Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

ĐỀ CƯƠNG ôn tập KINH tế CHÍNH TRỊ mác LÊNIN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.29 MB, 17 trang )

ĐỀ CƯƠNG ƠN TẬP KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC LÊNIN

1. Khái niệm hàng hóa và 2 thuộc tính của hàng hóa
a) Khái niệm hàng hóa
Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó
của con người thơng qua trao đổi, mua bán.
Hàng hóa có thể ở dạng vật thể (hữu hình) hoặc ở dạng phi vật thể
(dịch vụ vơ hình).
b) Hai thuộc tính của hàng hóa: Giá trị sử dụng và Giá trị.
* Giá trị sử dụng của hàng hóa:
- Khái niệm: Giá trị sử dụng của hàng hóa là cơng dụng của hàng hóa
nhằm thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con người. (Nhu cầu của con
người gồm có nhu cầu tiêu dùng cho sản xuất và nhu cầu tiêu dùng cho
cá nhân)
+ GTSD của hàng hóa là thuộc tính tự nhiên của hàng hóa. Vì vậy, giá trị
sử dụng của hàng hóa là phạm trù vĩnh viễn.
+ Giá trị sử dụng chỉ được thể hiện trong việc sử dụng hay tiêu dùng nó.
Khi chưa tiêu dùng, giá trị sử dụng chỉ ở dạng khả năng. Điều này nói lên
ý nghĩa quan trọng của tiêu dùng đối với sản xuất.
+ Trong nền KT hàng hóa, giá trị sử dụng của hàng hóa là giá trị sử dụng
xã hội vì nó là giá trị sử dụng cho người khác chứ không phải cho bản
thân người sản xuất ra nó. Nói cách khác: Giá trị sử dụng của hàng hóa là
vật mang giá trị trao đổi (Giá trị)
* Giá trị hàng hố:
Muốn tìm hiểu phạm trù giá trị phải xuất phát từ phạm trù giá trị trao đổi
vì Giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện bên ngồi của giá trị; cịn giá trị là
nội dung bên trong, là cơ sở của giá trị trao đổi.
- Khái niệm:
Giá trị trao đổi là một quan hệ về số lượng, là tỷ lệ theo đó một giá trị sử
dụng loại này được trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác.
Ví dụ: 1 m vải = 5 kg thóc


Sở dĩ vải và thóc trao đổi được với nhau vì hai hàng hóa đó có cái chung là
đều là sản phẩm của lao động, đều có lao động kết tinh trong đó. Chính
lao động hao phí để tạo ra hàng hóa là cơ sở chung của trao đổi và tạo
thành giá trị của hàng hóa.
Giá trị của hàng hóa: là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết
tinh trong hàng hóa.
- Nhận xét:
+ Giá trị của hàng hóa là phạm trù lịch sử
+ Giá trị của hàng hóa phản ánh quan hệ giữa người sản xuất hàng hóa.
Giá trị của hàng hóa là thuộc tính xã hội của hàng hóa.


Như vậy, một vật muốn trở thành hàng hóa phải có đủ hai thuộc tính giá
trị sử dụng và giá trị.
2. Lượng giá trị của hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến
lượng giá trị của hàng hóa
a) Lượng giá trị của hàng hóa là lượng lao động hao phí để sản xuất ra
hàng hóa đó quyểt định.
b) Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa
Do thời gian lao động xã hội cần thiết luôn thay đổi, nên lượng giá trị của
hàng hóa cũng là một đại lượng không cố định. Sự thay đổi lượng giá trị
của hàng hóa tùy thuộc vào những nhân tố:
Thứ nhất, năng suất lao động.
Năng suất lao động là năng lực sản xuất của lao động, được tính bằng số
lượng sản phấm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng thời
gian cần thiết đế sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
Có hai loại năng suất lao động: năng suất lao động cá biệt và năng suất
lao động xã hội. Trên thị trường, hàng hóa được trao đổi không phải theo
giá trị cá biệt mà là giá trị xã hội. Vì vậy, năng suất lao động có ảnh
hưởng đến giá trị xã hội của hàng hóa chính là năng suất lao động xã hội.

