Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Liên kết kinh tế khu vực EU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.53 KB, 31 trang )

ĐỀ TÀI: LIÊN KẾT KINH TẾ KHU VỰC EU


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
1.

Lý do chọn đề tài...........................................................................................1

2.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................1

3.

Đối tượng , phạm vi nghiên cứu....................................................................1

4.

Phương pháp nghiên cứu...............................................................................2

5.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài...........................................................2

PHẦN NỘI DUNG...............................................................................................3
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ LIÊN KẾT KINH TẾ KHU VỰC...........................3
1.1.

Khái niệm liên kết kinh tế khu vực.........................................................3


1.1.1. Chủ nghĩa khu vực trong hệ thống thương mại toàn cầu.....................3
1.1.2. Khái niệm liên kết kinh tế khu vực, khu vực hố và chủ nghĩa khu
vực

3

1.1.3. Các hình thức của RTAs......................................................................4
1.1.4. Tác động của RTAs.............................................................................6
1.2.

Nguyên nhân hình thành liên kết kinh tế khu vực..................................7

1.3.

Tác động của liên kết kinh tế khu vực....................................................8

CHƯƠNG 2: LIÊN KẾT KINH TẾ KHU VỰC TẠI EU......................................9
2.1.

Giới thiệu chung về EU..........................................................................9

2.1.1. EU là gì?.............................................................................................9
2.1.2. Quá trình thành lập.............................................................................9
2.2.

Các cơ quan tổ chức của EU.................................................................12

2.3.

Mục tiêu và thành tựu của EU..............................................................13


2.4.

Liên minh kinh tế EU...........................................................................14


2.5.

Liên minh chính trị EU.........................................................................16

CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM. .19
3.1.

Đánh giá chung về liên kết kinh tế khu vực của EU.............................19

3.2.

Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam......................................................21

3.2.1. Hội nhập kinh tế toàn cầu.................................................................21
3.2.2. Hội nhập kinh tế với EU...................................................................23
KẾT LUẬN.........................................................................................................26
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................27


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khơng ai có thể đặt câu hỏi nghiêm túc về sự thành công của hội nhập

châu Âu, cho dù về kinh tế hay chính trị điều kiện. Kể từ những bước đầu tiên
được thực hiện ngay sau Thế chiến thứ hai để tạo ra Cộng đồng Than và Thép
Châu Âu, 'dự án hội nhập châu Âu' đã đi từ một hình thức cơng nghiệp hạn chế
hợp tác thành một liên minh kinh tế và tiền tệ khơng có sự hợp tác nào khác. Rõ
ràng là nhiều nhiều hơn là một thỏa thuận thương mại theo kiểu đã thấy trong các
khối khu vực khác - chẳng hạn như ASEAN ở Châu Á, Mercosur ở Nam Mỹ
hoặc thỏa thuận USMCA ở Bắc Mỹ - nhưng vẫn cịn thiếulà một liên đồn.
Việc thuộc Liên minh Châu Âu đòi hỏi nhiều cam kết và kỳ vọng hơn là
thành viên của các tổ chức quốc tế khác. Nó cũng không phải là tĩnh: thông qua
các thay đổi hiệp ước, liên tiếp mở rộng và các sáng kiến chính sách lớn mà EU
đã trở thành, mượn một cụm từ thường được sử dụng bởi Wolfgang Wessels
(2016), cả 'rộng hơn' và 'sâu hơn'. Jacques Delors, một trong những kiến trúc sư
hàng đầu của bây giờ là Liên minh Châu Âu (EU), nổi tiếng khi đề cập đến Liên
minh như một 'không xác định đối tượng chính trị '.
Bài tiểu luận này sẽ nhìn lại và phân tích lý do tại sao liên kết kinh tế khu
vực của EU đạt được những thành cơng đó. Sau đó, tác giả sẽ đưa ra các bài học
kinh nghiệm cho Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
a . Mục đích nghiên cứu đề tài :
- Mục tiêu tổng quát : Nghiên cứu sâu , rộng về liên kết kinh tế khu vực của EU .
- Mục tiêu cụ thể : tìm hiểu về các yếu tố như : Bối cảnh quốc tế , bối cảnh khu
vực liên minh châu Âu ; Nghiên cứu rõ về liên hết kinh tế khu vực của EU.
b . Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài : chỉ ra được nội dung chủ yếu của liên kết
kinh tế khu vực của EU.
3. Đối tượng , phạm vi nghiên cứu
1


2


- Đối tượng nghiên cứu : liên kết kinh tế khu vực của EU .
- Phạm vi nghiên cứu : Tìm hiểu về Cơ sở hình thành và phát triển liên kết
kinh tế khu vực của EU ; Đưa ra nội dung chủ yếu của liên kết kinh tế khu vực
EU.
4. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài các phương pháp cơ bản và mang tính truyền thống như duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử , đề tài sẽ áp dụng các phương pháp phân tích ,
tổng hợp , so sánh để làm sáng tỏ các vấn đề cần được nghiên cứu trong phạm ví
đề tài .
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
a . Về mặt khoa học : đề tài đưa ra cái nhìn tồn diện về sự hình thành và
phát triển liên kết kinh tế khu vực của EU .
b . Về mặt thực tiễn : đề tài đưa ra bức tranh tổng quát về liên kết kinh tế
khu vực của Liên minh châu Âu hiện nay
-

2


3

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:

LÝ LUẬN VỀ LIÊN KẾT KINH TẾ KHU VỰC

1.1. Khái niệm liên kết kinh tế khu vực
1.1.1. Chủ nghĩa khu vực trong hệ thống thương mại toàn cầu
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, hệ thống thương mại thế giới
nổi lên hai cách tiếp cận cơ bản đến tự do hoá thương mại là chủ nghĩa đa

phương dưới sự dẫn dất của GATT / WTO và chủ nghĩa khu vực với các thoả
thuận khu vực. Trong khi chủ nghĩa đa phương đã đạt được những bước tiến lớn
với sự phát triển từ GATT (1947) – thoả thuận chung về thuế quan và thương mại
với sự tham gia ban đầu của 26 thành viên – đến WTO (1995) – một tổ chức
thương mại đa phương với cơ cấu chặt chẽ và hệ thống quy tắc điều chỉnh thương
mại thế giới, với sự tham gia của ngày càng đông quốc gia và vùng lãnh thổ,
cùng với kết quả tự do hoá đáng kể trong thương mại và đầu tư thế giới qua 8
vòng đàm phán thương mại, thì chủ nghĩa khu vực với các thoả thuận ở mọi cấp
độ song phương, tiểu vùng và khu vực cũng ngày càng phát triển thể hiện một
con đường tự do hoá thương mại và liên kết kinh tế thành công như: EU,
NAFTA, AFTA, Mercosur…
1.1.2. Khái niệm liên kết kinh tế khu vực, khu vực hoá và chủ nghĩa khu vực
Liên kết kinh tế khu vực trong tiếng Anh được gọi là regional economic
integration. Liên kết kinh tế khu vực là thoả thuận giữa các nhóm quốc gia trong
một khu vực địa lí nhằm làm giảm và cuối cùng là xoá bỏ hàng rào thuế quan và
phi thuế quan đối với hàng hoá, dịch vụ và các yếu tố sản xuất giữa hai bên.
Liên kết kinh tế khu vực là các bước đi cụ thể để thực hiện hội nhập kinh
tế quốc tế, trong đó, hội nhập kinh tế quốc tế được hiểu là quá trình mà một quốc
gia tiến hành mở cửa nền kinh tế cho các hoạt động thương mại và đầu tư quốc
tế, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước tham gia phân công lao động
quốc tế.
Sự tăng cường mối liên kết kinh tế trong khu vực thường được phân biệt
giữa hai khái niệm: khu vực hoá và chủ nghĩa khu vực.
3


4

Khu vực hố là q trình phát triển liên kết khu vực, tạo lập các khối kinh
tế như một quá trình phát triển tự nhiên của thị trường.

