Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Qua bài Câu cá mùa thu (Thu điếu), hãy phân tích nghệ thuật sử dụng từ ngữ độc đáo của Nguyễn Khuyến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (70.32 KB, 8 trang )

Phân tích Câu cá mùa thu(1)
Thu điếu nằm trong chùm thơ thu ba bài nức danh nhất về thơ Nôm của Nguyễn Khuyến. Bài thơ nói lên
một nét thu đẹp tĩnh lặng nơi làng quê xưa, biểu lộ mối tình thu đẹp mà cô đơn, buồn của một nhà nho
nặng tình với quê hương đất nước. Thu điếu cũng như Thu ẩm, Thu Minh chỉ có thể được Nguyễn
Khuyến viết vào thời gian sau khi ông đã từ quan về sống quê nhà (1884).
Hai câu thơ: Ao thu lạnh lẽo nước trong veo - Một chiếc thuyền cậu bé tẻo teo mở ra một không gian
nghệ thuật, một cảnh sắc mùa thu đồng quê. Chiếc ao thu nước trong veo có thể nhìn được rong rêu tận
đáy, tỏa ra khí thu lạnh lẽo như bao trùm khơng gian. Khơng cịn cái se lạnh đầu thu nữa mà là đã thu
phân, thu mạt rồi nên mới lạnh lẽo như vậy. Trên mặt ao thu đã có một chiếc thuyền cậu bé tẻo teo tự
bao giờ. Một chiếc gợi tả sự cô đơn của thuyền câu. Bé tẻo teo nghĩa là rất bé nhỏ; Âm điệu của vần thơ
cũng gợi ra sự tun hút của cảnh vật (trong và bé tẻo tạo). Đó là một nét thu đẹp và êm đềm.
Hai câu thực (Sóng nước theo làn hơi gợn tí - Lá vàng trước gió sẽ đưa Mèo) tả khơng gian hai chiều.
Màu sắc hịa hợp, có sóng biếc với lá vàng. Gió thổi nhẹ cũng đủ làm cho chiếc lá thu màu vàng khẽ đưa
vào, làm cho Sóng biếc lăn tăn từng làn từng làn hơi gợn tí. Phép đối tài tình làm nổi bật một nét thu, tơ
đậm cái nhìn thấy và cái nghe thấy. Ngòi bút của Nguyễn Khuyến rất tinh tế trong dùng từ và cảm nhận,
lấy cái lăn tăn của Sóng hơi gợn tí phối cảnh với độ bay xoay xoay khẽ đưa vào của chiếc lá thu. Chữ vào
là một nhãn tự mà sau này thi sĩ Tản Đà vừa khâm phục, vừa tâm đắc. Ông thổ lộ một đời thơ mới có
được một câu vừa ý: Vào trông lá rụng đầy sân” (cảm thu, tiễn thu).
Bức tranh thu được mở rộng dần ra qua hai câu thơ:
Từng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Bầu trời thu xanh ngắt thăm thẳm, bao la. Áng mây, tầng mây ( trắng hay hồng?) lơ lửng nhè nhẹ trơi.
Thống đãng, êm đềm, tĩnh lặng và nhẹ nhàng. Khơng một bóng người lại qua trên con đường làng đi về
các ngõ Xóm: Ngõ trúc quanh co khách bằng teo. Vắng teo nghĩa là vô cùng vắng lặng không một tiếng
động nhỏ nào, cũng gợi tả sự cô đơn, trống vắng. Ngõ trúc trong thơ Tam nguyên Yên Đổ lúc nào cũng
gợi tả một tình quê nhiều bâng khuâng, man mác:
Dặm thế, ngõ đâu từng trúc ấy
Thuyền ai khách đợi bến dâu đây?
(Nhớ núi Đọi)
Ngõ trúc và tầng mây cũng là một nét thu đẹp và thân thuộc của làng quê. Thi sĩ như đang lặng ngắm và
mơ màng đắm chìm vào cảnh vật. Đến hai câu kết thì bức tranh thu mới xuất hiện một đối tượng khác:


Tựa gối ôm cần lâu chẳng được.
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Thu điếu nghĩa là mùa thu câu cá. Sáu câu đầu mới chỉ có cảnh vật: ao thu, chiếc thuyền câu, sóng biếc,
lá vàng, tầng mây, ngõ trúc... mãi đến phần kết mới xuất hiện người câu cá. Một tư thế nhàn: tựa gối ôm
cần. Một sự đợi chờ: lâu chẳng được. Một cái chợt tỉnh khi mơ hồ nghe cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Người câu cá như đang ru hồn mình trong giấc mộng mùa thu. Người đọc nghĩ về một Lã Vọng câu cá


chờ thời bên bờ sơng Vị hơn mấy nghìn năm về trước. Chỉ có một tiếng cá đớp động sau tiếng lá thu đưa
vèo, đó là tiếng thu của làng quê xưa. Âm thanh ấy hòa quyện với một tiếng trên không ngỗng nước nào,
như đưa hồn ta về với mùa thu quê hương. Người câu cá đang sống trong một tâm trạng cô đơn và lặng
lẽ buồn. Một cuộc đời thanh bạch, một tâm hồn thanh cao đáng trọng.
Xuân Diệu đã hết lời ca ngợi cái điệu xanh trong Thu điếu. Có xanh ao, xanh sóng, xanh trời, xanh tre,
xanh bèo và chỉ có một màu vàng của chiếc lá thu đưa vèo. Cảnh đẹp êm đềm, tĩnh lặng mà man mác
buồn. Một tâm thế nhân và thanh cao gắn bó với mùa thu q hương, với tình u tha thiết. Mỗi nét thu
là một sắc thu, tiếng thu gợi tả cái hồn thu đồng quê thân thiết. Vần thơ: Meo - teo - bèo - teo – bèo,
phép đối tạo nên sự hài hòa cân xứng, điệu thơ nhẹ nhàng bâng khuâng... cho thấy một bút pháp nghệ
thuật vô cùng điêu luyện, hồn nhiên đúng là xuất khẩu thành chương. Thu điếu là một bài thơ thu, tả
cảnh ngụ tình tuyệt bút.

Phân tích Câu cá mùa thu(2): Qua bài Câu cá mùa thu (Thu điếu), hãy phân tích nghệ thuật sử dụng từ
ngữ độc đáo của Nguyễn Khuyến
Chùm thơ mùa thu của Nguyễn Khuyến gồm Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm đều viết về cảnh vật vùng quê
Bắc Bộ lúc vào thu. Trong đó Thu điếu mang nét đặc trưng nhất của cảnh sắc mùa thu huyện Bình Lục
(Hà Nam) quê hương bài thơ. Bài thơ bộc lộ tài quan sát, cảm nhận: thể hiện nghệ thuật miêu tả cảnh
sắc thiên nhiên; đặc biệt là việc sử dụng hệ thống từ ngữ độc đáo, sáng tạo của Nguyễn Khuyến – một
trong những nhà thơ xuất sắc của giai đoạn văn học cuối thế kỉ XIX.
Những từ ngữ tác giả sử dụng trong bài thơ như: Nước trong veo, bé tẻo teo, khẽ đưa bèo, xanh ngắt,
ngõ trúc quanh co, Uắng teo trước hết đã thể hiện chính xác, sâu sắc cảnh vật mà Nguyễn Khuyến quan
sát, miêu tả trong bức tranh mùa thu. Nó có khả năng giúp người đọc cảm nhận được phong vị riêng của