Năng suất lao động xã hội càng tăng, thời gian lao động xã hội cần thiết
để sản xuất ra hàng hóa càng giảm, lượng giá trị của một đơn vị sản
phẩm càng ít. Ngược lại, năng suất lao dộng xã hội càng giảm, thì thời
gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa càng tăng và
lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng nhiều. Lượng giá trị của một
đơn vị hàng hóa tỷ lệ thuận với số lượng lao động kết tinh và tỷ lệ nghịch
với năng suất lao động xã hội. Như vậy, muốn giảm giá trị của mỗi đơn vị
hàng hóa xuống, thì ta phải tăng năng suất lao động xã hội.
Năng suất lao động lại tùy thuộc vào nhiều nhân tố như: trình độ khéo léo
của người lao động, sự phát triển của khoa học - kỹ thuật và trình độ ứng
dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, sự kết hợp xã hội của sản xuất, hiệu
quả của tư liệu sản xuất và các điều kiện tự nhiên.
Tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao động tác động khác nhau
đối với lượng giá trị hàng hóa. Cường độ lao động là khái niệm nói lên mức
độ khẩn trương, là sự căng thẳng mệt nhọc của người lao động. Vì vậy,
khi cường độ lao động tăng lên, thì lượng lao động hao phí trong cùng một
đơn vị thời gian cũng tăng lên và lượng sản phẩm được tạo ra cũng tăng
lên tương đương, còn lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm thì khơng đổi.
Xét về bản chất, tăng cường độ lao động cũng giống như kéo dài thời gian
lao động.
Thứ hai, mức độ phức tạp của lao động.


Mức độ phức tạp của lao động cũng ảnh hưởng nhất định đến số lượng giá
trị của hàng hóa. Theo mức độ phức tạp của lao động có thể chia lao động
thành lao động giản đơn và lao động phức tạp.
Lao động giản đơn là lao động mà bất kỳ một người bình thường nào có
khả năng lao động cũng có thể thực hiện được. Lao động phức tạp là lao
động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện thành lao động chun mơn
lành nghề mới có thể tiến hành được.

Khi nghiên cứu tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, có một
vấn đề đặt ra là: phải chăng trong cùng một đơn vị thời gian lao động, thì
bất cứ ai làm việc gì, nghề gì cũng đều tạo ra một lượng giá trị như nhau?
C.Mác chỉ rõ: trong một giờ lao động, người thợ sửa chữa đồng hồ tạo ra
nhiều giá trị hơn người rửa bát. Bởi vì, lao động của người rửa bát là lao
động giản đơn, có nghĩa là bất kỳ một người bình thường nào, khơng phải
trải qua đào tạo, khơng cần có sự phát triển đặc biệt, cũng có thể làm
được. Cịn lao động của người thợ sửa chữa đồng hồ là lao động phức tạp
địi hỏi phải có sự đào tạo, phải có thời gian huấn luyện tay nghề. Vì vậy,
trong cùng một đơn vị thời gian lao động như nhau, lao động phức tạp tạo
ra được nhiều giá trị hơn so với lao động giản đơn. Lao động phức tạp là
lao động giản đơn được nhân gấp bội lên. Để cho các hàng hóa do lao
động giản đơn tạo ra có thể quan hệ bình đẳng với các hàng hóa do lao
động phức tạp tạo ra, trong quá trình trao đổi người ta quy mọi lao động
phức tạp thành lao động giản đơn trung bình.
C.Mác viết: "Lao động phức tạp... chỉ là lao động giản đơn được nâng lên
lũy thừa, hay nói cho đúng hơn là lao động giản đơn được nhân lên...”.
Như vậy, lượng giá trị của hàng hóa được đo bằng thời gian lao động xã
hội cần thiết, giản đơn trung bình.

