Tải bản đầy đủ (.docx) (461 trang)

GIÁO TRÌNH Những nội dung cơ bản của Chủ Nghĩa Mác Lê Nin 2021

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.68 MB, 461 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

GIÁO TRÌNH
TRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

NỘI DUNG CƠ BẢN
CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN

NHÀ XUẤT BẢN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


Bài 1
TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
A. MỤC TIÊU
1.

Về kiến thức

Cung cấp cho người học kiến thức cơ bản về triết học nói chung, triết học
Mác-Lênin nói riêng, cũng như vai trò của triết học Mác-Lênin trong đời sống
xã hội, qua đó thấy được vai trị của triết học Mác-Lênin trong đời sống xã hội
hiện nay.
2. Về kỹ năng
Biết vận dụng kiến thức đã học để phân biệt chủ nghĩa duy vật với chủ
nghĩa duy tâm, biết vận dụng những kiến thức chung nhất của triết học MácLênin vào nhận thức và hoạt động thực tiễn.
3. Về tư tưởng
Củng cố niềm tin khoa học vào triết học Mác-Lênin, biết đấu tranh chống
lại những quan điểm sai trái phủ nhận vai trò của triết học Mác-Lênin.
B. NỘI DUNG
1. KHÁI


LƯỢC VỀ TRIẾT HỌC

1.1. Triết học là gì
Triết học ra đời khoảng thế kỷ VIII-VI Tr.CN, ở cả Trung Quốc, Ấn Độ và
Hy Lạp cổ đại. Theo gốc từ trong tiếng Hán, triết học là sự truy tìm bản chất của
đối tượng, là sự hiểu biết sâu sắc của con người, đi đến chân lý của sự vật. Theo
người Ấn Độ, triết học là Dárshana, nghĩa là sự chiêm ngưỡng dựa trên lý trí, là
con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải. Theo tiếng Hy Lạp
cổ, thuật ngữ triết học được kết hợp từ hai từ: “philos - tình u” và “sophia
- sự thơng thái”. Theo nghĩa đen, triết học là tình yêu đối với sự thông thái. Như
vậy, dù ở phương Đông hay phương Tây, ngay từ khi mới ra đời, thì triết học
đều được coi là đỉnh cao của trí tuệ, là sự nhận thức sâu sắc về thế giới, đi sâu
nắm bắt được chân lý, quy luật, bản chất của sự vật. Khác với thần thoại chủ yếu
là những quan niệm tưởng tượng hoang đường về thế giới; khác với tôn giáo là
2


sự phản ánh thế giới một cách hư ảo, triết học phản ánh thế giới một cách chỉnh
thể, nghiên cứu những vấn đề chung nhất, những quy luật chung nhất của thế
giới như một chỉnh thể này và thể hiện chúng một cách có hệ thống dưới dạng lý
luận. Do vậy, có thể hiểu triết học là hệ thống các quan điểm lý luận chung nhất
về thế giới như một chỉnh thể, về con người, tư duy của con người cũng như vị
trí của con người trong thế giới đó.
1.2. Nguồn gốc ra đời của triết học
Triết học ra đời do hai nguồn gốc là nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc
xã hội.
Nguồn gốc nhận thức
Triết học ra đời khi bộ óc con người phát triển, đạt đến trình độ có thể
khái quá hóa, trừu tượng hóa các sự vật, hiện tượng của thế giới xung quanh
bằng các khái niệm, phạm trù, nguyên lý. Bởi lẽ, tư duy triết học là tư duy bằng

khái niệm, phạm trù, nguyên lý. Khi con người chưa thể khái quát hóa, trừu
tượng hóa sự vật, hiện tượng bằng các khái niệm, phạm trù, nguyên lý thì chưa
thể có triết học. Q trình nhận thức thế giới bên ngồi, q trình thâm nhập vào
bản chất các sự vật được thể hiện trong việc con người nhờ tư duy trừu tượng
mà hình thành các khái niệm, các phạm trù triết học.
Nguồn gốc xã hội
Triết học chỉ ra đời khi trong xã hội có sự phân cơng lao động xã hội, đã
có sự tách lao động trí óc ra khỏi lao động chân tay. Trên cơ sở đó hình thành
tầng lớp trí thức, trong đó có các nhà triết học, những người chun lao động trí
óc, làm cơng việc sáng tạo tri thức, khái qt q trình nhận thức của mình về
thế giới.
1.3. Vấn đề cơ bản của triết học
Trong tác phẩm Lút-vích Phoi-ơ-bắc và sự cáo chung của triết học cổ
điển Đức, Ph.Ăngghen đã nêu: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là
của triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại” 1. Mối quan hệ
giữa tư duy với tồn tại được biểu hiện cụ thể ra thành mối quan hệ giữa vật chất
1