Chủ nghĩa khu vực là sự phát triển của liên kết khu vực biểu hiện cụ thể ở
các thoả thuận thương mại khu vực chính thức nhằm tự do hố và thuận lợi hoá
thương mại và đầu tư.
Thoả thuận thương mại khu vực (regional trade agreements, regional free
trade agreements - RTAs) là các thoả thuận thương mại ưu đãi mang tính phân
biệt đối xử, trong đó các nước tham gia hình thành một khu vực chung với mục
đích cắt giảm rào cản đối với thương mại giữa các thành viên. Một RTA là một
liên minh giữa hai hay nhiều nước trong đó hàng hoá được sản xuất trong liên
minh chịu rào cản thương mại thấp hơn hàng hố được sản xuất bên ngồi liên
minh. Thuật ngữ " regional arrangement ", " regional trade arrangement ", "
regional trading agreeement ” và " regional integration arrangements " cũng được
sử dụng trong các báo cáo và phân tích. Đặc trưng của các RTAs là thương mại
giữa các thành viên được đối xử ưu đãi hơn so với thương mại với nước khơng
phải thành viên, đó chính là bản chất phân biệt đối xử của RTAs. Thúc đẩy liên
kết kinh tế đòi hỏi cắt giảm các rào cản thương mại, nhờ đó giảm chi phí và rủi ro
trong thương mại giữa các nền kinh tế thành viên.
1.1.3. Các hình thức của RTAs
Có nhiều cách phân loại RTAs tuỳ góc độ nhìn nhận:
a) Theo nội dung của RTAs: 3 loại RTAs chủ yếu gồm:
Các thoả thuận hình thành khối (block creation, block formation
agreements)
Các thoả thuận mở rộng khối (bloc expansion agreements): ví dụ dễ thấy
nhất là sự mở rộng EU để bao gồm thêm các thành viên mới thuộc khu vực ngoại
vi châu Âu, Thoả thuận thương mại tự do Trung Mỹ Central American Free
Trade Agreement (CAFTA).
Các thoả thuận mở cửa, tiếp cụn thị trường (markct access agreements):
Hai loại đầu thường có xu hướng bao hàm xa hơn các vấn đề hạn chế ở biên giới
4



5

như thuế quan, hạn ngạch (border issues, border measures). Các thoả thuận mở
cửa thị trường có xu hướng chỉ bao hàm các quy định về thương mại hàng hoa từ
các nước thành viên.
b) Theo thành viên tham gia: xem xét đến trình độ phát triển của các thành
viên RTAs: “ Bắc ” chỉ các nước phát triển, trong khi “ Nam ” chỉ các nước kém
phát triển hơn (các nước đang phát triển). Theo cách tiếp cận này, RTAs được
phân loại thành: liên kết Bắc – Bắc; liên kết Bắc – Nam; liên kết Nam – Nam
c) Theo cấp độ liên kết: dạng đơn giản nhất của liên kết khu vực là thoả
thuận cắt giảm thuế quan và các rào cản phi thuế giữa các nước, thường được coi
là các liên kết nông như thoả thuận thương mạ đãi (PTA), thoả thuận thương mại
tự do FTA), liên minh thuế quan (CU). Vượt xa hơn các dạng này là nhiều lựa
chọn chính sách liên kết khác trong đó phần nhiều hướng đến độ sâu liên kết, liên
quan các vấn đề vượt xa hơn các biện pháp hạn chế ở biên giới (border measures)
để đi vào các vấn để hài hoà và hợp tác chính sách hay hợp tác chức năng trong
các vấn để xã hội, văn hố, mơi trường, năng lượng đến liên kết kinh tế đầy đủ
(full economic integration), và tiến tới sự tạo lập cơ cấu tổ chức chung. RTAs
thường được mô tả với 5 cấp độ liên kết như Bela Balassa (1961) đã chỉ ra:
 Thoả thuận thương mại ưu đãi PTA (Preferential Trade Area, Preferential
Trade Agreement hay Preferential Trade Arrangement): cấp độ thấp nhất của liên
kết được biểu hiện ở các ưu đãi thương mại, hoặc các thoả thuận có phạm vi ưu
đãi một phần, tự do hoá thương mại ở những hàng hoá hay ngành hàng nhất định
 Thoả thuận thương mại tự do FTA (Free Trade Agreement, Free Trade
Arrangement, Free Trade Area) là cấp độ tiếp theo của liên kết, trong đó các
thành viên tự do hoá thương mại nội bộ nhưng vẫn giữ sự độc lập của các thành
viên về thuế quan với bên ngồi. Một FTA là một PTA có mức thuế quan (đối với
hàng hố trong nội bộ liên minh. Các ví dụ như: AFTA, NAFTA, CAFTA
 Liên minh thuế quan – CU (Custom Union): là mức độ liên kết sâu hơn
FTA, CU là một FTA trong đó các thành viên áp dụng một chính sách thuế quan

doi ngoại chung (common external tariff CET) đối với hàng hoá nhập khẩu từ
5


6

phần cịn lại của thế giới. Ví dụ hiện nay của các CU như: Mercosur, the Andean
Pact, and the Central American Common Market (CACM).
 Thị trường chung – CM (Common Market): khơng chỉ tự do hố về hàng
hoa dịch vụ, và thuế quan đối ngoại chung như CỤ, các thành viên còn cho phép
tự do di chuyển các yếu tố sản xuất (lao động và vốn) trong liên minh, tạo lập
một thị trường chung duy nhất. Công đồng kinh tế châu Âu (the European
Economic Community) vào đầu những năm 1990 đã đạt được tới một CM.
 Liên minh kinh tế - EU (Economic Union): là một CM với các chính sách
kinh tế chung. Ví dụ: với thoa thuận Masstrict, EC trờ thành European Union, với
đổng tiền chung Euro, đạt tới liên kết kinh tế đầy đù, một liên minh kinh tế.
1.1.4. Tác động của RTAs
1.1.4.1 Đảm bảo tiếp cận, mở cửa thị trường:
Những RTAs đảm bảo tiếp cận tới một thị trường lớn. Chúng đảm bảo
chắc chắn rằng nếu đối tác chuyển sang chủ nghĩa bảo hộ trong tương lai thì cửa
vào thị trường sẽ vẫn cịn. Chi phí trong việc mở cửa thị trường một cách ưu đãi
cho đối tác thương mại khác trong liên minh do đó có thể được xem như là phí
bảo hiểm cho những rủi ro mất mát có thể có trong việc tiếp cận thị trường đối
tác.
1.1.4.2 Cam kết gắn chặt vào cải cách và giải quyết tranh chấp:
Cải cách chính sách thương mại và các dạng cải cách khác thường bị hạn
chế bởi khả năng có thể bị đảo ngược. Các nhà đầu tư và các đối tác có thể khơng
tin tưởng vào việc duy trì cơng cuộc cải cách. Các vấn đề này sẽ được giải quyết
nếu nước chủ nhà có một cơ chế cam kết đảm bảo rằng các cải cách sẽ được theo
đuổi, và việc tham gia vào một RIA có thể đóng vai trị là một cơ chế cam kết

như thế bên cạnh các cam kết cắt giảm thuế và các rào cản thương mại theo các
ràng buộc thuế trong GATT / WTO Một thoả ước quốc tế có thể cam kết chặt vào
cải cách, khiến cho các chính phủ cịn mang tư tưởng bảo hộ khó đảo ngược hành
động quyết định tự do hố thương mại, các chính sách thương mại, của chính phủ
tiền nhiệm.