3. Khái niệm, đặc trưng, ưu thế và khuyết tật của nền kinh tế
thị trường (trang 36)
 Khái niệm
Kinh tế thị trường là mơ hình kinh tế mà trong đó người mua và người
bán tác động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả
và số lượng hàng hoá, dịch vụ trên thị trường.
 Đặc trưng
- Về chủ thể kinh tế: Các chủ thể kinh tế được tự do sản xuất kinh doanh
theo luật pháp và được bình đẳng khơng phân biệt đối xử. Các chủ thể
kinh tế đều có cơ hội để tiếp cận các nguồn lực phát triển có hiệu quả.



- Về thị trường: Thực hiện các giải pháp để tạo lập và phát triển các yếu
tố thị trường cơ bản như thị trường hàng hóa và dịch vụ; thị trường vốn,
tiền tệ; thị trường khoa học, công nghệ; thị trường lao động, thị trường
bất động sản và lành mạnh hóa các yếu tố thị trường đó nhằm tạo điều
kiện cho nền kinh tế thị trường phát triển ổn định, bền vững và bảo đảm
định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Về cơ chế vận hành: Tơn trọng tính khách quan của các quy luật kinh tế
thị trường; tính năng động của cơ chế thị trường.
- Về vai trò của Nhà nước: Nhà nước điều tiết nền kinh tế thị trường trên
cơ sở vận dụng các quy luật kinh tế của nền kinh tế thị trường vào điều
kiện Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế để định hướng phát
triển nền kinh tế, tạo lập môi trường cho nền kinh tế phát triển ổn định,
bền vững và hạn chế mặt trái của cơ chế thị trường.
 c. Ưu thế
a. Là điều kiện để thúc đẩy các hoạt động sản xuất:
Trong nền kinh tế thị trường nếu lượng cầu cao hơn cung thì giá cả hàng
hố sẽ tăng lên. Mức lợi nhuận cũng tăng, điều này khuyến khích người
sản xuất tăng lượng cung. Ai có cơ chế sản xuất hiệu quả hơn, thì có tỷ
suất lợi nhuận cao hơn. Nhờ đó cho phép tăng quy mơ sản xuất. Do đó
các nguồn lực sản xuất sẽ chảy về phía những người sản xuất hiệu quả
hơn. Những người sản xuất có cơ chế sản xuất kém hiệu quả sẽ có tỷ suất
lợi nhuận thấp. Khả năng mua nguồn lực sản xuất thấp, sức cạnh tranh
kém sẽ bị đào thải dần.
Do đó các doanh nghiệp đó muốn cạnh tranh và đáp ứng tốt nhu cầu của
thị trường thì địi hỏi họ phải khơng ngừng đổi mới. Đổi mới về cơng nghệ,
quy trình sản xuất, quản lý, về các sản phẩm của mình để đáp ứng thị
trường.
b. Có được một lực lượng sản xuất lớn-đáp ứng tối đa nhu cầu của người

tiêu dùng:
Kinh tế thị trường tạo ra nhiều sản phẩm giúp thỏa mãn nhu cầu của tiêu
dùng ở mức tối đa. Tại nhiều nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, mức
sống của người tiêu dùng đã bị trượt xuống thấp hơn nhiều so với các
quốc gia trong nền kinh tế thị trường.
Mặc dù về mặt nguyên lí, kinh tế kế hoạch hóa tập trung với mục tiêu là
tạo ra một hệ thống cơng bằng hơn đối với q trình phân chia của cải.
Nhưng khuyết điểm của hệ thống này là đã không cung cấp đủ các mặc
hàng thiết yêu. Chẳng hạn như thực phẩm, các dịch vụ công cộng, nhà ở