C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, t.21, tr.403.


với ý thức. Mối quan hệ này được coi là vấn đề cơ bản của triết học bởi lẽ: Thứ
nhất, nó ra đời cùng sự ra đời của triết học và tồn tại cùng sự tồn tại của triết học
suốt từ khi ra đời cho đến nay. Thứ hai, trên cơ sở giải quyết vấn đề cơ bản này
như thế nào sẽ quy định lập trường của các trường phái triết học và việc giải
quyết những vấn đề triết học còn lại. Điều này đã được lịch sử phát triển của
triết học chứng minh.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt: Mặt thứ nhất, trả lời cho câu hỏi
giữa vật chất và ý thức, cái nào có trước, cái nào có sau và cái nào quyết định cái
nào? Đây là câu hỏi về mặt bản thể - nguồn gốc ban đầu của thế giới và được gọi

là vấn đề bản thể. Lý luận về vấn đề này được gọi là bản thể luận.
Mặt thứ hai, trả lời cho câu hỏi tư duy của con người có phản ánh được
tồn tại hay khơng? Ý thức có phản ánh được vật chất hay khơng? Con người có
khả năng nhận thức được thế giới hay không? Đây là câu hỏi về mặt nhận thức
và lý luận về vấn đề này được gọi là nhận thức luận.
1.4. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
Việc giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học đã chia các nhà
triết học thành các trường phái triết học khác nhau. Trong lịch sử triết học, dựa
trên việc giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học đã hình thành hai
trường phái triết học lớn là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Chủ nghĩa duy vật và các hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật trong
lịch sử.
Các nhà triết học cho rằng, tồn tại (vật chất) có trước tư duy (ý thức) và
quyết định tư duy (ý thức) của con người được gọi là các nhà duy vật. Học
thuyết của họ hợp thành chủ nghĩa duy vật. Chủ nghĩa duy vật xuất hiện ngay từ
thời cổ đại, từ khi triết học mới bắt đầu xuất hiện. Từ đó đến nay, nó đã trải qua
ba hình thức cơ bản sau:
Thứ nhất, chủ nghĩa duy cổ đại. Đây là hình thức đầu tiên của chủ nghĩa
duy vật và cịn mang tính chất tự phát, chất phác, ngây thơ. Quan điểm của chủ
nghĩa duy vật thời kỳ này nhìn chung là đúng đắn nhưng do khoa học thời kỳ
này chưa phát triển nên chủ yếu dựa vào quan sát trực tiếp.


Thứ hai, chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ XVII - XVIII. Thời kỳ này cơ
học phát triển mạnh mẽ và đã ảnh hưởng nhiều đến các nhà duy vật khiến cho
quan điểm duy vật của họ còn siêu hình, máy móc. Các nhà duy vật siêu hình
xem xét giới tự nhiên và con người chỉ như những cỗ máy cơ học khác nhau mà
thôi. Hơn nữa, họ không thấy giữa các sự vật, hiện tượng trong thế giới có mối
quan hệ tác động, ảnh hưởng, chuyển hóa lẫn nhau.
Thứ ba, chủ nghĩa duy vật biện chứng do C.Mác, Ph.Ăngghen sáng lập