6


7

1.1.4.3 Cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả cho khu vực tư nhân:
Các cơ chế giải quyết tranh chấp trong các RTAs có thể hoạt động hiệu quả
hơn cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO (dispute settlement mechanism –
DSM). Hiệu quả hơn vì cơ chế giải quyết tranh chấp trong RTAs có thể dành trực
tiếp cho các bên tư nhân bao gồm cơng đồn lao động, nhóm kinh doanh và các
nhà hoạt động, trong khi cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO chỉ dành cho các
chính phủ của các nước thành viên mà thôi, không mở rộng sang khu vực tư
nhân. Một hệ thống cơ cấu như trong EU, NAFTA đảm bảo giải quyết các tranh
chấp giữa các bên thuộc các nước thành viên.
1.2. Nguyên nhân hình thành liên kết kinh tế khu vực
Khu vực hóa kinh tế hay liên kết kinh tế khu vực hoặc tập đồn hóa kinh
tế khu vực là q trình nhất thể hóa giữa các nước, các khu vực khác nhau,trong
cùng một châu lục hoặc giữa các châu lục với nhau, trên cơ sở bình đẳng cùng có
lợi, thơng qua ký kết các điều ước hoặc hiệp định, lập ra các chuẩn tắc thống nhất
để hoạt động và thực hiện các mục đích kinh tế, chính trị chung. Khu vực hóa
hiện nay đang trở thành một xu thế khách quan là do các nguyên nhân sau:
Một là, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học cơng nghệ, cách
mạng IT, địi hỏi sự phân công hợp tác sâu rộng giữa các nước, xã hội hóa sản
xuất vượt ra ngồi biên giới quốc gia và phát triển tới trình độ nhất định, tất yếu

đặt ra nhu cầu gỡ bỏ các rào cản trên thị trường và thực hiện liên kết kinh tế giữa
các quốc gia với nhau.
Hai là, khu vực hóa là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản phát triển tới giai
đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Chỉ có ở giai đoạn này, thì chức năng
của nhà nước mới được mở rộng và tăng cường, nó khơng chỉ can thiệp sâu và
mạnh mẽ vào đời sống kinh tế trong nước mà còn can thiệp mạnh mẽ vào quan
hệ kinh tế quốc tế và cần có sự phối hợp quốc tế.
Ba là, sự phát triển không điều trong nền kinh tế thế giới cũng là nhân tố
quan trọng thúc đẩy khu vực hóa kinh tế. Nhất là từ những năm 80 cho đến nay,
tình hình thế giới có những biến động điều chỉnh và cải tổ. Đối sánh thực lực
kinh tế giữa các nước tư bản chủ yếu có những thay đổi mới. Trong tình hình
7


8

phát triển khơng điều ngày càng tăng, để phịng ngừa sự mất lợi thế, vai trò bị
suy giảm, những nước vốn mạnh nhất về kinh tế điều muốn lấy khu vực kinh tế
làm chỗ dựa để giữ vững và tăng cường sức mạnh của mình.
Bốn là, sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường tư bản chủ nghĩa hiện đang là
động lực thúc đẩy q trình khu vực hóa kinh tế. Như sự thành lập Cộng đồng
kinh tế châu Âu đã tăng nhanh sự phát triển kinh tế của các nước thành viên, gia
tăng thực lực cạnh tranh của các nước thoát khỏi sự thống trị của Mỹ, trở thành
ba trung tâm kinh tế lớn trên thế giới ngày nay. Sự vùng dậy của Tây Âu, Nhật
Bản khiến Mỹ cũng có nhu cầu lập ra liên minh mậu dịch tự do với các nước láng
giềng (Hiệp định tự do Bắc Mỹ - NAFTA).
1.3. Tác động của liên kết kinh tế khu vực
Thực chất của liên kết kinh tế quốc tế là việc thực hiện q trình quốc tế
hóa đời sống kinh tế của một số nước có cùng xu hướng chính trị kinh tế. Lập ra
những liên minh kinh tế có những vai trị sau đây:

- Giúp phát triển thương mại quốc tế vì thường các nước trong một tổ
chức liên kết kinh tế cố gắng gạt bỏ cho nhau những trở ngại ngăn cản sự phát
triển của quá trình buôn bán quốc tế như: thuế quan, thủ tục xuất nhập khẩu và
các biện pháp hạn chế mậu dịch khác.
- Nhờ có sự phân cơng lao động trong các khối liên kết kinh tế mà mỗi
nước sửdụng hiệu quả hơn, kinh tế hơn các thế mạnh tuyệt đối và tương đối của
mình.
- Việc lập ra liên kết kinh tế quốc tế có vai trị làm cho các thành tựu khoa
học kỹthuật được sử dụng tối ưu, tăng năng suất lao động và tiết kiệm thời gian.
- Làm thay đổi cơ cấu kinh tế của các nước theo hướng có lợi nhất và dẫn
tới việc hình thành cơ cấu kinh tế mới có tính chất khu vực.
- Liên kết kinh tế khu vực giúp cho mỗi quốc gia tăng cường sức cạnh
tranh của mình trên thị trường quốc tế, nhằm hạn chế những ảnh hưởng xấu của
q trình hội nhập tồn cầu và những bất lợi của q trình đó đểđẩy nhanh quá
trình phát triển kinh tế của quốc gia mình.
8


9

CHƯƠNG 2:

LIÊN KẾT KINH TẾ KHU VỰC TẠI EU

2.1. Giới thiệu chung về EU
2.1.1. EU là gì?
European Union (EU) là một tổ chức liên chính phủ của các nước châu
Âu. Từ 6 thành viên ban đầu, hiện nay có 28 quốc gia thành viên.
Liên minh được thành lập với tên gọi hiện nay theo Hiệp ước về Liên
minh châu Âu năm 1992, thường gọi là Hiệp ước Maastricht. Tuy nhiên, nhiều

phương diện của Liên minh châu Âu đã có từ trước, kể từ thập niên 1950, thông
qua một loạt các tổ chức tiền thân.
Liên minh châu Âu (EU) có trụ sở đặt tại thủ đô Brussels của Bỉ. Trước
ngày 1 tháng 11 năm 1993 tổ chức này được gọi là Cộng đồng Châu Âu (EC).
Lịch sử của Liên minh châu Âu bắt đầu từ chiến tranh thế giới thứ II. Ý
tưởng về hội nhập châu Âu đã được nhận thức sẽ giúp ngăn chặn việc giết chóc
và phá hủy khơng xảy ra nữa. Bộ trưởng Ngoại giao Pháp Robert Schuman là
người đã nêu ra ý tưởng và đề xuất lần đầu tiên trong một bài phát biểu nổi tiếng
ngày9 tháng 5năm1950. Cũng chính ngày này hiện nay được coi là ngày thành
lập của EU và được kỉ niệm hàng năm là Ngày châu Âu. Ban đầu, EU bao gồm 6
quốc gia thành viên là: Bỉ, Đức, Italia, Luxembourg, Pháp, Hà Lan. Năm 1973,
tăng lên thành gồm 9 quốc gia thành viên. Năm 1981, tăng lên thành 10. Năm
1986, tăng lên thành 12. Năm 1995, tăng lên thành 15. Năm 2004, tăng lên thành
25. Năm 2007 tăng lên thành 27.
2.1.2. Quá trình thành lập
Hiệp ước Paris: Hiệp ước Paris (1951) đưa đến việc thành lập Cộng đồng
Than Thép châu Âu (ECSC).,,
Hiệp ước Roma: Hiệp ước Roma (1957) đưa dến việc thành lập Cộng
đồng Nguyên tử lượng (Euratom) và thành lập Cộng đồng Kinh tế châu Âu
(EEC).

9


10

Hội đồng châu Âu: Từ năm1967 cơ quan điều hành của các cộng đồng
trên được hợp nhất và gọi là Hội đồng châu Âu.
Thị trường chung châu Âu: Năm1987, EU bắt đầu triển khai kế hoạch
xây dựng "Thị trường nội địa thống nhất Châu Âu".

Hiệp ước Maastricht: Hiệp ước Liên hiệp châu Âu, hay còn gọi là Hiệp
ước Maastricht, ký tháng 12 năm 1991 thảo luận tại Maastricht Hà Lan (do sách
lịch sử các nước cung cấp), nhằm mục đích:
- Thành lập liên minh kinh tế và tiền tệ vào cuốithập niên 1990, với một
đơn vị tiền tệ chung và một ngân hàng trung ương độc lập,
- Thành lập một liên minh chính trị bao gồm việc thực hiện một chính
sách đối ngoại và an ninh chung để tiến tới có chính sách phịng thủ chung, tăng
cường hợp tác về cảnh sát và luật pháp.
Hiệp ước này đánh dấu một bước ngoặt trong tiến trình nhất thể hóa châu
Âu.
Liên minh chính trị
- Tất cả các cơng dân của các nước thành viên được quyền tự do đi lại và
cư trú trong lãnh thổ của các nước thành viên.
- Được quyền bầu cử và ứng cử chính quyền địa phương và Nghị viện
châu Âu tại bất kỳ nước thành viên nào mà họ đang cư trú.
- Thực hiện một chính sách đối ngoại và an ninh chung trên cơ sở hợp tác
liên chính phủ với nguyên tắc nhất trí để vẫn bảo đảm chủ quyền quốc gia trên
lĩnh vực này.
- Tăng cường quyền hạn của Nghị viện châu Âu.
- Mở rộng quyền của Cộng đồng trong một số lĩnh vực như môi trường, xã
hội, nghiên cứu...
- Phối hợp các hoạt động tư pháp, thực hiện chính sách chung về nhập cư,
quyền cư trú và thị thực.
Liên minh kinh tế và tiền tệ
10


11

Được chia làm 3 giai đoạn, từ1 tháng 7năm 1990 tới 1 tháng 1 năm 1999,

và kết thúc bằng việc giải tán Viện tiền tệ châu Âu, lập Ngân hàng Trung ương
châu Âu (ECB).
Điều kiện để tham gia vào liên minh kinh tế và tiền tệ (còn gọi là những
tiêu chí hội nhập) là:
- Lạm phát thấp, khơng vượt q 1,5% so với mức trung bình của 3 nước
có mức lạm phát thấp nhất;
- Thâm hụt ngân sách không vượt quá 3% GDP;
- Nợ nhà nước dưới 60% GDP và biên độ giao động tỷ giá giữa các đồng
tiền ổn định trong hai năm theo cơ chế chuyển đổi (ERM);
- Lãi suất (tính theo lãi suất cơng trái thời hạn từ 10 năm trở lên) không
quá 2% so với mức trung bình của 3 nước có lãi suất thấp nhất.
Kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2002 đồng Euro đã chính thức được lưu hành
trong 12 quốc gia thành viên (còn gọi là khu vực đồng Euro) gồm Pháp, Đức,
Áo, Bỉ, Phần Lan, Ireland, Ý, Luxembourg, Hà Lan, Tây Ban Nha và Bồ Đào
Nha; các nước đứng ngoài là Anh, Đan Mạch và Thuỵ Điển. Hiện nay, đồng Euro
đang có tỉ giá hối đối cao hơn đồng đơ la Mỹ.
Hiệp ước Amsterdam: Hiệp ước Amsterdam (còn gọi là Hiệp ước
Maastricht sửa đổi, ký ngày 2 tháng 10 năm 1997 tại Amsterdam) đã có một số
sửa đổi và bổ sung trong một số lĩnh vực chính như:
1. Những quyền cơ bản, không phân biệt đối xử;
2. Tư pháp và đối nội;
3. Chính sách xã hội và việc làm;
4. Chính sách đối ngoại và an ninh chung.
Hiệp ước Schengen: Ngày 19 tháng 6 năm 1990, Hiệp ước Schengen
được thoả thuận xong. Đến ngày 27 tháng 11 năm 1990, 6 nước Pháp, Đức,
Luxembourg, Bỉ, Hà Lan và Ý chính thức ký Hiệp ước Schengen. Hai nước Tây
Ban Nha và Bồ Đào Nha ký ngày 25 tháng 6 năm 1991. Ngày 26 tháng 3 năm
11



12

1995, hiệp ước này mới có hiệu lực tại 7 nước thành viên. Hiệp ước quy định
quyền tự do đi lại của công dân các nước thành viên. Đối với cơng dân nước
ngồi chỉ cần có visa của 1 trong 9 nước trên là được phép đi lại trong toàn bộ
khu vực Schengen. Hiện nay, 14 trong 25 nước thành viên EU đã tham gia khu
vực Schengen (ngoại trừ cảVương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland).
Hiệp ước Nice: Hiệp ước Nice (11 tháng 12 năm 2000) tập trung vào vấn
đề cải cách thể chế để đón nhận các thành viên mới đồng thời tăng cường vai trò
của Nghị viện châu Âu, thành lập Lực lượng phản ứng nhanh (RRF).
Theo luật của EU, Hiệp ước Nice cần được nghị viện của tất cả các nước
thành viên thơng qua mới có hiệu lực. Hiện nay, quá trình này đang được tiến
hành trong các quốc gia thành viên.
2.2. Các cơ quan tổ chức của EU
Eu có 6 cơ quan tổ chức là: Nghị viện Châu Âu, Hội đồng Châu Âu, Uíy
ban Châu Âu, Tòa án Châu Âu, Ủy ban Ngân khố và Thanh tra Châu Âu.
(1) Nghị viện Châu Âu: gồm 626 nghị sĩ, nhiệm kỳ 5 năm, được bầu theo
nguyên tắc phổ thông đầu phiếu. Nghị viện Châu Âu chia sẻ quyền lực với Hội
đồng Châu Âu trong vấn đề lập pháp, vấn đề ngân sách và có ảnh hưởng lớn đến
các chi tiêu của EU. Nghị viện Châu Âu giám sát việc thực hiện các chính sách
của Ủy ban Châu Âu, có quyền tán thành hoặc bãi miễn ủy viên Ủy ban Châu
Âu. Ngoài ra, nghị viện thực thi quyền giám sát mang tính chất định hướng chính
trịđối với tất cả các cơ quan khác thuộc cơ cấu tổ chức của EU.
(2) Hội đồng Châu Âu: Quyết định các vấn đề chủ yếu của EU và cùng
với Nghịviện trong thực thi các vấn đề lập pháp, thu chi ngân sách EU. Phối hợp
các chính sách kinh tế chung trong các nước thành viên và đại diện hợp tác quốc
tế với các tổ chức khác. Có khả năng đua ra các quyết định cần thiết về chính
sách ngoại giao và an ninh theo định hướng được thiết lập có hệ thống và thực
hiện về chính trị các chính sách đối ngoại, hợp tác với các nước trong việc phòng
chống tội phạm....Tùy theo vấn đề nghị sự, Hội đồng sẽ triệu tập các thành viên


