


MỤC LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU

1

1. Lý do chọn đề tài

1

2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài

1

3. Phương pháp thực hiện đề tài

2

PHẦN NỘI DUNG

3

CHƯƠNG 1: VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC

3

1.1. Khái niệm Triết học

3

1.2. Nội dung cơ bản của Triết học


4

CHƯƠNG 2: NHẬN THỨC CỦA BẢN THÂN VỀ VAI TRỊ CỦA TRIẾT
HỌC TRONG ĐỜI SỐNG

6

2.1. Vai trị thế giới quan của Triết học

6

2.2. Vai trò phương pháp luận của Triết học

9

PHẦN KẾT LUẬN

14

TÀI LIỆU THAM KHẢO

16


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, sự phát triển về

mặt vật chất của đời sống xã hội,… cũng khơng hề làm giảm đi tính chất kì bí và
vai trị đối với thực tiễn của Triết học, mà vấn đề là phải có một tư duy lý luận,
đúng đắn để không bị lạc lối trong sự phát triển đó, hơn nữa, sự phát triển về
mặt xã hội của khoa học kỹ thuật cũng tác động ngược trở lại khoa học Triết
học. Nền kinh tế của nước ta từ một điểm xuất phát thấp, tiềm lực kinh tế- kĩ
thuật yếu, trong q trình tồn cầu hóa đang là xu thế tất yếu như hiện nay liệu
nước ta có thể đạt được những thành công nhất định hay không? Chúng ta
phải làm gì để tránh được nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và
trên thế giới? Câu hỏi này đặt ra cho chúng ta một vấn đề đó là sự lựa chọn
bước đi và trật tự ưu tiên phát triển trong giai đoạn tới. Như vậy có nghĩa là
chúng ta cần phải có tri thức vì tri thức là khoa học. Chúng ta phải khơng ngừng
nâng cao khả năng nhận thức cho mỗi người. Tuy nhiên nếu tri thức không biến
thành niềm tin và ý chí thì tự nó cũng khơng có vai trị gì đối với đời sống hiện
thực cả. Chỉ chú trọng đến tri thức mà bỏ qua cơng tác văn hóa- tư tưởng thì sẽ
khơng phát huy được thế mạnh truyền thống của dân tộc. Trước thời cơ và
thách thức đan xen, việc tìm hiểu nhằm nâng cao nhận thức về khoa học Triết
học là việc làm mang tính cấp thiết, có tầm quan trọng đặc biệt đối với nhận
thức và hành động của mỗi chúng ta trong giai đoạn hiện nay để có những biện
pháp đúng đắn tạo điều kiện cho sự phát triển tồn diện của xã hội. Đó cũng
chính là lí do nhóm chúng em chọn đề tài “Vấn đề cơ bản của Triết học và
nhận thức của bản thân về vai trò của Triết học trong đời sống” làm đề tài
tiểu luận của mình.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài


2

Mục tiêu của bài tiểu luận này là tìm hiểu vấn đề cơ bản của Triết học từ đó
nêu lên nhận thức của bản thân về vai trò của Triết học trong đời sống.
Để đạt được mục tiêu này, tiểu luận tập trung vào các nhiệm vụ sau:

- Tìm hiểu về vấn đề cơ bản của Triết học
- Nhận thức của bản thân về vai trò của Triết học trong đời sống.
3. Phương pháp thực hiện đề tài
Tiểu luận được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với một số phương
pháp cụ thể như: lịch sử - logic, phân tích - tổng hợp, quy nạp - diễn dịch …