vào những năm 40 của thế kỷ XIX và V.I.Lênin bổ sung, phát triển xuất sắc vào
cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Chủ nghĩa duy vật biện chứng của C.Mác,
Ph.Ăngghen có sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật và phương pháp
biện chứng. Nó khơng chỉ duy vật trong giải thích thế giới tự nhiên mà cịn duy
vật trong giải thích cả đời sống xã hội.
Ngồi các hình thức cơ bản trên đây, trong lịch sử phát triển của chủ nghĩa
duy vật còn có chủ nghĩa duy vật tầm thường như Buykhơnơ, Mơlétsốt… khơng
thấy vai trị của ý thức đối với vật chất và chủ nghĩa duy vật kinh tế xuất hiện
vào cuối thế kỷ XIX, coi kinh tế là cái duy nhất quyết định sự phát triển xã hội,
như Bécgten người Đức, Pecơrốpxki người Nga,v.v..
Chủ nghĩa duy tâm và các hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy tâm trong
lịch sử.
Những nhà triết học cho tư duy (ý thức) có trước tồn tại (vật chất) và
quyết định tồn tại (vật chất) thuộc chủ nghĩa duy tâm. Chủ nghĩa duy tâm cũng
xuất hiện ngay từ thời cổ đại và tồn tại dưới hai dạng chủ yếu: chủ nghĩa duy
tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan.
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng ý thức chủ quan ở trong đầu óc con
người là nguồn gốc của mọi sự vật, hiện tượng. Đại biểu tiêu biểu là Bécơcli,
Hium, Phíchtơ, Makhơ,v.v.. Chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng ý thức của
các lực lượng siêu nhiên như tinh thần thế giới, ý niệm tuyệt đối, v.v.. ở ngoài
con người là nguồn gốc của mọi sự vật, hiện tượng, tiêu biểu như Platôn, Hê
ghen,v.v..


Tuy có sự khác nhau trong quan niệm cụ thể về tư duy (ý thức), nhưng cả
hai hình thức của chủ nghĩa duy tâm đều thống nhất với nhau ở chỗ coi ý thức,
tinh thần là cái có trước tồn tại, vật chất, là cải sản sinh ra tồn tại, vật chất và
quyết định tồn tại, vật chất.
Trong lịch sử triết học luôn luôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa duy tâm với tính cách là hai đảng phái chính trong triết

học. Cuộc đấu tranh đó tạo nên động lực bên trong cho sự phát triển của tư duy
triết học, đồng thời, cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
cũng biểu hiện bằng cách này hay cách khác cuộc đấu tranh hệ tư tưởng của các
giai cấp đối địch trong xã hội.
1.5. Thuyết khả tri và bất khả tri
Cách giải quyết mặt thứ hai của vấn đề cơ bản của triết học phân chia các
học thuyết triết học thành học thuyết khả tri (có thể biết) và học thuyết bất khả
tri (không thể biết). Thuyết khả tri, khẳng định con người có thể nhận thức được
thế giới. Ph.Ăngghen cho rằng, đối với câu hỏi “Con người có nhận thức được
thế giới không?” phần lớn các nhà triết học thừa nhận con người có thể nhận
thức được thế giới. Tuy nhiên trong lịch sử triết học cũng có một số nhà triết học
cho rằng con người không thể hiểu biết được thế giới hay ít ra cũng khơng thể
nhận thức được bản chất của nó. Học thuyết của họ được gọi là thuyết không thể
biết. Đại biểu tiêu biểu: Hium (nhà triết học Anh), Cantơ (nhà triết học Đức).
Theo Hium, con người không thể biết được sự vật là như thế nào và khơng thể
biết được nó tồn tại ra sao. Cịn Cantơ cho rằng, có tồn tại “vật tự nó” - thừa
nhận có một thế giới sự vật tồn tại nhưng con người không thể nhận thức được
bản chất của “vật tự nó” mà chỉ nhận thức được những hiện tượng bên ngồi của
nó mà thơi. Thuyết khơng thể biết đã bị Ph.Ăngghen phê phán: “Sự bác bỏ một
cách hết sức đanh thép những sự vặn vẹo triết học ấy, cũng như tất cả những triết
học khác, là thực tiễn, chính là thực nghiệm và cơng nghiệp. Nếu chúng ta có thể
chứng minh được tính chính xác của quan điểm của chúng ta về một hiện tượng
tự nhiên nào đó, bằng cách tự chúng ta làm ra hiện tượng ấy, bằng cách tạo ra nó
từ những điều kiện của nó, và hơn nữa, cịn bắt nó phải phục vụ mục