12


13

thích hợp như vềngoại giao, tài chính, giáo dục... là đại diện cho các nước thành
viên
(3) Ủy ban Châu Âu:Đặt trụ sở tại Brussel, là cơ quan điều hành chung
gồm 20 ủy viên, nhiệm kỳ 5 năm, do các Chính phủđề cử và chỉ thị bãi miễn với
sự nhất trí của Nghị viện Châu Âu. Uíy ban Châu Âu được xem là cơ quan định
hướng trong hệ thống hiệp hội EU. y ban có quyền soạn thảo các vấn đề pháp
lý và có quyền đề xuất những vấn đề này tới Nghị viện và Hội đồng Châu Âu. Là
một cơ quan thực thi, y ban Châu Âu có trách nhiệm thực thi các vấn đề pháp
lý của EU (hướng dẫn, luật lệ, quyết định nghịđịnh...), các vấn đề về ngân sách
và những chương trình có sự chấp thuận của Nghịviện và Hội đồng Châu Âu.
Cùng với Tòa án Châu Âu, Uíy ban Châu Âu là cơ quan bảo vệ luật pháp cộng
đồng được thi hành hợp pháp. Ngồi ra, y ban Châu Âu còn là đại diện cho
Liên minh Châu Âu trong những thỏa thuận và đàm phán quốc tế, chủ yếu vềhợp
tác và các vấn đề ngoại thương.
(4) Tòa án Châu Âu:Đặt trụ sở tại Luxembourg, gồm 13 thẩm phán và 6
trạng sư, do các Chính phủ thỏa thuận bổ nhiệm, nhiệm kỳ 6 năm. Tịa án có vai
trị độc lập, có quyền bác bỏ những quyết định của các tổ chức của UB Châu Âu
và Chính phủ các nước nếu bị coi là không phù hợp với luật pháp EU.
(5) Ủy ban ngân khố: Giám sát tất cả nguồn thu chi của Liên minh đểđảm
bảo đúng luật và làm lành mạnh tài chính.
(6) Thanh tra Châu Âu: Tất cả các cá nhân, cơ quan, đơn vị kinh doanh và
cưngụ trong khối EU đều chịu sự giám sát và thanh tra của cơ quan này nếu như
họ nhận thấy rằng Liên minh Châu Âu có thể bị phương hại bởi những hoạt động
và quản lý bất hợp pháp.

2.3. Mục tiêu và thành tựu của EU
Các mục tiêu và giá trị là cốt lõi của Liên Minh Châu Âu. Sau nhiều năm mở
rộng, phạm vi này đã dịch chuyển từ kinh tế thuần túy sang một sứ mệnh toàn
diện hơn.
 Thúc đẩy hịa bình và phúc lợi xã hội cho 512,6 triệu công dân.
13


14

 Đem lại sự tự do, an ninh và công bằng xuyên biên giới
 Duy trì phát triển bền vững dựa trên tăng trưởng về kinh tế và ổn định giá
cả, nền kinh tế có sự cạnh tranh cao mang lại nhiều việc làm, tiến bộ xã
hội và bảo vệ mơi trường.
 Kết hợp loại bỏ đói nghèo và phân biệt đối xử.
 Thúc đẩy tiến bộ khoa học và kỹ thuật.
 Tăng cường sự gắn kết kinh tế, xã hội, liên kết lãnh thổ và sự đoàn kết
giữa các quốc gia trong EU.
 Tôn trọng sự đa dạng văn hóa và ngơn ngữ.
 Thành lập một liên minh kinh tế và tiền tệ được sử dụng hiện tại là Euro.
Ta có thể đánh giá những thành tựu mà EU đã đạt được trong thời gian hoạt động
bằng những nét lớn sau đây:
Thứ nhất: 1968 đã xây dựng xong đồng minh thuế quan giữa các nước
hội viên: xóa bỏ tất cả các hình thức hạn chế khối lượng nhập khẩu và từng bước
giảm thuế suất trong quan hệ buôn bán giữa các nước hội viên, điều hòa luật thuế
quan, đưa ra một mức thuế suất chung bằng cách lấy trung bình cộng các mức
thuế quốc gia trước đây.
Thứ hai, thành lập một thị trường nông nghiệp chung dựa trên các nguyên
tắc:
- Thực hiện sự tự do lưu thông sản phẩm

- Thực hiện chính sách ưu đãi cho phát triển nơng nghiệp
- Xây dựng một quỹđịnh hướng và bảo hiểm nông nghiệp Châu Âu.
Thứ ba, cho phép tự do lưu thông cá nhân giữa các nước trong EU.
Thứ tư, đưa ra một chính sách chống độc quyền trong kinh doanh của nội
bộ khối, chẳng hạn điều 85 về chính sách tự do cạnh tranh đã nêu rõ: cấm tất cả
các thỏa thuận gây trở ngại cho sự tự do cạnh tranh nhưđộc quyền ấn định giá cả,
thỏa thuận để phân chia thị trường....