3

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC
1.1. Khái niệm Triết học
Triết học xuất hiện cả ở phương Đông và phương Tây vào khoảng thế kỷ
thứ VIII đến thế kỷ thứ III (TCN).
- Ở phương Đông:
+ Trung Quốc: Người Trung quốc cổ đại quan niệm “ Triết” chính là “ trí”, là
cách thức và nghệ thuật diễn giải, bắt bẻ có tính lý luận trong học thuật nhằm
đạt tới chân lý tối cao.
+ Theo người Ấn Độ: Triết học được đọc là darshana, có nghĩa là chiêm ngưỡng
nhưng mang hàm ý là tri thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt
con người đến với lẽ phải.
- Ở phương Tây, thuật ngữ Triết học xuất hiện ở Hy lạp được la tinh hoá là
Philôsôphia -nghĩa là yêu mến, ngưỡng mộ sự thông thái. Như vậy Philơsơphia
vừa mang tính định hướng, vừa nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm chân lý của
con người.
Tóm lại: Dù ở phương Đông hay phương Tây, Triết học được xem là hình
thái cao nhất của tri thức, nhà Triết học là nhà thơng thái có khả năng tiếp cận
chân lý, nghĩa là có thể làm sáng tỏ bản chất của mọi vật.
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau, nhưng bao hàm những nội dung

giống nhau, đó là: Triết học nghiên cứu thế giới một cách chỉnh thể, tìm ra
những quy luật chung nhất chi phối sự vận động của chỉnh thể đó nói chung,
của xã hội lồi người, của con người trong cuộc sống cộng đồng nói riêng và thể
hiện nó một cách có hệ thống dưới dạng duy lý.


4

Khái quát lại ta có thể hiểu: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung
nhất của con người về thế giới; về vị trí vai trị của con người trong thế giới
đó.
1.2. Nội dung cơ bản của Triết học
Vấn đề cơ bản của Triết học là vấn đề về mối quan hệ giữa tồn tại và tư
duy, giữa vật chất và ý thức. Nó là vấn đề cơ bản vì việc giải quyết nó sẽ quyết
định cơ sở để giải quyết những vấn đề khác của Triết học, điều đó đã được
chứng minh trong lịch sử phát triển lâu dài và phức tạp của Triết học.
Vấn đề cơ bản của Triết học gồm hai mặt:
+ Mặt thứ nhất trả lời câu hỏi: Giữa vật chất và ý thức cái nào có trước, cái nào
có sau, cái nào quyết định cái nào? Nói cách khác, giữa vật chất và ý thức cái
nào là tính thứ nhất, cái nào là tính thứ hai. Có hai cách trả lời khác nhau dẫn
đến hình thành hai khuynh hướng Triết học đối lập nhau:
Những quan điểm Triết học cho vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính
thứ hai hợp thành chủ nghĩa duy vật. Trong lịch sử tư tưởng Triết học có ba
hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật: Chủ nghĩa duy vật chất phác, ngây thơ
cổ đại; Chủ nghĩa duy vật máy móc, siêu hình thế kỷ XVII – XVIII; Chủ nghĩa duy
vật biện chứng.
Ngược lại, những quan điểm Triết học cho ý thức là tính thứ nhất, vật
chất là tính thứ hai, hợp thành chủ nghĩa duy tâm. Chủ nghĩa duy tâm lại được
thể hiện qua hai trào lưu chính: Chủ nghĩa duy tâm khách quan (Platon,
Hêghen…) và chủ nghĩa duy tâm chủ quan (Beccli, Hium…)

+ Mặt thứ hai trả lời cho câu hỏi: Con người có khả năng nhận thức được thế
giới hay không? (Ý thức có thể phản ánh được vật chất hay khơng, tư duy có