đích của chúng ta, thì sẽ khơng cịn có cái “vật tự nó” khơng thể nắm được của
Cantơ nữa”2. Nhận thức của con người bị hạn chế bởi thực tiễn, bởi những điều
kiện lịch sử - xã hội cụ thể, nên không thể nhận thức đầy đủ, đúng đắn về sự vật
trong thời gian nhất định. Hơn nữa, mỗi sự vật, hiện tượng có vơ vàn thuộc tính

nên nhận thức phải đi từ bản chất cấp một đến bản chất cấp hai, từ bản chất cấp
hai đến bản chất cấp ba … đến cấp n. Nhưng nếu từ đó đi tới phủ nhận khả năng
nhận thức thế giới của con người là sai lầm.
1.6. Biện chứng và siêu hình
Trong triết học có hai phương pháp nhận thức đối lập nhau là phương
pháp biện chứng và phương pháp siêu hình.
Phương pháp siêu hình xem xét sự vật, hiện tượng trong trạng thái cô lập,
tĩnh tại, bất biến, đứng im, nghĩa là, “chỉ nhìn thấy những vật riêng biệt mà
khơng nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa những vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại
của những vật ấy mà khơng nhìn thấy sự phát sinh và sự tiêu vong của những sự
vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những sự vật ấy mà quên mất sự vận
động của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy cây mà khơng thấy rừng”3.
Ngược lại, phương pháp biện chứng xem xét sự vật, hiện tượng trong mối
liên hệ, vận động, biến đổi, phát triển, tức không chỉ thấy sự tồn tại của sự vật
mà còn thấy cả sự sinh thành và tiêu vong của sự vật, khơng chỉ nhìn thấy trạng
thái tĩnh của sự vật mà còn thấy cả trạng thái động của sự vật. Như vậy, phương
pháp biện chứng là phương pháp xem xét sự vật trong mối liên hệ ràng buộc lẫn
nhau, trong trạng thái vận động, biến đổi không ngừng với một tư duy mềm dẻo,
linh hoạt, "không chỉ nhìn thấy những sự vật cá biệt mà cịn thấy cả mối liên hệ
giữa chúng, khơng chỉ nhìn thấy sự tồn tại của sự vật mà còn thấy cả sự sinh
thành và tiêu vong của sự vật, khơng chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh… mà còn thấy
cả trạng thái động của sự vật, khơng chỉ thấy cây mà cịn thấy cả rừng". Do đó,
phương pháp biện chứng là phương pháp khoa học, mềm dẻo, linh hoạt, cho
phép con người phản ánh đúng bản chất của sự vật, hiện tượng.
2
3

C.Mác và Ph.Ăngghen: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1995, t. 21, tr. 406.
C.Mác và Ph.Ăngghen: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1994, t.20, tr. 37.



Các hình thức cơ bản của phép biện chứng trong lịch sử
Thứ nhất, phép biện chứng tự phát thời cổ đại là hình thức đầu tiên của
phép biện chứng trong lịch sử triết học. Tiêu biểu cho tư tưởng biện chứng của
triết học Trung Quốc là thuyết âm - dương và “ngũ hành luận” (học thuyết về
những nguyên tắc tương tác, biến đổi của các yếu tố bản thể trong vũ trụ). Trong
triết học Ấn Độ, tư tưởng biện chứng biểu hiện rõ nét nhất là ở triết học Phật
Giáo với các phạm trù “vô ngã”, “vô thường”, “nhân duyên tương lục”. Đặc
biệt, trong nhiều học thuyết của triết học Hy Lạp cổ đại, các nhà tư tưởng đã
thấy rằng, các sự vật của thế giới xung quanh ta có mối liên hệ và tác động qua
lại lẫn nhau, làm cho mọi sự vật, hiện tượng ln trong q trình vận động, biến
hóa, sinh thành và tiêu vong. Nhìn chung, do chưa đạt đến trình độ đi sâu phân
tích thế giới nên các nhà biện chứng cổ đại nói chung chưa chỉ ra được nguồn
gốc, bản chất của mối liên hệ, sự vận động và biến đổi của mọi sự vật, hiện
tượng. Cách xem xét thế giới như vậy, theo Ph.Ăngghen cịn mang tính ngây
thơ, chất phác. Vì vậy, phép biện chứng thời cổ đại còn hạn chế.
Thứ hai, phép biện chứng duy tâm của Hêghen. Hêghen cho rằng, có tồn
tại “ý niệm tuyệt đối” hay “tinh thần thế giới” ln trong q trình vận động,
biến đổi, phát triển. Trong quá trình phát triển ấy, ý niệm tuyệt đối “tự tha hóa”,
chuyển hóa thành giới tự nhiên và sau đó lại “tha hóa” trở về với bản thân mình
dưới dạng tinh thần. Hêghen đã xây dựng phép biện chứng của thế giới bên
ngoài, nhưng thế giới này là do “ý niệm tuyệt đối” tha hóa mà thành. Vì vậy, ở
Hêghen sự phát triển biện chứng của thế giới bên ngoài chỉ là sự sao chép lại
quá trình vận động của “ý niệm tuyệt đối” mà thôi và phép biện chứng của ông
là phép biện chứng duy tâm.
Thứ ba, phép biện chứng duy vật do C.Mác, Ph.Ăngghen sáng lập và
V.I.Lênin bổ sung, phát triển. Phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác –
Lênin được xác lập trên nền tảng của thế giới quan duy vật biện chứng và có sự
thống nhất giữa nội dung thế giới quan (duy vật biện chứng) và phương pháp
luận (biện chứng duy vật), vì vậy nó khơng chỉ giải thích thế giới mà cịn là cơng