14


15

Thứ năm, xóa bỏ hàng rào hải quan kiểm sốt biên giới giữa các nước
thuộc cộng đồng thực hiện “4 tự do” qua biên giới: con người, hàng hóa, dịch
vụ và tư bản (1993).
Thứ sáu, ngày 01/01/1999 Ngân hàng Trung ương Châu Âu bắt đầu hoạt
động, ngày 4/1/1999 đồng Euro ra đời với tỷ giá là 1ECU=1,178USD; 11 trong
15 nước thành viên EU (Trừ Hy Lạp, Anh, Thụy Điển và Đan Mạch) chính thức
tham gia liên minh kinh tế - tiền tệ (EMU). Theo kế hoạch liên minh EMU, dự
kiến đến năm 2003, đồng tiền chung Euro sẽ được lưu hành rộng rãi trong toàn
bộ các nước EU, những đồng tiền riêng lẻ của từng nước sẽ khơng cịn giá trị.
2.4. Liên minh kinh tế EU
Từ Hiệp ước Rome (tháng 1 năm 1958) đến Hiệp ước Maastricht (tháng
11 năm 1993), châu Âu chuyển dần dần nhưng rõ ràng theo hướng hội nhập kinh
tế chặt chẽ hơn - tức là một "thị trường nội bộ". Bên cạnh việc theo đuổi thị
trường nội khối là nhu cầu ổn định tỷ giá nội khối. Khi hệ thống tỷ giá hối đoái
Bretton Woods được sắp xếp bên ngồi bị phá vỡ, nó được thay thế bằng các thỏa
thuận của châu Âu ('con rắn', và sau đó là EMS). Do những khó khăn, ý tưởng về
một loại tiền tệ duy nhất, được khám phá lần đầu tiên bởi Báo cáo Werner năm

1970, đã bị bỏ rơi.
Tuy nhiên, vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, khi hội
nhập khu vực đạt được những bước tiến quan trọng, ý tưởng này lại xuất hiện.
Chính sách tiền tệ duy nhất được coi là sự bổ sung hợp lý cho nhu cầu về tỷ giá
hối đoái ổn định và cơ chế luân chuyển vốn tự do mới được áp dụng bởi thị
trường nội bộ. Động lực chính trị thuận lợi đến với Wiedervereinigung của Đức.
Trong mắt nhiều người, từ góc độ kinh tế, sự ra mắt của đồng euro và Khu
vực đồng tiền chung châu Âu - rất đơn giản - là một loại ‘quả anh đào trên miếng
bánh thị trường nội bộ’. Cũng vì lý do đó, các khuyến nghị đa dạng về liên minh
kinh tế và tài khóa hấp dẫn hơn, có trong Báo cáo của Delors năm 1989, đã được
đưa ra trong thỏa hiệp ít tham vọng hơn được ký kết tại Maastricht năm 1992.

15


16

Tương tự như vậy, phiên bản 1997 của Hiệp ước Ổn định và Tăng trưởng
đã tỏ ra quá yếu ớt và thậm chí cịn bị hủy hoại vào năm 2003-05. Nhìn chung,
một thất bại tập thể đã xảy ra trong những năm trước khi bùng nổ cuộc khủng
hoảng Khu vực đồng tiền chung châu Âu vào năm 2010. Người ta vẫn chưa hiểu
đầy đủ rằng đồng euro ngụ ý sự ngừng hoạt động trong quá trình hội nhập kinh tế
châu Âu; các mục tiêu cuối cùng của hội nhập châu Âu đã thay đổi một cách rõ
ràng nhưng hấp dẫn và trở nên tham vọng hơn nhiều so với việc hoàn thiện thị
trường nội bộ với một đơn vị tiền tệ và chính sách tiền tệ.
Mặc dù sự hiểu lầm cơ bản này có thể được hiểu là một trong nhiều yếu tố
gốc rễ của cuộc khủng hoảng Khu vực đồng tiền chung châu Âu, nhưng cuộc
khủng hoảng lại đóng vai trò như một chất xúc tác trên thực tế cho sự tăng tốc
đáng kể mà chúng ta đã chứng kiến trong tốc độ cải cách quản trị châu Âu. Một
mốc quan trọng đã đạt được với Báo cáo của Bốn Tổng thống vào tháng 12 năm

2012 (Rompuy và cộng sự 2012), lần đầu tiên công nhận rằng, cùng với liên
minh tiền tệ, quản trị Khu vực đồng tiền chung châu Âu địi hỏi phải theo đuổi
bốn mục tiêu chính, bổ sung: một nền kinh tế hiệu quả hơn công đồn, liên minh
tài chính, liên minh tài chính, cũng như một liên minh chính trị tương xứng. Tuy
nhiên, các quan điểm khác nhau vẫn tồn tại về thành phần của các cơng đồn này
và chiều sâu của chúng.
2.5. Liên minh chính trị EU
Trái ngược với các thực thể liên bang có các hiến pháp làm nền tảng, bản
chất khó xác định của EU có thể là một nguồn sức mạnh. Nó có thể thay đổi hình
dạng, tạo ra các thể chế mới hoặc quyết định sản xuất hàng hóa cơng cộng tập thể
để đáp ứng để thay đổi hoàn cảnh, mà khơng có hành trang của chủ nghĩa liên
bang chính thức. Tuy nhiên, có một nỗ lực vào đầu những năm 2000 để thiết lập
một hiến pháp chính thức cho châu Âu. Sau khi bị từ chối trongcuộc trưng cầu ý
kiến ở Pháp và Hà Lan, một phiên bản có phần nhẹ nhàng hơn đã được đồng ý
trong những gì là bây giờ được gọi là Hiệp ước Lisbon.
Chắc chắn, hội nhập châu Âu đã có những khó khăn và tổn thương, nhiều
người trong số họ được thúc đẩy bởi mối quan hệ không dễ dàng giữa quốc gia
16


17

các quốc gia cấu thành thành viên của nó và siêu quốc gia các tổ chức được thành
lập để cho phép nó hoạt động. Chắc chắn, EU cũng đã phải trải qua một thập kỷ
khó khăn, bắt đầu với cuộc khủng hoảng nợ chính phủ cấp tính, thơng qua việc
khơng thể đưa ra một phản ứng thống nhất làn sóng người tị nạn và người xin tị
nạn (đặc biệt là từ cuộc nội chiến ở Syria) và sự ly khai của Vương quốc Anh, và
kết thúc bằng đại dịch nghiêm trọng. Cũng đã dai dẳng lo ngại về xu hướng trì
hỗn của EU và khơng thể thống nhất về các cải cách trong các lĩnh vực chính
sách trọng điểm.

Đơi khi, EU có thể di chuyển nhanh chóng để tạo ra hàng hóa cơng tập thể
và vượt qua cố thủ kháng chiến. Ví dụ, trong các phản ứng của mình với Covid19, EU tỏ ra là người quyết đoán và sáng tạo, đặc biệt là trong việc đồng ý về
một gói phục hồi kinh tế đáng kể ở cấp siêu quốc gia, bổ sung cho hành động của
các quốc gia riêng lẻ. Tuy nhiên, ngay cả trong trường hợp này, căng thẳng chính
trị đã, ở một số khía cạnh, được tăng cường. Những người đóng góp rịng vào tài
chính của EU đã chống lại việc trả nhiều tiền hơn. Các quốc gia vì lợi ích nhất
phản đối việc áp đặt các điều kiện khó khăn đối với họ, trong khi những được
hưởng lợi nhiều nhất từ các chương trình chi tiêu hiện tại của EU phản đối việc
cắt giảm chúng.
Tuy nhiên, EU khơng ln thành cơng trong việc tìm ra câu trả lời, và đã
có (quá nhiều) các trường hợp trong cuộc tranh luận quanh co về việc hoàn thành
EMU của việc 'đá cái lon xuống đường'. Đề xuất cho Liên minh Ngân hàng - một
trong những lĩnh vực được xác định là cần thiết để cải thiện khả năng phục hồi
của đồng euro - cung cấp một minh họa (Angeloni, 2020). Chúng được nhóm lại
dưới ba tiêu đề: giám sát ngân hàng chung, một cách tiếp cận chung để đối phó
với các ngân hàng thất bại và mộthệ thống bảo hiểm tiền gửi. Trong khi hai cách
đầu tiên được áp dụng tương đối nhanh chóng, bảo hiểm tiền gửi là trong bối
cảnh các Quốc gia Thành viên tiếp tục tranh cãi về cách tốt nhất để dung hòa việc
chia sẻ rủi ro với rủi ro sự giảm bớt.
EU sẽ đi đến đâu tiếp theo là một câu hỏi luôn được đặt ra, được thêm vào
bởi Brexit. Sự ly khai chưa từng có của một Quốc gia Thành viên, mặc dù một
17