5

thể phản ánh được tồn tại hay không?). Mặt này còn được gọi là mặt nhận
thức.
Các nhà Triết học duy vật cho rằng, con người có khả năng nhận thức thế
giới. Song, do mặt thứ nhất quy định, nên sự nhận thức đó là sự phản ánh thế
giới vật chất vào óc con người.
Một số nhà Triết học duy tâm cũng thừa nhận con người có khả năng
nhận thức thế giới, nhưng sự nhận thức đó là sự tự nhận thức của tinh thần, tư
duy.
Một số nhà Triết học duy tâm khác như Hium, Can-tơ lại phủ nhận khả
năng nhận thức thế giới của con người. Đây là những người theo “Bất khả tri
luận” (Thuyết không thể biết). Khuynh hướng này khơng thừa nhận vai trị của
nhận thức khoa học trong đời sống xã hội.
Đối với các hệ thống Triết học, vấn đề cơ bản của Triết học không chủ
được thể hiện trong các quan niệm có tính chất bản thể luận, mà còn được thể
hiện trong các quan niệm chính trị – xã hội, đạo đức và tơn giáo, tất nhiên có
thể là nhất qn hoặc là khơng nhất quán.
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm xuyên suốt
lịch sử phát triển của tư tưởng Triết học và thể hiện tính đảng trong Triết học.
Hai mặt vấn đề cơ bản của Triết học này tác động qua lại lẫn nhau.


6

CHƯƠNG 2: NHẬN THỨC CỦA BẢN THÂN VỀ VAI TRÒ CỦA

TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỐNG
2.1.

Vai trò thế giới quan của Triết học
Để tồn tại, con người phải có quan hệ với thế giới xung quanh, phải thích

nghi với giới tự nhiên. Tuy nhiên con người khơng thích nghi với thế giới xung
quanh một cách thụ động như con vật, mà ln tìm cách biến đổi thế giới đó
theo u cầu cuộc sống của mình. Chẳng hạn, con người biết tạo ra lửa và dùng
lửa để sưởi ấm, nấu chín thức ăn, nung đất làm đồ gốm và gạch ngói làm vật
liệu xây dựng; con người biết xây nhà tránh nắng mưa, tránh thú dữ; con người
biết chế tạo ra công cụ lao động ngày càng tiện lợi và tinh xảo để sản xuất ra
của cải vật chất v.v. Con vật chỉ bằng cách di cư từ nơi này sang nơi khác, hoặc
thay đổi sinh lý (như mọc lông dầy hơn, tiết ra các kháng thế) để thích nghi với
sự thay đổi khí hậu, thời tiết. Những thay đổi đó rất chậm chạp và hạn chế,
thường khơng thích ứng kịp với những thay đổi của tự nhiên, vì vậy động vật
thường bị huỷ diệt, khi điều kiện sống thay đổi. Muốn biến đổi tự nhiên theo
yêu cầu của mình, con người phải hiểu biết thế giới xung quanh và bản thân
mình. Trong quá trình cải tạo, tìm hiểu, nhận thức thế giới xung quanh, con
người bắt gặp hàng loạt vấn đề cần lý giải như: Thế giới xung quanh ta là gì? Nó
từ đâu đến? Cái gì chi phối sự tồn tại và biến đổi của các sự vật, hiện tượng
trong thế giới xung quanh? Nguồn gốc của con người từ đâu? Nó được sinh ra
như thế nào? Nó có quan hệ như thế nào với thế giới xung quanh? Vì sao có
người giàu, người nghèo, người tốt, người xấu? Con người có nhận thức và cải
tạo được thế giới khơng? Ý nghĩa cuộc sống của con người là ở chỗ nào? v.v.
Q trình tìm tịi và giải đáp những câu hỏi trên đây làm hình thành ở con
người những quan niệm nhất định về thế giới, trong đó những yếu tố cảm xúc
và trí tuệ, tri thức và niềm tin đã hồ quyện vào nhau thành một khối thống
nhất. Đó chính là thế giới quan.