mùa thu, của những miền quê Việt Nam mà ta đã từng đặt chân đến.
Khơng chỉ có vậy, bài thơ cịn gợi ra nét đặc sắc của cảnh ao về mùa thu khác hẳn với cảnh ao về mùa
xuân hay mùa hạ. Từ nước ao trong veo, phẳng lặng nhìn được tận đáy: từ chiếc thuyền câu bé tẻo teo
đến lá vàng rụng vèo xuống mặt ao và bao trùm lên là một vòm trời xanh ngắt phản chiếu xuống mặt
nước như làm cho nước ao xanh hơn lúc vào thu.
Những từ ngữ hình ảnh được sử dụng trong bài thơ có một bức gợi tả phong phú. Hình ảnh ao thu lạnh
lẽo nước trong veo gợi ra khơng khí xung quanh ao chm buổi sáng mùa thu se lạnh. Hình ảnh ao thu
trong veo với thuyền cậu bé tẻo teo - bé bỏng xinh xắn – đậu trên mặt ao, đem đến cho người đọc cái
cảm nhận cái ao thu bé, bé đến dễ thương.
Điểm xuyết vào cảnh ao thu là hình ảnh lá vàng. Nói đến mùa thu là nói đến lá vàng, đó là hình ảnh mang
tính ước lệ của thi ca cổ. Nguyễn Khuyến cũng khơng ra ngồi những thơng lệ đó. Những hình ảnh lá
vàng trong bài thơ gắn với ao chuôm lại mang dáng dấp riêng của Nguyễn ) Khuyến khi miêu tả về mùa
thu. Một chiếc lá vàng rơi cành bởi làn gió rất nhẹ của mùa thu, xoay xoay rồi liệng nhẹ xuống mặt nước.
Đó là một chi tiết rất thực, rất sống của cảnh mùa thu ở làng quê Việt Nam qua tài năng quan sát, qua
tâm hồn nhạy cảm của nhà thơ làm tăng thêm chất sống cho cảnh vật mùa thu nơi đây.


Mở rộng cảnh thu từ ao chuôm đến bầu trời thu là phong cách quen thuộc trong ba bài thơ viết về mùa
thu của thi nhân Nguyễn Khuyến. Nhưng trong Thu điếu lại là một vòm trời xanh ngắt. Màu xanh như
nhân lên cảm giác về không gian mênh mông, về độ cao chót vót, bát ngát của trời thu. Trong một số bài
thơ ở những giai đoạn sau, chúng ta cũng bắt gặp sự sáng tạo trong cách dùng từ, hình ảnh của các nhà
thơ để gây ấn tượng về độ rộng, độ cao.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót. (Tràng giang - Huy Cận)
Heo hút cồn mây súng ngửi trời. (Tây Tiến - Quang Dũng)
Bức tranh mùa thu lại được tô điểm thêm những chi tiết thật sống động:
Ngõ trúc quanh khách vắng teo.
và:
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Nghệ thuật sử dụng từ ngữ của tác giả trong bài thơ còn giúp người đọc cảm nhận ra linh hồn của cảnh
sắc mùa thu, của cuộc sống ở huyện Bình Lục quê hương Nguyễn Khuyến, của làng quê Việt Nam xưa.

Đó là một hồn thu thanh đạm, tinh khiết. Từ ao thu nhỏ, bé nước trong veo đến chiếc thuyền cậu bé tẻo
teo; lá vàng trước gió khẽ đưa vèo, sóng biếc gợn tí, và vịm trời thu xanh ngắt...
Đó chính là hình ảnh một vùng q vào thu thật quạnh quẽ, trống vắng: ngõ trúc quanh co khách bằng
teo, cảnh sắc như gợi lên cuộc sống những con người chân q ở đây có cái gì nhỏ bé, ẩn nhẫn xung
quanh ao chuôm, luỹ tre, ngõ trúc quanh co...
Bài thơ còn đem lại cho người đọc cái cảm giác sự vật như ngưng đọng, từ làn nước trong veo, một da
trời xanh ngắt, ngõ trúc vắng teo, một dáng người ngồi câu, tựa gối ôm cần, gần như bất động. Nếu có
chuyển động thì thật khẽ khàng: sóng hơi gợn, lá vàng khẽ đưa Uèo, cá đớp động dưới chân bèo. Thế
nhưng hợp các yếu tố đó lại, bài thơ đem đến một nhận thức, một cảm giác về sự vận động bên trong,
âm thầm, bền bỉ, liên tục và không thua kém phần mạnh mẽ của sự vật, của cuộc sống ở làng quê Việt
Nam. Đó là sức sống tiềm tàng, dẻo dai làm nên bản sắc của thiên nhiên, của con người Việt Nam từ xưa
đến nay.
Đây chính là điều Nguyễn Khuyến tâm đắc muốn gửi gắm qua bài Thu điếu để nói về bản chất mn đời
của q hương đất nước mình.
Thu điếu đến với người đọc khơng chỉ dừng lại ở đó. Qua hệ thống từ ngữ mà tác giả sử dụng còn cho
chúng ta hiểu được chính con người Nguyễn Khuyến. Đó là một nhà nho thâm trầm, đôn hậu, bên trong
chứa đựng một tâm trạng đầy mâu thuẫn thể hiện ngay trong ý thức hệ mà ông mang trong huyết quản
của mình. Nguyễn Khuyến đã khơng thể giải quyết mâu thuẫn ấy bởi chính tính cách đơn hậu của ơng.
Nguyễn Khuyến đã chọn cho mình một con đường phù hợp: bỏ mũ từ quan, xa lánh triều đình nhà
Nguyễn, lui về ẩn dật tại quê nhà, tỏ thái độ phản đối cái chế độ phong kiến mục ruỗng lúc bấy giờ.