18

Quốc gia thành viên thường bị coi là khó xử và khơng nhiệt tình. Ngay cả khi
khơng có Vương quốc Anh, không thể phủ nhận việc ra quyết định đã trở nên
khó sử dụng hơn trong một Liên minh với (hiện tại) 27 thành viên đa dạng hơn
so với những thập kỷ trước và một số ứng cử viên có khả năng tăng tính đa dạng

của nó. Khi Vương quốc Anh mới rời đi gần đây đạt được sự ra mắt nhanh chóng
của Covid-19 vắc xin vào đầu năm 2021, tốc độ chậm hơn ở EU đã thu hút sự
chú ý đến một số thiếu sót trong tập thể hoạch định chính sách và gây ra xích
mích giữa các Quốc gia Thành viên và Ủy ban Châu Âu, đặc biệt là trong một
lĩnh vực chính sách (như y tế) nơi mà công chúng kỳ vọng cao về hành động
nhưng Liên minh năng lực hành động bị hạn chế bởi các quy định của Hiệp ước.
Cũng có những quan điểm khác nhau, một số loại trừ lẫn nhau, về những bước
tiếp theo để liên kếtnên được kiểm chứng, và khi nào hoặc bằng cách nào chúng
có thể được thực hiện. Một lý do cho điều này là sự xâm nhập năng lực của EU
đối với các lĩnh vực nhạy cảm trong chính trị trong nước của các thành viên. Liên
kếttích cực có vị trí của nó, nhưng có thể đụng độ với tính hợp pháp theo những
cách khơng thể đốn trước. Ngay cả trong một dự án cốt lõi của EU như liên
minh tiền tệ, những căng thẳng được xác định bởi Vivien Schmidt (2020) có thể
nhìn thấy ở một số người theo chủ nghĩa dân túy các phong trào ở các nước cho
đến nay rất ủng hộ hội nhập châu Âu.
Các chính sách đối ngoại và vai trị của EU trong điều hành kinh tế toàn
cầu cũng đang được giám sát chặt chẽ. Trên một mặt, EU tiếp tục thể hiện mình
là nhà vơ địch của chủ nghĩa đa phương, người bảo vệ các tổ chức như WTO
hoặc IMF, và là đối thủ của những người theo chủ nghĩa trọng thương, hiếu chiến
hơn chính sách của Mỹ và Trung Quốc. Mặt khác, hồ sơ gần đây của EU là minh
chứng cho một cách tiếp cận mạnh mẽ hơn.
Các hiệp định thương mại tự do với Nhật Bản và Hàn Quốc, và nhiều hiệp
định khác đang trong quá trình thực hiện, thể hiện một sự thay đổi từ (hoặc, có lẽ,
sự thừa nhận rằng thời của họ đã trôi qua) ưa thích các giao dịch nhiều bên. Cụm
từ mơ hồ 'tự chủ chiến lược mở' gần đây đã len lỏi vào từ điển của EU.
2.6.
18


19


CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
3.1. Đánh giá chung về liên kết kinh tế khu vực của EU
Cả việc EU loại bỏ các rào cản thương mại và các biện pháp khác nhau để
thúc đẩy đơn thị trường là các hình thức tự do hóa thị trường - điều mà các học
giả bắt đầu từ Jan Tinbergen (1954) và được xây dựng trong bối cảnh châu Âu
bởi John Pinder (1968) liên quan đến kinh tế học, và bởi Fritz Scharpf (1999) cho
một loạt các chính sách rộng hơn, được gọi là liên kết'tiêu cực'. Hội nhập châu
Âu cũng vừa điều chỉnh và điều tiết thị trường: hội nhập 'tích cực'. Sự hài hịa
của các quy định có thể phá vỡ các rào cản và do đó, khơng nhất thiết là hội nhập
'tiêu cực' mặc dù nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc tạo ra thị trường.
Có thể hấp dẫn khi xem q trình hội nhập ở châu Âu bị chi phối bởi tiêu
cực liên kếtvà thường xảy ra trường hợp liên kếttích cực bị hạn chế bởi nhu cầu
đoàn kết. Mặc dù Nghị viện Châu Âu có xu hướng ủng hộ tích cực hội nhập
nhiều hơn, đạt được nó cũng 'dựa vào mức độ nhất trí cao giữa các chính phủ
thành viên' (Scharpf,1999: 82). Do các sở thích chính sách khác nhau, ơng nói
thêm: 'nó tn theo một số loại chính sách nhất địnhcác vấn đề, giải pháp nào sẽ
khả thi về mặt chính trị trong mỗi Quốc gia Thành viên, khó có thể được giải
quyết một cách hiệu quả ở cấp độ châu Âu '. Dựa trên lý luận của Scharpf, EU sẽ
đấu tranh để đạt được các chính sách phúc lợi chung. Điều này khơng chỉ vì lý do
ngân sách (mặc dù chúng có quy mơ lớn), nhưng cũng do các cách tiếp cận rất
khác biệt ở cấp quốc gia (EspingAndersen, 1990; Begg, Mushưvel và Niblett,
2015).
Nhu cầu duy trì khả năng cạnh tranh trong một thị trường chung, việc rút
ngắn hàng rào bảo vệ có thể làm giảm khả năng của các quốc gia trong việc đưa
ra các giải pháp của riêng mình. Mặc dù, rủi ro khác nhau giữa các lĩnh vực
chính sách, Fritz Scharpf (1999: 83) xác định nguy cơ 'mất khả năng giải quyết
vấn đề chung trong đa cấp. Chính thể châu Âu và do đó, mất tính hợp pháp dân
chủ theo định hướng đầu ra '. Majone (2005: 161) khơng có gì ngạc nhiên khi
trong nhiều 'lĩnh vực chính sách, hội nhập thị trường đã bị hy sinh cho các mối

quan tâm hoặc liên quan đến chính trị. Do đó, các luật về tiền lương tối thiểu,
19