7

Vậy thế giới quan là hệ thống những quan niệm, quan điếm của con
người vế thế giới, về vị trí của con người trong thế giới đó, về chính bản thân và
cuộc sống của con người nhằm giải đáp những vấn đề về mục đích, ý nghĩa
cuộc sổng của con người.
Khái niệm thế giới quan trên đây là rất khái quát, bao hàm cả nhân sinh
quan, tức là toàn bộ những quan niệm, quan điểm về cuộc sống của con người
và lồi người. Quan niệm đó là kết quả của quá trình nhận thức về sự tác động
giữa con người – chủ thể hoạt động, với thế giới xung quanh. Vì vậy, nói đến
thế giới quan là nói đến quan hệ giữa chủ thể và khách thể, nói đến quan hệ
giữa con người, xã hội loài người và thế giới xung quanh. Chủ thể của thế giới
quan có thể là cá nhân hoặc cộng đồng xã hội.
Thế giới quan có vai trò quan trọng trong đời sống của mỗi con người,
mỗi giai cấp, mỗi cộng đồng và trong đời sống của xã hội nói chung. Hoạt động
của con người ln bị chi phối bởi một thế giới quan nhất định. Những yếu tố
cấu thành thế giới quan như tri thức, niềm tin, lý tri, tình cảm ln thống nhất
với nhau và thống nhất trong các hoạt động của con người, cả hoạt động nhận
thức, cả hoạt động thực tiễn để chi phối các hoạt động đó.
Thế giới quan có thể hướng dẫn con người nhận thức đúng hoặc không
đúng sự vật. Nếu được hướng dẫn bởi thế giới quan khoa học, con người sẽ xác
định đúng mối quan hệ giữa con người và đối tượng, trên cơ sở đó nhận thức
đúng quy luật vận động của đối tượng, từ đó có thể xác định đúng phương
hướng, mục tiêu và cách thức hoạt động của con người. Ngược lại, nếu được
hướng dẫn bởi một thế giới quan không khoa học, con người không xác định
đúng mối quan hệ giữa con người và đối tượng, không nhận thức đúng quy luật
của đối tượng, con người sẽ không xác định đúng mục tiêu, phương hướng và
cách thức hoạt động, từ đỏ hoạt động khơng đạt kết quả như mong muốn. Thí



8

dụ, nếu dựa trên thế giới quan tôn giáo, thừa nhận có lực lượng siêu nhiên mà
con người hồn tồn phải phục tùng, con người khơng có vai trị gì đối với đời
sống xã hội, điều đó sẽ làm cho con người khơng tích cực hoạt động, khơng
phát huy tính chủ động sáng tạo của mình. Vậy, có thể coi thế giới quan đóng
vai trị như là “lăng kính”, qua đó con người xem xét, nhìn nhận thế giới và chỉ
đạo hoạt động thực tiễn để cải tạo thế giới.
Ban đầu, mỗi cá nhân phát triển tinh thần đến một mức độ nào đó đều tìm
cách trả lời các câu hỏi Triết lý riêng của mình một cách tự phát, nghiệp dư. Đó
là dấu hiệu “Triết gia” ở mức độ nào đó (thậm chí họ khơng biết cả đến từ “Triết
học” hay “thế giới quan”). Dần dần, do động chạm đến những vấn đề quan tâm
nhất của con người, xã hội, nhân loại mà xuất hiện nhiều người có phẩm chất vĩ
đại, say mê sáng tạo những học thuyết và hệ thống thế giới quan đồ sộ, sâu sắc,
độc đáo và phổ quát một cách thức hết sức chuyên nghiệp. Họ được gọi là Triết
gia hay là những người theo đuổi sự khôn ngoan. Họ là những người để lại
những quan điểm mang dấu ấn lớn, đánh thức sợi dây tâm hồn của nhiều thế hệ
tiếp theo.
Tuy nhiên, việc chuyên mơn hóa xây dựng thế giới quan cũng có nhược
điểm. Nó làm gia tăng khoảng cách giữa nhà chun mơn – Triết gia với người
bình thường. Do vậy, do sự biến đổi nhanh và thay đổi mặt bằng Triết lý chung,
công chúng đã bị cách Triết gia gạt khỏi đối tượng truyền đạt dẫn tới có sự xa
cách, khó hiểu cho đại chúng. Vì vậy, xã hội và mỗi người cần quan tâm xây
dựng và phổ biến một thế giới quan đúng đắn. Điều này sẽ mang một ý nghĩa vô
cùng quan trọng giúp cho mỗi người trở thành thực thể tự do và sáng tạo thực
sự, nhân văn thực sự.
Vai trò của thế giới quan trong đời sống của con người có thể được thể
hiện trên các mặt sau:



9

Một là, nhờ xác định được những mối liên hệ chung của thế giới và vị trí
của con người trong thế giới nên thế giới quan giúp con người xác định mục
tiêu, phương hướng hoạt động của mình. Nói cách khác, thế giới quan giúp con
người có thể định hướng cho cuộc sống của mình bằng việc xác định mục tiêu,
phương hướng hoạt động của mình.
Hai là, nhờ các tri thức chung về thế giới và về bản thân con người, cùng
với niềm tin và tình cảm được củng cố trong thế giới quan, nên thế giới quan có
thể chi phối hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người ở mức
độ khá sâu sắc. Thí dụ, nếu hiểu đúng ý nghĩa cuộc sống, sẽ giúp con người có ý
chí và quyết tâm tích cực hoạt động vì sự tiến bộ của xã hội và của bản thân.
Ngược lại, nếu hiểu không đúng ý nghĩa cuộc sống sẽ làm giảm ý chí, cản trở
tính chủ động, tích cực trong nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người,
thậm chí cịn dẫn con người đến các hoạt động phá hoại, thiếu trách nhiệm đối
với cộng đồng, xã hội. Điều đó cản trở sự tiến bộ xã hội. trong thời đại ngày nay
khi các mối quan hệ xã hội đã trở nên hêt sức phức tạp, tính chủ động của con
người, của chủ thể ngày càng được tôn trọng, được tự do phát triển, thì vai ừị
của thế giới quan cũng càng lớn hơn. Hình thành và phát triển thế giới quan
khoa học là một đòi hỏi tất yếu, đồng thời là một trong những chỉ tiêu quan
trọng của quá trình hình thành nhân cách con người hiện nay. Dưới đây sẽ đề
cập đến mối quan hệ giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và thế giới quan khoa
học.
2.2.

Vai trò phương pháp luận của Triết học
Trên thực tế, để giải quyết một công việc đã định người ta có thể dùng

nhiều phương pháp khác nhau. Sẽ có phương pháp thích hợp đưa lại hiệu quả

cao, cũng có phương pháp khơng thích hợp đưa lại hiệu quả thấp. Làm thế nào
để chọn được một phương pháp thích họp nhất trong số rất nhiều phương


10

pháp có thế sử dụng? Trả lời cho vấn đề này làm nảy sinh nhu cầu tri thức về
phương pháp. Từ nhu cầu tri thức về phương pháp đưa đến sự ra đời khoa học
và lý luận về phương pháp. Đó chính là phương pháp luận. Và để hiểu rằng nó
có vai trị gì trước hết chúng ta cần hiểu phương pháp luận là gì? Phân loại
phương pháp luận ? Mục đích của những vấn đề lý luận trên là xác định được
những quan điểm, nguyên tắc cơ bản nhất để trên cơ sở của những nguyên tắc
đó con người có thể lựa chọn được những phương pháp hoạt động thực tiễn
và nhận thức thích hợp.

Phương pháp là một hệ thống những nguyên tắc được rút ra từ những tri
thức từ các quy luật khách quan. Thường dùng để điều chỉnh các hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện mục tiêu đã định sẵn.
Phương pháp luận khơng có định nghĩa chính xác tuy nhiên chúng ta có thể
hiểu theo cách phổ biến nhất. Phương pháp luận là hệ thống các nguyên lý, các
quan điểm là cơ sở. Có tác dụng chỉ đạo, xây dựng các phương pháp, xác định
phạm vi, khả năng áp dụng các phương pháp và định hướng cho việc nghiên
cứu tìm tịi cũng như lựa chọn, vận dụng phương pháp. Hay có thể hiểu
phương pháp luận là lý luận về phương pháp. Bao hàm hệ thống các phương
pháp, thế giới quan của con người. Sử dụng các phương pháp, nguyên tắc để
giải quyết vấn đề đã đặt ra để có hiệu quả cao.
Phân loại phương pháp luận: được chia làm 3 cấp độ chính là:
+ Phương pháp luận ngành: là phương pháp luận cho các ngành khoa học cụ
thể