hoặc những sản phẩm phục vụ cho nhu cầu cuộc sống hàng ngày vì
khơng tạo được động lực thúc đẩy sản xuất.
c. Tạo động lực để con người thoã sức sáng tạo:
Một nền kinh tế cho phép con người tự do cạnh tranh. Điều này đồng
nghĩa đòi hỏi mọi người phải khơng ngừng sáng tạo để tồn tại. Tìm ra
những phương thức mới cải tiến cho công việc, đúc rút cho bản thân
nhiều kinh nghiệm. Kinh tế thị trường là nơi để phát hiện, đào tạo, tuyển
chọn, sử dụng con người. Cũng là nơi để đào thải những quản lý chưa đạt
được hiệu quả cao. Ngồi ra, cịn tạo nên một môi trường kinh doanh dân
chủ, tự do, công bằng.
d. Kinh tế thị trường cung cấp nhiều việc làm hơn:
Một ví dụ là các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm khoảng 99,7% tổng số
doanh nghiệp tại Hoa Kỳ. Các doanh nghiệp có ít hơn 20 nhân viên ở Hoa
Kỳ chiếm 89,6% lực lượng lao động tại nước này. Với nền kinh tế thị
trường, sự tập trung vào đổi mới cho phép các doanh nghiệp nhỏ này tìm
ra những thị trường ngách và cung cấp các công việc với mức lương cao ở
địa phương.
 Nhược điểm của kinh tế thị trường:
a. Kinh tế thị trường có thể dẫn tới bất bình đẳng trong xã hội:

Gia tăng khoảng cách giữa giàu và ngheo dẫn tới bất bình đẳng trong xã
hội. Người giàu sẽ sử dụng lợi thế của mình để trở nên giàu hơn. Trong khi
người nghèo sẽ ngày càng nghèo hơn.
Sau một thời gian cạnh tranh, các nhà sản xuất nhỏ lẻ sẽ bị các hãng sản
xuất lớn mạnh thơn tính. Cuối cùng chỉ cịn lại một số ít các nhà sản xuất
lớn có tiềm lực mạnh. Họ sẽ thâu tóm phần lớn ngành kinh tế. Dần dần
kinh tế thị trường biến thành độc quyền chi phối.
b. Dễ dẫn đến mất cân bằng cung cầu dẫn đến khủng hoảng kinh tế:
Do chạy theo lợi nhuận nên các doanh nghiệp sẽ đầu tư mở rộng sản
xuất. Ban đầu, các công ty đầu tư phát triển sản xuất khiến nguồn cung
tăng mạnh trong khi cầu tăng khơng tương xứng. Hiện tượng này tích lũy
qua nhiều năm sẽ dẫn đến khủng hoảng thừa. Nghĩa là hàng hoá bị ứ
đọng, dẫn đến giá cả sụt giảm. Hàng hố khơng bán được để thu hồi chi
phí đầu tư nên hàng loạt doanh nghiệp phá sản và khủng hoảng kinh tế là
kết quả cuối cùng.Cuộc Đại khủng hoảng kinh tế ở Mỹ năm 1929 chính là
một ví dụ điển hình. Đấy là kết quả của sự tăng trưởng sản xuất quá mức
trong thập kỷ 1920 mà không có sự điều tiết hợp lý của chính phủ.


4. Quy luật giá trị trong kinh tế thị trường



5. Bản chất và chức năng của tiền
a) Bản chất của tiền
Như vậy, tiền ra đời là kết quả của sự phát triển lâu dài của sản xuất
và trao đổi hàng hóa.
Tiền là hàng hóa đặc biệt được tách ra từ thế giới hàng hóa làm vật
ngang giá chung cho tất cả các hàng hóa.
Tiền là sự thể hiện chung của giá trị, đồng thời cũng biểu hiện quan hệ

sản xuất giữa những người sản xuất hàng hóa.


6. Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong nền kinh tế
thị trường tư bản chủ nghĩa (tương đối, tuyệt đối, siêu
ngạch),

Giá trị thặng dư tuyệt đối
Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài thời gian lao
động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá
trị lao động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi.