cụ để cải tạo thế giới. Nói khác đi, phép biện chứng duy vật có sự thống nhất


giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng, giữa lý luận khoa
học và thực tiễn.
2.

TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VÀ VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC MÁCLÊNIN TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI

2.1. Khái lược sự ra đời và phát triển của triết học Mác-Lênin
2.1.1. Những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội
Chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng ra đời vào những năm
40 của thế kỷ XIX. Lúc bấy giờ, chủ nghĩa tư bản ở châu Âu đang trên đà phát
triển mạnh mẽ. Anh và Pháp cơ bản đã hồn thành cách mạng cơng nghiệp.
Nước Đức, mặc dù còn là nước quân chủ phong kiến nhưng có bước phát triển
vượt bậc về kinh tế, nhất là trong lĩnh vực cơng nghiệp. Chính sự phát triển
mạnh mẽ về kinh tế của chủ nghĩa tư bản đã làm bộc lộ những mâu thuẫn vốn có
của nó, đặt ra những vấn đề đòi hỏi các nhà tư tưởng của thời đại phải trả lời.
Trong đó, có cách trả lời, tiếp cận của C.Mác và Ph.Ăngghen.
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa đã tạo ra
những điều kiện vật chất, kỹ thuật cho việc thực hiện những lý tưởng của chủ
nghĩa xã hội, làm cơ sở khắc phục tính khơng tưởng của những tư tưởng xã hội
chủ nghĩa khơng tưởng trước đó, thúc đẩy sự ra đời của triết học Mác.
Sự phát triển mạnh mẽ của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã làm
cho giai cấp vô sản phát triển không chỉ về số lượng mà cả về chất lượng. Trong
những năm 30 - 40 của thế kỷ XIX, ở Anh, Pháp, Đức đã nổ ra nhiều cuộc đấu
tranh quy mô lớn, có tính chất giai cấp như phong trào Hiến chương ở Anh (vào
những năm 30); khởi nghĩa của công nhân ở thành phố Lyông của Pháp (1831,
1834); khởi nghĩa của công nhân ở thành phố Xilêdi của Đức 91844),v.v..
Những cuộc đấu tranh này của giai cấp cơng nhân địi hỏi phải có một lý luận

khoa học, cách mạng dẫn đường. Trong khi ấy, nhiều trào lưu tư tưởng phi khoa
học như chủ nghĩa xã hội “chân chính” lại tìm cách len lỏi vào phong trào công
nhân. Đã vậy, vào thời điểm này giai cấp tư sản đã bộc lộ tính chất phản động về
mặt lịch sử, khơng cịn là đại diện cho sự tiến bộ của lịch sử nữa. Chính những