Hai câu kết đã thể hiện sâu sắc hình ảnh con người Nguyễn Khuyến trong một hoàn cảnh cụ thể. Đồng
thời là tiếng nói thầm kín của nhà thơ muốn gửi đến cho thời đại ông đang sống và cho mai sau để hiểu
đúng một con người, một nhân cách cao đẹp.


Dù về ở ẩn, Nguyễn Khuyến vẫn gắn bó với đời, trong tâm hồn ơng vẫn xao động bởi tình cảm vì nước vì
dân.
Thu điếu đã cho ta cảm nhận tình cảm sâu sắc và cao đẹp của một nhân cách ngời sáng.


Phân tích ba bài thơ: Thu vịnh; Thu điếu và Thu ẩm của Nguyễn Khuyến.
Mùa thu ở đất Bắc là khoảng thời gian kết thúc cái oi nồng của mùa hạ, chưa kèm theo mưa dầm gió bấc
của mùa đơng. Mùa thu đẹp vì có những đêm trăng vằng vặc, những ngày xanh thắm tuyệt vời.
Đối với các nhà thơ cận đại, kể cả các nhà Thơ mới nữa thì mùa thu là mùa của cảm xúc, của thương
nhớ. Trong làng thơ Việt Nam sau Nguyễn Khuyến, Tương Phố, Tản Đà, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu... đều có
những bài thơ thu nổi tiếng. Tuy vậy, giữa Tam nguyên Yên Đổ và các nhà Thơ mới đang có một khoảng
cách. Thơ thu Nguyễn Khuyến là thơ của làng cảnh Việt Nam đậm đà chân thực dù tác giả có gửi gắm vào
trong thơ ít nhiều tâm sự. Thơ của các nhà Thơ mới từ Giọt lệ thu (Tương Phố), Tiếng thu (Lưu Trọng Lư)
đến Đây mùa thu tới (Xuân Diệu) chỉ mượn cảnh thu, sắc thu, màu thu, âm thanh mùa thu để gửi gắm
tâm trạng đượm buồn hay lưu luyến bâng khuâng trước đất trời đã chuyển sang thu.
Chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến là hiện tượng độc đáo và là cống hiến xuất sắc của nhà thơ.
Cả ba bài thơ đều viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Mỗi bài thơ là một phác thảo với nét bút
của nền hội họa phương Đông, không rườm rà lịe loẹt mà cũng khơng gị bó khn sáo. Nhà thơ - họa sĩ
họ Nguyễn đã đưa chúng ta về một vùng chân quê quanh năm ngập nước của đất Hà Nam đầu thế kỉ này
vào độ thu sang.
Thu vịnh phác họa khái quát những đặc điểm nổi bật về mùa thu.
Thu điếu dừng lại ở một không gian và thời gian cụ thể: trên một áo thu, vào một chiều thu, một ông già
trên chiếc thuyền câu cá thả mồi đợi cá.
Thu ẩm quan sát cảnh thu trong nhiều thời điểm khác nhau để thâu tóm những nét nên thơ nhất.
Cảnh thu trong Thu Định đã được nhà thơ phác họa như thế nào?
Phần lớn dung lượng bài thơ (6/8 câu) là thơ tả cảnh. Biên độ không gian và thời gian không hạn chế:
một buổi sáng, một cảnh chiều, một đêm trăng đượm màu thu. Ta vẫn bắt gặp trời (câu 1 - 2), nước (câu
3), trăng (câu 4), hoa (câu 5), có điểm xuyết âm thanh vọng lại từ không trung cao vút, nhưng điều thơ,
hồn thơ thì đã vượt khỏi khn sáo kiểu tứ thời, tứ thú, tứ quý... của nét bút thơ và họa cổ điển.
Đối chiếu với trời thu là sông thu vào sáng tinh mơ, lúc màn đêm đã vén hay vào lúc buổi chiều tà, lúc
bóng ơ vừa ngậm non đồi, thời điểm ong lanh đáy nước in trời; nước biếc dội lên màu xanh thơ mộng
tạo nên ảnh màn khói mênh mông mà các nhà thơ cổ điển thường gọi là n ba giang thượng (khói sống
trên sơng). Trời thu và nước thu. Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc (trời nước một màu) là như vậy.
Sau thu thiên, thu thuỷ là thu nguyệt. Trăng thu sáng dịu trong trẻo tuyệt trần. Xưa nay trăng vốn là bạn
của thi nhân. Trăng là kẻ đồng hành Chè tiên, nước ghén, nguyệt đem về (Nguyễn Trãi); Một trăng, một