Thí dụ: Ngày lao động là 8 giờ, thời gian lao động tất yếu là 4 giờ, thời gian
lao động thặng dư là 4 giờ, mỗi giờ công nhân tạo ra một giá trị mới là 10
đơn vị, thì giá trị thặng dư tuyệt đối là 40 và tỷ suất giá trị thặng dư là:
m’ = 40/40 x 100%
Nếu kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ nữa, trong khi mọi điều khác vẫn như
cũ, thì giá trị thặng dư tuyệt đối tăng lên 60 và m’ cũng tăng lên thành:
m’ = 60/40 x 100%
Nhà tư bản nào cũng muốn kéo dài ngày lao động của người công nhân,
nhưng việc kéo dài đó khơng thể vượt q giới hạn sinh lý của cơng nhân. Vì
họ cịn phải có thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí để phục hồi sức khỏe.
Việc kéo dài thời gian lao động còn bị sự phản kháng của giai cấp cơng nhân
đấu tranh địi giảm giờ làm.
Giai cấp tư sản muốn kéo dài ngày lao động, cịn giai cấp cơng nhân lại
muốn rút ngắn thời gian lao động. Do đó, độ dài ngày lao động được xác
định tùy thuộc vào so sánh lực lượng trong cuộc đấu tranh hai giai cấp nói
trên, điểm dừng của độ dài ấy là điểm mà ở đó lợi ích kinh tế của nhà tư bản
và của người lao động được thực hiện theo một thỏa hiệp tạm thời.

Khi độ dài ngày lao động không thể kéo dài thêm, nhà tư bản tìm cách tăng
cường độ lao động của cơng nhân. Tăng cường độ lao động về thực chất
cũng tương tự như kéo dài ngày lao động, tức là chi phí nhiều sức lao động
hơn trong một khoảng thời gian nhất định. Vì vậy, kéo dài thời gian lao động
và tăng cường độ lao động là biện pháp để sản xuất giá trị thặng dư tuyệt
đối.

Giá trị thặng dư tương đối
Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian
lao động tất yếu bằng cách hạ thấp giá trị sức lao động, nhờ đó tăng thời
gian lao động thặng dư lên ngay trong điều kiện độ dài ngày lao động vẫn
như cũ.
Giả dụ ngày lao động là 10 giờ, trong đó 5 giờ là lao động tất yếu, 5 giờ là
lao động thặng dư. Nếu giá trị sức lao động giảm đi 1 giờ thì thời gian lao
động tất yếu rút xuống cịn 4 giờ. Do đó, thời gian lao động thặng dư tăng từ
5 giờ lên 6 giờ và tỷ suất giá trị thặng dư (m’) tăng từ 100% lên 150%.
Giá trị sức lao động được quyết định bởi giá trị các tư liệu tiêu dùng và dịch
vụ để sản xuất và tái sản xuất sức lao động, muốn hạ thấp giá trị sức lao
động thì phải giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết cho người
cơng nhân. Do đó, cần phải tăng năng suất lao động xã hội trong các ngành
sản xuất tư liệu tiêu dùng và các ngành sản xuất tư liệu sản xuất để sản
xuất ra các tư liệu tiêu dùng.


Giá trị thặng dư siêu ngạch
Muốn tăng năng suất lao động phải cải tiến sản xuất, đổi mới công nghệ; xí
nghiệp nào tăng năng suất trước thì thu được giá trị thặng dư siêu ngạch.
Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do áp dụng
cơng nghệ mới sớm hơn các xí nghiệp khác làm cho giá trị cá biệt của hàng
hóa thấp hơn giá trị thị trường của nó. Khi số đơng các xí nghiệp đều đổi mới

kỹ thuật và công nghệ một cách phổ biến thì giá trị thặng dư siêu ngạch của
doanh nghiệp đó sẽ khơng cịn nữa.
Trong từng xí nghiệp, giá trị thặng dư siêu ngạch là một hiện tượng tạm thời,
nhưng trong phạm vi xã hội thì nó lại thường xuyên tồn tại. C.Mác gọi giá trị
thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối,
vì giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối đều dựa trên cơ
sở tăng năng suất lao động, chỉ khác ở chỗ là một bên là tăng năng suất lao
đông xã hội và một bên là tăng năng suất lao động cá biệt.

Giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực mạnh mẽ thúc đẩy các nhà tư bản
đổi mới công nghệ để tăng năng suất lao động cá biệt, đánh bại đối thủ của
mình trong cạnh tranh.
Tuy giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối có sự khác nhau nhưng cả hai loại
đó đều là một bộ phận giá trị mới do cơng nhân tạo ra, đều có nguồn gốc là
lao động không được trả công.
Trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
chiếm ưu thế, song trong thế kỉ XX thì sản xuất giá trị thặng dư tương đối
chiếm ưu thế hơn. Ngày nay, để sản xuất giá trị thặng dư (m) nhà tư bản vẫn
sử dụng kết hợp cả hai phương pháp nói trên.

Ý nghĩa
– Hai phương pháp này có ý nghĩa đối với việc sản xuất ra của cải vật chất,
cụ thể:
+ Trong điều kiện cơ sở vật chất còn nghèo nàn lạc hậu, việc kéo dài thời
gian lao động và tăng cường độ lao động có ý nghĩa giải quyết được khó
khăn về đời sống hoặc hồn thành mục tiêu kế hoạch đề ra.
+ Cải tiến kĩ thuật, ứng dụng thành tựu khoa học mới, tăng năng suất lao
động, gia tăng của cải vật chất có ý nghĩa lâu bền.



7. Đặc điểm xuất khẩu tư bản của độc quyền trong chủ nghĩa tư
bản
Xuất khẩu tư bản:
Xuất khẩu tư bản là đưa tư bản ra nước ngoài để kinh doanh nhằm
thu lợi nhuận cao:
- Trong giai đoạn cạnh tranh tự do, xuất khẩu tư bản chủ yếu là tư
bản hàng hóa, tức là đưa hàng ra nước ngồi để thực hiện giá trị.
- Trong giai đoạn độc quyền, xuất khẩu tư bản chủ yếu là tư bản hoạt
động từ những nước phát triển đến những nước đang phát triển hoặc
kém phát triển ở những quốc gia nhân công, nguyên liệu rẻ, hậu quả
xuất khẩu tư bản là dẫn đến nền kinh tế phụ thuộc, cạn kiệt tài
nguyên.
Biểu hiện mới của xuất khẩu tư bản (sl 95)
8. Nguyên nhân ra đời và bản chất của độc quyền nhà nước
Nguyên nhân ra đời


Bản chất
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp sức mạnh của các tổ chức độc quyền tư nhân
với sức mạnh của nhà nước tư sản thành một thiết chế về thể chế thống nhất, trong đó nhà nước
tư sản bị phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền và can thiệp vào các quá trình kinh tế nhằm bảo vệ
lợi ích của các tổ chức độc quyền và cứu nguy cho chủ nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là nấc thang phát triển mới của chủ nghĩa tư bản độc quyền
(chủ nghĩa đế quốc). Nó là sự thống nhất của ba q trình gắn bó chặt chẽ với nhau: Tăng sức
mạnh của các tổ chức độc quyền, tăng vai trò can thiệp của nhà nước vào kinh tế, kết hợp sức
mạnh kinh tế của độc quyền tư nhân với sức mạnh chính trị của nhà nước trong một thể thơsng
nhất và bộ máy nhà nước phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền.