11

+ Phương pháp luận chung: khi đó các quan điểm, nguyên tắc chung hơn cấp
độ ngành. Dùng để xác định phương pháp hay phương pháp luận của nhóm
ngành có đối tượng nghiên cứu chung.
+ Phương pháp luận chung nhất: khái quát các quan điểm, nguyên tắc chung
nhất. Để lấy cơ sở xác định các phương pháp luận ngành, chung và các phương
pháp hoạt động cụ thể của nhận thức và thực tiễn.
Vai trò của phương pháp luận Triết học đối với nhận thức và thực tiễn
thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo sự tìm kiếm, xây dựng; lựa chọn và vận dụng các
phương pháp để thực hiện hoạt động nhận thức và thực tiễn; đóng vai trị định
hướng trong q trình tìm tịi, lựa chọn và vận dụng phương pháp.
Với tư cách là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế
giới, về vị trí, vai trị của con người trong thế giới đó, Triết học đóng vai trị là
hạt nhân lý luận của thế giới quan. Triết học giữ vai trị định hướng cho q
trình củng cố và phát triển thế giới quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng trong
lịch sử. Trang bị thế giới quan đúng đắn mới chỉ là một mặt của Triết học Mác Lênin.
Với tư cách là hệ thống tri thức chung nhất của con người về thế giới và
vai trị của con người trong thế giới đó, Triết học thực hiện chức năng phương
pháp luận chung nhất. Phương pháp luận của Triết học Mác - Lênin đã góp
phần quan trọng chỉ đạo, định hướng cho con người trong nhận thức và hoạt
động thực tiễn.
Cũng như mọi giai đoạn lịch sử, trong cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa, vai trò của Triết học được thể hiện ở chức năng thế giới quan và
phương pháp luận của nó. Chẳng hạn, khi hoạch định các bước đi thích hợp cho
một giai đoạn thì khơng thể khơng nhìn lại q khứ, khơng thể khơng phân tích
thế giới đương đại và nhất là không thể không dựa vào những dự báo về sự



12

biến đổi nhanh chóng, nhiều mặt và đầy mâu thuẫn của kỷ ngun tồn cầu
hóa. Nhìn lại q khứ chính là xem xét, phân tích các bài học kinh nghiệm, cả
những kinh nghiệm thành công lẫn những kinh nghiệm không thành công, của
nước ta cũng như của các nước khác. Như trên đã khẳng định, nước ta thuộc
vào nhóm các nước đang phát triển. Sự nghiệp cơng nghiệp hóa và hiện đại hoá
được tiến hành sau một loạt nước trong khu vực và trên thế giới. Đó là một khó
khăn và thiệt thịi lớn, nhưng đồng thời nó cũng tạo ra cho chúng ta những
thuận lợi nhất định. Cái thuận lợi được thể hiện trước hết ở chỗ thông qua
những kinh nghiệm thành công và không thành công của các nước trong khu
vực và trên thế giới chúng ta có thể rút ra những bài học bổ ích cho sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước. Nhiệm vụ của Triết học là nghiên
cứu kinh nghiệm của các nước để rút ra những bài học bổ ích đó.
Mặt khác, bản thân Triết học lại là loại lí luận tổng qt nhất, cho nên vai
trị của nó cũng chủ yếu được thể hiện ở tầm đường lối, quan điểm khi hoạch
định chính sách. Do vậy, nếu có tư duy Triết học đúng đắn thì những người làm
nhiệm vụ hoạch định chính sách và chỉ đạo hoạt động thực tiễn mới có thể đưa
ra được những quan điểm, những bước đi và những biện pháp phù hợp trong
q trình cơng nghiệp hóa và hiện đại hố, đồng thời chỉ đạo việc thực hiện các
chủ trương đó một cách có hiệu quả.
Giáo dục Triết học Mác - Lênin sẽ góp phần từng bước xây dựng và bồi
dưỡng nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa cho sinh viên thông qua việc trang bị
cho họ những kiến thức cơ bản về lý luận cách mạng xã hội, về bản chất và
chức năng của nhà nước, về con người và các quan hệ xã hội của con người, về
giai cấp, dân tộc, về xu hướng phát triển tất yếu của xã hội... Đồng thời, từng
bước xây dựng cho sinh viên cách nhìn, lối sống cũng như cách vận dụng những
định hướng giá trị xã hội đã được nhận thức vào thực tiễn cuộc sống. Chẳng
hạn, từ tri thức về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy,