bóng một người hóa ba (Nguyễn Huy Tự). Trăng là người chứng giám: Vầng trăng bằng các giữa trời, Đinh


ninh hai miệng một lời song song (Nguyễn Du). Có khi trăng là kẻ thọc mạch: Gương ngà chênh chếch
dòm sao (Nguyễn Du). Nguyễn Khuyến khơng cài song để đón trăng và ngắm trăng, chẳng biết trăng ở
đây có địi thơ Tam nguyên Yên Đổ như nó đã lọt qua cửa sổ địi thơ Hồ Chí Minh: Trăng vào cửa sổ địi
thơ (Nhật kí trong tù). Hẳn là chỉ có trăng thu mới thân quen với con người đến thế!
Bây giờ đến hoa thu: Mấy chùm trước giậu hoa năm ngối, ý nhà thơ muốn nói: Mấy chùm hoa trước
giậu đã nở hoa từ năm ngoái nay lại đã trổ bông chăng? Và hoa thu chỉ là hoa cúc, một trong bốn loài
hoa quý (lan, sen, cúc, mai) chọn mùa thu để trổ hoa.
Điểm xuyết cảnh thu là tiếng ngỗng trời từ từng trên khơng xa tít vọng lại. Âm thanh khơng líu lo như
con chim oanh học nói trong tiết xuân sang (Truyện Kiều) mà chỉ thoáng qua như nâng thêm tầm cao
rộng của không gian hơn là đàn ngỗng bay nhanh về phương nam để tránh rét, thường bắt gặp trong kì
thu muộn.
Nhân hứng mà tác giả đã vẽ xong bức tranh thu. Say theo cảnh trí thơ mộng nhưng rồi chợt tỉnh. Nghĩ ra
lại thẹn với ông Đào - ông Đào Bành Trạch trao ấn từ quan từ hồi còn trẻ, trở về vui với cỏ hoa và non
xanh nước biếc. Nguyễn Khuyến cũng đã vứt miếng đỉnh chung về ở ẩn tại quê nhà. Có lẽ danh nho
Nguyễn Khuyến cũng đã vứt miếng thẹn với ông Đào bởi vì ơng tự hào cho là mình từ quan hơi muộn?
Với Thu vịnh, chúng ta cảm thấy thu bằng nhân hứng chung mà nhà

th để lại; với Thu điếu chúng ta có một thú vui nhỏ mà cũng rất hấp dẫn. Nơi quê hương nhà thơ trước
đây lắm ao, lắm vững. Có lẽ khơng riêng gì Nguyễn Khuyến mà dân quê cả vùng nhất là các ông già, lúc
rảnh rỗi thường lên thuyền nan ngồi thả mồi đợi cá, cỏi đó là một lạc thú tiêu khiển chăng? Đối với cụ
Tam Nguyên mùa thu câu cá quả là một lạc thú.

Ông đẩy thuyền ra xa bờ để được đắm chìm trong thiên nhiên bao la, trời nước một màu. Chỉ có câu kết
nối đến chuyện thả câu, bài thơ chủ yếu ghi nhận những diễn ra quanh mình. Ở đây mọi chi tiết đều
được chắt lọc sao cho mỗi cảnh sắc chỉ cần điểm một nét, cộng hưởng thành màu sắc thu đích thực và
độc đáo. Ơng kết hợp tuyệt diệu hình ảnh và từ ngữ. Cả bức tranh có vẻ tĩnh lặng nhưng từng chi tiết thì
động và gợi cảm.