Trong cơ câu của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, nhà nước đã trở thành một tập thể tư bản

khổng lổ. Nó cũng là chủ sở hữu những xí nghiệp, cũng tiến hành kinh doanh, bóc lột lao động làm
thuê như một nhà tư bản thông thường. Nhưng điểm khác biệt là ở chỗ: ngoài chức năng một nhà
tư bản thơng thường, nhà nước cịn có chức năng chính trị và các cơng cụ trấn áp xã hội như quân
đội cảnh sát, nhà tù...
Như vậy, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội chứ khơng
phải là một chính sách trong giai đoạn độc quyền của chủ nghĩa tư bản
Bất cứ nhà nước nào cũng có vai trị kinh tế nhất định đối với xã hội mà nó thống trị, song ở mỗi
chế độ xã hội, vai trò kinh tế của nhà nước có sự biến đổi thích hợp đối với xã hội đó. Các nhà nước
trước chủ nghĩa tư bản chủ yếu can thiệp bằng bạo lực và theo lối cưỡng bức siêu kinh tế. Trong
giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, nhà nước tư sản ở bên trên, bên ngồi q trình kinh
tế, vai trò của nhà nước chỉ dừng lại ở việc điều tiết bằng thuế và pháp luật. Cùng với sự phát triển
của chủ nghĩa tư bản độc quyền vai trò của nhà nước tư sản dần dần có sự biến đổi, không chỉ can
thiệp vào nền sản xuất xã hội bằng thuế, luật pháp mà cịn có vai trị tổ chức và quản lý các xí
nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước, điều tiết bằng các biện pháp đòn bẩy kinh tế vào tất cả
các khâu của quá trình tái sản xuất: sản xuất, phân phối, lưu thông, tiêu dùng. Chủ nghĩa tư bản
độc quyền nhà nước là hình thức vận động mới của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa nhằm duy
trì sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản, làm cho chủ nghĩa tư bản thích nghi với điều kiện lịch sử mới.

9. Đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng XHCH ở VN
Về hệ thống mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã chỉ
rỏ: phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta nhằm mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thực hiện: “Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Để thực hiện được mục
tiêu đó trong phát triển nền kinh tế thị trường, phải tạo điều kiện để giải
phóng mạnh mẽ sức sản xuất và không ngừng phát triển lực lượng sản
xuất; phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn với xây dựng quan hệ sản
xuất mới XHCN phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối;
phát triển kinh tế thị trường để từng bước xây dựng hạ tầng kinh tế cho
chủ nghĩa xã hội; cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân.

Mục tiêu kinh tế - xã hội - văn hóa mà nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta phải đạt là:
Làm cho dân giàu: Nội dung căn bản của dân giàu là mức bình quân GDP
đầu người tăng nhanh trong một thời gian ngắn và khoảng cách giàu,
nghèo trong xã hội ngày càng được thu hẹp.
Làm cho nước mạnh: Thể hiện ở mức đóng góp to lớn của nền kinh tế thị


trường cho ngân sách quốc gia; ở sự gia tăng ngành kinh tế mũi nhọn; ở
sự sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả các nguồn tài nguyên quốc gia; ở sự
bảo vệ mơi trường sinh thái, bảo vệ các bí mật quốc gia về tiềm lực kinh
tế, khoa học, công nghệ và an ninh, quốc phịng.
Làm cho xã hội cơng bằng, văn minh: Thể hiện ở việc xử lý các quan hệ
lợi ích ngay trong nội bộ nền kinh tế thị trường, ở đó việc góp phần to lớn
vào giải quyết các vấn đề xã hội, ở việc cung ứng các hàng hóa và dịch vụ
có giá trị khơng chỉ về kinh tế mà cịn có giá trị cao về văn hóa, xã hội.
Về mục tiêu chính trị: Làm cho xã hội dân chủ, biểu hiện ở chỗ dân chủ
hóa nền kinh tế, mọi người, mọi thành phần kinh tế có quyền tham gia
vào hoạt động kinh tế, vào sản xuất kinh doanh, có quyền sở hữu hợp
pháp về tài sản của mình; quyền của người sản xuất và người tiêu dùng
được bảo vệ trên cơ sở pháp luật của nhà nước.
- Về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế: Nền kinh tế có nhiều thành
phần, với nhiều hình thức sở hữu. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận
cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh với nhau
trên cơ sở pháp luật của nhà nước, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trị
chủ đạo và kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành
nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; chế độ công hữu về tư liệu
sản xuất chủ yếu, từng bước được xác lập và sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối
khi chủ nghĩa xã hội về cơ bản được xây dựng xong.