20

thương lượng tập thể, tuyển dụng và sa thải, thời hạn của tuần làm việc, hợp
đồng lao động linh hoạt, bằng cấp và một loạt các các yếu tố khác tiếp tục khác
nhau giữa các quốc gia thành viên '. Nói tóm lại, các giá trị khác nhau ở cấp quốc
gia hạn chế hội nhập xã hội trong EU.
Mặc dù vậy, 'Châu Âu xã hội' như một khía cạnh của hội nhập Châu Âu đã
được thảo luận nhiều về nhiều năm. Liên quan đến thị trường đơn lẻ, một số biện
pháp bao gồm sức khỏe và an toàn tại nơi làm việc là được ban hành bởi vì
chúng có thể được bảo vệ nhất quán với việc san bằng sân chơi. Chiến lược Liên
minh châu Âu và hội nhập kinh tế khu vực về việc làm và loại trừ xã hội đã được
xây dựng. Gần đây hơn, 'Trụ cột Châu Âu của Quyền xã hội 'đã đặt ra một loạt
nguyện vọng cho các cách tiếp cận chính sách chung. Hầu hết, khía cạnh xã hội
của hội nhập châu Âu dựa vào sự phối hợp của các chính sách quốc gia, đúng
hơn là hơn là sự can thiệp của pháp luật, chưa nói đến chi tiêu cơng. Cùng với
quy định và giới hạn của EU ngân sách, điều này tạo thành một phương thức
quản trị thứ ba.
Mặc dù EU vẫn thận trọng về việc tham gia vào các chính sách phân phối,
nhưng các hành động của EU trong hai nhiều lĩnh vực, nông nghiệp và sự gắn
kết, được nhiều người coi là mang tính phân phối. Kể từ giữa những năm 1970,
các chính sách phát triển kinh tế khu vực, được đưa ra vào thời điểm EU mở rộng
đầu tiên, đưa Đan Mạch, Ireland và Vương quốc Anh vào, đã trở nên quan trọng
hơn. Khoảng 3/4 EU chi tiêu công kể từ năm 1988, khi ngân sách được cải cách
sâu rộng, đã hỗ trợ cho nông nghiệp và để phát triển kinh tế vùng.
Những gì hiện được gọi là Chính sách liên kết đã được củng cố vì lo ngại
rằng thị trường đơn lẻ sẽ làm nổi bật sự chênh lệch giữa các vùng (PadoaSchioppa, 1987). Động lực tiếp theo đến từ sự gia nhập của Tây Ban Nha và Bồ

Đào Nha năm 1986 và hơn thế nữa, từ sự gia nhập của các nước trung tâm và
Đông Âu từ năm 2004. Như đã trình bày trong Báo cáo Delors (1989), đưa ra lộ
trình để EMU và được ban hành trong Hiệp ước Maastricht, sự ra đời của đơn vị
tiền tệ duy nhất có khả năng làm nổi bật sự chênh lệch giữa các khu vực, và hậu
quả là làm tăng thêm các yêu cầu về Chính sách gắn kết. Tuy nhiên, ở đó đã
20


21

khơng rõ ràng về loại lợi ích cơng cộng mà chính sách cung cấp. Các tổ chức EU
có xu hướng được coi là một cơng cụ chính sách nhằm thúc đẩy đầu tư cơng và
do đó, theo thuật ngữ của chủ nghĩa liên bang về tài chính, vì có mục đích 'phân
bổ', nhưng nhiều nhà bình luận học thuật khái niệm hóa nó là 'phân phối lại'. Nỗ
lực liên kết chính sách với các ưu tiên của EU trong việc thúc đẩy quốc tế khả
năng cạnh tranh đã dẫn đến những lo ngại về việc làm suy yếu vai trò của nó
trong việc giảm sự khác biệt giữa các khu vực trong Liên minh (Begg, 2010).
Các thông điệp hỗn hợp từ các đánh giá về hiệu quả của chính sách có những khó
khăn này càng làm tăng thêm (Bachtler và cộng sự, 2016).
3.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
3.2.1. Hội nhập kinh tế tồn cầu
Q trình tồn cầu hố và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang diễn ra
nhanh chóng, quyết liệt và trở thành xu thế phát triển không thể đảo ngược của
nền kinh tế thế giới hiện nay. Trong quá trình này, sự liên kết và phụ thuộc lẫn
nhau giữa các nền kinh tế trên thế giới nói chung và các thành phần trong nền
kinh tế của một quốc gia nói riêng đang ngày một gia tăng, được thể hiện ở xu
hướng tăng cường các hoạt động hợp tác song phương, đa phương và các cấp độ
liên kết khu vực. Nhận thức rõ về xu thế phát triển tất yếu nói trên của nền kinh
tế thế giới, Việt Nam đã xác định rõ sự cần thiết phải tham gia hội nhập kinh tế
khu vực và quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang tiếp tục được khẳng

định là một nội dung quan trọng trong công cuộc Đổi mới của Việt Nam và được
thực hiện với quy mô và mức độ ngày càng cao. Từ Đại hội lần thứ VIII, Đảng đã
xác định nhiệm vụ “ mở rộng quan hệ, chủ động tham gia các tổ chức quốc tế và
khu vực, củng cố và nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế. Tư tưởng của
chiến lược phát triển kinh tế – xã hội đất nước đã được Đại hội IX chỉ rõ: “... Xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ phải đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, kết hợp nội lực với ngoại lực
thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước ". Trong quan hệ đối ngoại, Việt
Nam chủ trương: “ Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa
phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ tế. Việt sàng là bạn, là đối tác tin cậy của
21


22

các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hồ bình, độc lập và phát triển ”.
Nghị quyết số 07 – NQ / TW ngày 27/11/2001 của Bộ chính tri ve hội nhập kinh
tế quốc tế - Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định quan điểm “ phát huy cao
độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững ”. Thực hiện đường lối chủ
trương trên, những năm qua nước là đã tích cực, chủ động mở rộng quan hệ đối
ngoại, đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mở rộng mạnh mẽ quan hệ
kinh tế song phương và da phương. Hiện nay, Việt Nam đã có - quan hệ kinh tế –
thương mại với hơn 180 quốc gia và vùng lãnh thổ, đồng thời là thành viên của
nhiều tổ chức, diễn đàn, khuôn khổ hợp tác kinh tế khu vực và quốc tế. Trong
khu vực châu Á, Việt Nam đã và đang tích cực tham gia các cơ chế liên kết hợp
tác kinh tế trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), trong khuôn khổ
hợp tác ASEAN + 3, các cơ chế hợp tác giữa ASEAN với các nước khác, các cơ
chế hợp tác trong Tiểu vùng sông Mêkông, cơ chế hợp tác sông Mêkông - sông
Hàng (MGC), Diễn đàn đối thoại Hợp tác châu Á (ACD), Diễn dàn châu Á Bắc

Ngao và các diễn dàn liên châu lục như Diễn dàn Hợp tác Kinh tế châu Á Thái
Bình Dương (APEC), Hội nghị cấp cao Á - Âu (ASEM), phát triển mối quan hệ
với các tổ chức quốc tế như IMF, WB, ADB.
Thứ nhất, ưu tiên hàng đầu cho việc thực thi hiệu quả các cam kết trong
các FTA và tại các cơ chế hợp tác kinh tế mà chúng ta là thành viên. Việc thực thi
cam kết trong môi trường quốc tế biến động, cạnh tranh gay gắt đặt chúng ta
trước nhiều vấn đề mới, phức tạp có thể phát sinh như tranh chấp thương mại,
đầu tư, công nghệ, các vấn đề liên quan đến lao động, mơi trường…, địi hỏi
chúng ta phải nắm chắc quy định quốc tế và trong nước, phối hợp đồng bộ giữa
các cấp, các ngành, từ trung ương, đến địa phương để xử lý phù hợp và hiệu quả.
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện, mở rộng mạng lưới liên kết, hội nhập kinh tế
song phương và đa phương với các đối tác và tổ chức trên thế giới, đưa Việt Nam
trở thành tâm điểm của liên kết kinh tế tầm toàn cầu, phù hợp với đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa
phương hóa quan hệ đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
22


×