Ao thu lạnh lẽo nước trong veo: nước tinh khiết và lạnh gây cảm giác khẽ rùng mình. Thuyền câu vốn
nhỏ bé khi nhập vào không gian bao la | càng trở nên bé xíu bé tẻo teo. Ngư ơng dường như cảm thấy
mình q bé trước cái tối vĩ đại của tạo hóa!

127 BÀI VĂN PHÂN TÍCH

17


mà | Thuyền vừa xa bờ, cảnh vật dẫn đến một cảm giác thu mới: Phẳng lặng, trong xanh vốn là đặc tính
của mặt nước ao thu, hồ thu. Chỉ thế sau này Tản Đà viết: Trời xanh xanh, nước xanh xanh, khói lam xây
thành Màu biếc xao động khi gió thu khẽ khàng lướt qua. Hơi gợn tí nhưng cũng đủ mạnh để đưa chiếc
lá già của cây cao gần bờ lìa cành đưa vào xoay xoay giữa khơng gian theo chiều gió... Gió thu là như vậy.

Bình giảng hai câu 3 - 4, Xuân Diệu đã viết: “Thật tài tình! Nhà thu đã tìm được cái tốc độ bay của lá, bèo,
dễ tương xứng với cái mức độ gợn của sóng: tí”. Tác giả Đây mùa thu tới rõ ràng phát hiện đầy đủ tài
nghe thuật của Nguyễn Khuyến.

Chắc là sau khi đã buông câu, nhà thơ mới có dịp ngẩng đầu nhìn trời và làng mạc vây quanh. Trời thăm
thẳm một màu xanh. Vài đám mây bạc lững lờ trôi như tôn thêm độ cao xa của không gian (Tầng mây lơ
lửng trừ: xanh ngắt). Đường đi lối lại trong thơn viền rặng uốn lượn vịng vèo khônồn náo nhiệt như
những ngày mùa mà êm đềm u tịch... Nhà thơ tựa gối ơm cần chìm đắm vào cảnh vật tựa sống trong
mơ...

Câu kết thúc Cá đâu đớp động dưới chân bèo. Tiếng động của cá đớp mồi đã trả nhà thơ về cõi thực.
Nguyễn Khuyến là ông ngư trên chiến thuyền nan mỏng manh.

Với Thu ẩm, nhà thơ Hà Nam đưa chúng ta về nhiều thời điểm khá nhau trong nhiều ngày để cảm nhận
vẻ đẹp mùa thu.


Mở đầu bài thơ, tác giả nói về một ngơi nhà xuềnh xoàng ở tận sa trong làng Vị Hạ, nơi cụ thượng quan
thường độc ẩm để tìm cách lãng q

thế sự; bởi vì người xưa đã nói: chỉ có rượu mới phá được cấu thành sầu. Từ năm gian nhà cỏ này ông
nhập vào cảnh thu và quan sát nhữn nét thu khi về chiều, vào đêm tối hay buổi trăng thu viên mãn. Thu
ẩm thường diễn ra trong ngôi nhà này vào những thời điểm kể trên. Không : bóng dáng buổi mai hồng
hay thời chính Ngọ trong thơ thu. Phải chăn những thời điểm đó khơng hợp với tâm trạng của nhà thơ?
Hai buổi đêm và một buổi chiều lần lượt xuất hiện trong Thu ẩm.

Một đêm khơng trăng dày đặc bóng tối bao trùm lấp đường ngõ, lịe ánh sáng đom đóm vây bủa đường
thơn (Ngõ tối đêm sâu đóm lập lịe. Một đêm khác trăng soi vằng vặc, bóng trăng vàng từ mặt nước ao
lóe ra bốn chữ một gợi chất vàng đang dàn trải] ba dấu sắc khứ thanh gợi án bắn đi loe lại [vòng tròn lan
toả” (Xuân Diệu). Nguyễn Khuyến dùng thả. bút để cực tả đêm thu.