- Về chế độ phân phối: Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta, thực hiện phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả
kinh tế là chủ yếu; đồng thời có các hình thức phân phối khác nữa (phân
phối theo vốn, theo tài năng cùng các nguồn lực khác đóng góp vào sản
xuất kinh doanh), vừa khuyến khích lao động, vừa bảo đảm phúc lợi xã
hội cơ bản, bảo đảm sự phân phối công bằng, hợp lý và hạn chế sự bất
bình đẳng trong xã hội.
- Về vai trò quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa: Nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, sự quản lý và điều tiết nền kinh tế của nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Vì vậy, sự quản lý của nhà nước trong nền kinh tế thị
trường phải định hướng cho nền kinh tế phát triển có hiệu quả trên cơ sở
đảm bảo lợi ích quốc gia, lợi ích của nhân dân lao động thơng qua hệ
thống pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển
kinh tế, xã hội. Đồng thời, có sử dụng cơ chế thị trường (vận dụng các quy
luật kinh tế thị trường để đưa ra những công cụ tác động vào thị trường)


kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực và
hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường.
Sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường
nhằm giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công
bằng xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Nhà nước thực hiện chính sách
xã hội, một mặt, khuyến khích làm giàu hợp pháp, mặt khác phải thực
hiện xóa đói, giảm nghèo.
- Về nguyên tắc giải quyết các mối quan hệ chủ yếu: Kết hợp ngay từ đầu
giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, bảo đảm giải phóng sức sản
xuất; xây dựng lực lượng sản xuất kết hợp với củng cố và hoàn thiện quan
hệ sản xuất mới XHCN, nhằm phục vụ cho phát triển sản xuất và cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; giữa phát triển sản xuất với từng bước

cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân; giải quyết tốt các vấn đề xã hội
và công bằng xã hội, ngăn chặn các tệ nạn xã hội; giải quyết tốt các
nhiệm vụ chính trị, xã hội, văn hóa, mơi trường và an ninh, quốc phịng.
- Về tính cộng đồng và tính dân tộc: Kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta mang tính cộng đồng cao theo truyền thống của xã
hội Việt Nam, phát triển kinh tế thị trường có sự tham gia của cộng đồng
và vì lợi ích của cộng đồng, hướng tới xây dựng một cộng đồng xã hội Việt
Nam giàu có, đầy đủ về vật chất, phong phú về tinh thần, dân chủ, công
bằng, văn minh, đảm bảo cuộc sống ấm no và hạnh phúc cho nhân dân.
- Về quan hệ quốc tế: Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta dựa
vào sự phát huy tối đa nguồn lực trong nước và triệt để tranh thủ nguồn
lực nước ngoài theo phương châm “Kết hợp sức mạnh của dân tộc và sức
mạnh của thời đại” và sử dụng các nguồn lực đó một cách hợp lý, đạt hiệu
quả cao, để phát triển nền kinh tế đất nước với tốc độ nhanh, hiện đại và
bền vững.
Như vậy, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
vừa mang tính phổ biến (đặc trưng chung) của mọi nền kinh tế thị trường;
vừa có đặc trưng riêng của tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Hai nhóm
nhân tố này cùng tồn tại, kết hợp và bổ sung cho nhau. Trong đó, nhóm
đặc trưng chung đóng vai trị là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển,
nhóm đặc trưng riêng đóng vai trò hướng dẫn nền kinh tế phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
10.
Khái niệm lợi ích kinh tế và quan hệ lợi ích giữa người
lao động và người sử dụng lao động





×