13

cung cấp cho sinh viên một cách nhìn khoa học đối với hiện thực khách quan và
khẳng định vai trò, vị trí của con người trong việc nhận thức và cải tạo thế giới.
Hoặc là, khi phân tích kết cấu của mỗi hình thái kinh tế - xã hội, với tất cả các
quy luật tác động và chi phối nó, C.Mác đã kết luận: Sự thay thế của các hình
thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên. Chính những kết luận như
vậy tự nó đã mang đến cho mỗi sinh viên một niềm tin vào sự phát triển. Từ đó
giúp họ có thái độ đúng đắn, khoa học đối với hiện thực cũng như khả năng
phân tích và giải quyết các vấn đề mới nảy sinh trên tinh thần thế giới quan và
phương pháp luận duy vật biện chứng. Điều này tạo ra trong mỗi sinh viên thái
độ lạc quan cách mạng để vượt qua những thử thách, cam go trên con đường
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Ở đây, với những tri thức được học, sinh viên sẽ hiểu
rằng lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học được xây dựng trên cơ sở kế thừa
một cách chọn lọc những tư tưởng về chủ nghĩa xã hội của nhân loại trong lịch
sử và được phát triển một cách khoa học lên tầm cao mới, đáp ứng đúng quy
luật phát triển của xã hội. Và Đảng ta đã vận dụng một cách sáng tạo những
nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học vào thực tiễn nước ta để xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Khi nhận thức rõ vấn đề đó, sinh viên sẽ tự nguyện, tự
giác sống theo quan điểm sống của nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa như là
một sự thôi thúc nội tâm. Mặt khác, việc giáo dục Triết học Mác - Lênin cịn
giúp sinh viên có năng lực nhận diện rõ và đấu tranh chống lại những quan
điểm trái với những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học, trái với chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng; kiên quyết đấu tranh chống lại chủ
nghĩa xét lại, chủ nghĩa giáo điều, đứng vững trong cuộc đấu tranh phịng
chống "diễn biến hịa bình" của các thế lực thù địch.
Chủ nghĩa Mác - Lênin thực chất là học thuyết về con người và giải phóng
con người. Học thuyết Mác - Lênin nói chung, Triết học Mác - Lênin nói riêng
trang bị cho sinh viên một nhân sinh quan khoa học và nhân đạo, chỉ ra mục



14

đích cao cả nhất của cuộc sống là vì con người và vì sự nghiệp giải phóng con
người. Mỗi con người chỉ đạt được lợi ích, nhu cầu cá nhân cao nhất khi nhận
thức đúng đắn và tự nguyện, tự giác thực hiện lợi ích xã hội, lợi ích dân tộc
mình. Nhân cách chỉ được hình thành và phát triển khi giải quyết hài hịa mối
quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, hạnh phúc của mỗi cá nhân chỉ
được đảm bảo và thực hiện khi hạnh phúc của toàn thể xã hội được đảm bảo,
được thực hiện. Mỗi cá nhân chỉ được giải phóng khi sự nghiệp giải phóng dân
tộc, giải phóng nhân loại được thực hiện. Qua việc thẩm thấu những tri thức
này, mỗi sinh viên tự nguyện hướng đến lẽ sống cao đẹp "mình vì mọi người và
mọi người vì mình".