Một buổi chiều nhẹ thênh từ nhà cỏ hay từ bếp nhà ai tỏa ra làn khó lam chiều? Một nét thân thương và
trìu mến biết bao! Và một buổi chiê khác khơng cịn tầng mây lơ lửng, chỉ có da trời ửng mậu biếc bao la
hạn. Nét phác họa đặc thù này vốn là sở trường của Nguyễn Khuyến.

Phần kết, tác giả đã gửi gắm ít nhiều tâm sự: Mắt lão không to cũng đỏ hoe... Rượu năm ba chén đã say
nhè. Đâu phải vô cớ mà mắt là 18

127 BÀI VĂN PHÂN TÍCH
Nguyễn đỏ hoe. Cũng khơng phải vơ cớ mà lão uống ít say nhiều (say khơng tự chủ được sinh lè nhè).
Ông uống rượu để tiêu sầu nhưng sầu đâu có dứt! Trong bộ ba thơ thu tuy tác giả khơng trực tiếp nói
đến nhưng vẫn không sao che giấu nổi tâm sự nước non đầy vơi dường như chi phối cả cuộc đời và cảm
hứng thơ văn của tác giả. Quý thay Nguyễn Khuyến!

Ba bài thơ thu là những viên ngọc quý trong vườn thơ Việt Nam. Nó đậm đà màu sắc quê hương đất

nước. Hình tượng và ngơn ngữ thơ đạt đến đỉnh cao của sự giản dị mà đầy chất thơ. Từ nét bút tạo hình
đến các thủ pháp nghệ thuật khác như sử dụng từ ngữ trau chuốt, chính xác, đối ngẫu rất chỉnh, gieo vần
phong phú độc đáo (kể cả từ vận), kết hợp nhạc điệu và âm thanh tinh tế... cả ba bài đều viết theo thể
thơ Đường hoàn chỉnh nhưng khi đọc khơng có cảm giác đó là thể thơ ngoại lai. Nối gót nữ sĩ Hồ Xuân
Hương và các nhà thơ Nơm lớp trước, Nguyễn Khuyến đã góp phần Việt hóa thể thơ ngoại nhập này.

Thu Định, Thu điếu, Thu ẩm xứng đáng được trao giải nhất trong toàn bộ thơ về làng cảnh Việt Nam.

Đề 7. Phân tích bài Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Cơng Trứ.

Bài làm

Khi đã nghỉ hưu ở quê nhà, Nguyễn Công Trứ viết Bài ca ngất ngưởng thể hiện phong cách sống của ơng.
Đây là triết lí sống trong cuộc đời khi cịn là một thư sinh, khi xuất chính hay lúc đã về hưu của ơng. Ngất
ngưởng là từ tượng hình có giá trị biểu đạt, diễn tả ở một vị trí cao chênh vênh, khơng ổn định, liên hệ
vào con người là một lối sống khác người: ngông nghênh, thách thức với mọi người, vượt lên thế tục
bình thường!

Mở đầu là câu thơ chữ Hán thể hiện lí tưởng của nhà Nho: phận sự của kẻ sĩ là phải coi việc gánh vác
trong vũ trụ là bổn phận của mình.


Nhà thơ tự xưng mình là ơng - Ơng Hi Văn – lần lượt làm các việc: thi đỗ thủ khoa, khi làm quan Tham
tán Quân vụ bộ Hình, khi làm Tổng đốc An Hải, lúc làm Đại tướng Bình Tây, lúc làm Phủ dỗn Thừa Thiên,
nhưng ơng khơng ở lâu chức vụ nào vì bị giáng chức. - -

Sự nghiệp như thế thật khơng hổ thẹn với chí lớn kẻ làm trai. Mặc dù trên đường cơng danh có những
lúc thăng trầm nhưng cuối cùng ông cũng ở được phẩm tước khá cao dù cái xã hội ấy, ông gọi là cái lồng.

Cuộc đời lập nghiệp công danh kéo dài từ năm 1820 đến năm 1848, ông đã tự chứng tỏ cái tài song toàn

về văn võ một cách hiển hách lừng danh, đến nỗi ông không che dấu khi tự thuật về mình. Một tay ngất
ngưởng trên hoan lộ:

Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng!

Sau khi làm xong phận sự, ông không ngần ngại cởi trả áo mão triều đình cáo lão về hưu.

127 BÀI VĂN PHÂN TÍCH

19



×