15

PHẦN KẾT LUẬN
Như vậy, để có thể giải quyết một cách có hiệu quả những vấn đề cụ thể
hết sức phức tạp và vô cùng đa dạng của cuộc sống, chúng ta cần tránh cả hai
thái cực sai lầm: xem thường Triết học và do đó sẽ sa vào tình trạng mò mẫm,
tuỳ tiện, dễ bằng lòng với những biện pháp cụ thể, nhất thời, đi đến chỗ mất
phương hướng, thiếu nhìn xa trơng rộng, thiếu chủ động và sáng tạo trong
cơng việc; hoặc là tuyệt đối hố vai trị của Triết học và do đó sẽ sa vào tình
trạng áp dụng một cách máy móc những nguyên lý, những quy luật, những tri
thức Triết học chung mà khơng tính đến tình hình cụ thể do khơng nắm được
tình hình cụ thể đó trong từng trường hợp cụ thể, hậu quả là sẽ khó tránh khỏi
bị thất bại.
Nghiên cứu vấn đề cơ bản của Triết học cho chúng ta hiểu được sự hình

thành các trường phái Triết học duy vật và duy tâm trong lịch sử, cũng như hai
phương pháp nghiên cứu đối lập nhau trong lịch sử là phương pháp siêu hình
và phương pháp biện chứng, giúp chúng ta xây dựng được phương pháp biện
chứng trong nhận thức và cải tạo thế giới.
Kết hợp chặt chẽ cả hai loại tri thức – tri thức chung (trong đó có tri thức
Triết học và tri thức khoa học chuyên ngành) và tri thức thực tiễn (trong đó có
sự hiểu biết tình hình thực tiễn và trình độ tay nghề được biểu hiện qua sự
nhạy cảm thực tiễn) - đó là tiền đề cần thiết đảm bảo thành công của chúng ta
trong hoạt động cụ thể của mình.
Như vậy, cũng như trong q khứ, trong kỷ ngun tồn cầu hố, Triết
học khơng mất chỗ đứng của nó dù là trong phạm vi một dân tộc hay trên bình
diện nhân loại. Triết học khơng chỉ giúp con người có được cách nhìn nhận
đúng đắn thế giới, mà cịn giúp con người có được khả năng đánh giá những
biến động đang diễn ra, gợi mở cách đi, hướng giải quyết các vấn đề mà cuộc


16

sống đặt ra liên quan đến từng cá nhân cũng như đến toàn xã hội và trong quan
hệ với thiên nhiên.
Triết học vạch ra những nghịch lý mà con người đang phải đối diện trong
bối cảnh tồn cầu hố, đồng thời cũng góp phần chỉ ra lối thốt khỏi những
nghịch lý ấy. Nó vẫn vừa thực hiện chức năng giải thích thế giới và vừa góp
phần biến đổi thế giới hướng tới mục tiêu tất cả là vì con người và hạnh phúc
của con người trong kỷ nguyên toàn cầu hoá.


17

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và đào tạo: (2006), Giáo trình Triết học, Nxb. Lý luận chính
trị, Hà nội.
2. Các Mác và Ph. Ăngghen: (1995), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, tập 3.
3. GS. TS. Nguyễn Trọng Chuẩn: (2006), Về Vai trò của Triết học trong
giai đoạn tồn cầu hóa hiện nay, Tạp chí Triết học.
4. Triết học - Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, được truy cập tại đường
link: />5. Triết học trong đời sống xã hội, được truy cập tại đường link:
/>6. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva (1979), tập 15, bản dịch.



×