điều này thúc đẩy cho sự ra đời của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói
riêng.
2.1.2. Tiền đề khoa học
Cuối thế kỷ XIX khoa học tự nhiên đã có bước phát triển vượt bậc về
chất, chuyển từ trình độ thực nghiệm lên trình độ lý luận. Nhiều phát minh khoa
học mang tính vạch thời đại xuất hiện, đặc biệt là Định luật bảo tồn và chuyển
hóa năng lượng của G.R.Mayơ (1814-1878); Thuyết tiến hóa của S.R.Đácuyn
(1809-1882); Thuyết tế bào của M.G.Sleđen (1804-1892) và T.Svanơ (18101882). Những phát minh khoa học này khơng chỉ làm bộc lộ rõ tính hạn chế của
phương pháp tư duy siêu hình trong nhận thức thế giới, mà còn tạo ra cơ sở khoa
học để khắc phục phương pháp tư duy siêu hình. Đồng thời, chúng cũng cung
cấp những cơ sở khoa học cho phương pháp tư duy biện chứng và quan niệm
duy vật biện chứng về tự nhiên, xã hội ra đời, phát triển.
Đánh giá về vai trò, ý nghĩa của những phát minh khoa học thời kỳ này
đối với sự hình thành phương pháp tư duy biện chứng, Ph.Ăngghen viết: “Quan
niệm mới về giới tự nhiên đã được hoàn thành trên những nét cơ bản: tất cả cái
gì cứng nhắc đều bị tan ra, tất cả cái gì là cố định đều biến thành mây khói;... và
người ta đã chứng minh rằng toàn bộ giới tự nhiên đều vận động theo một dịng
và một tuần hồn vĩnh cửu” 4. Những phát minh khoa học tự nhiên này đã là
những cơ sở, tiền đề khoa học trực tiếp cho sự ra đời chủ nghĩa Mác nói chung,
thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng duy vật của triết học Mác nói
riêng.
2.1.3. Tiền đề lý luận
Học thuyết của C.Mác “ra đời là sự thừa kế thẳng và trực tiếp những học
thuyết của những đại biểu xuất sắc nhất trong triết học, trong kinh tế chính trị

học và trong chủ nghĩa xã hội”5. Trong đó, triết học Mác ra đời là sự kế thừa
toàn bộ thành tựu lịch sử tư tưởng triết học nhân loại, nhưng trực tiếp nhất là
triết học cổ điển Đức.
4
5

C.Mác và Ph.Ăngghen: Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2002, t.20, tr.471.
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, M.1980, t.23, tr.49-50.


Với triết học của Hêghen, C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa tư tưởng
biện chứng, đồng thời gạt bỏ cái vỏ duy tâm, thần bí của phép biện chứng ấy và
đặt phép biện chứng ấy trên nền thế giới quan duy vật. Cịn thế giới quan duy
vật được ơng và Ph.Ăngghen làm giàu bằng phương pháp biện chứng. Chính
C.Mác đã khẳng định: “Phương pháp biện chứng của tôi không những khác
phương pháp của Hêghen về cơ bản, mà còn đối lập hẳn với phương pháp ấy
nữa”6.
C.Mác và Ph.Ăngghen cũng kế thừa những giá trị trong triết học duy vật
nhân bản của Phoiơbắc, vận dụng chủ nghĩa duy vật này để khắc phục chủ nghĩa
duy tâm của Hêghen. Đồng thời, C.Mác và Ph.Ăngghen đã cải tạo chủ nghĩa
duy vật của Phoiơbắc, khắc phục tính chất siêu hình, máy móc, trực quan, khơng
triệt để của nó. Trên cơ sở đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã làm giàu chủ nghĩa duy
vật bằng phép biện chứng, cịn phép biện chứng được hai ơng đặt trên nền thế
giới quan duy vật. Cả chủ nghĩa duy vật, cả phép biện chứng đều được C.Mác và
Ph.Ăngghen phát triển lên một trình độ mới về chất so với trước đó. Trong triết
học Mác, chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng, còn phép biện
chứng là phép biện chứng duy vật. Không những vậy, chủ nghĩa duy vật của
C.Mác và Ph.Ăngghen còn là chủ nghĩa duy vật triệt để so với chủ nghĩa duy vật
không triệt để của Phoiơbắc. Chủ nghĩa duy vật của C.Mác và Ph.Ăngghen đã
giải thích một cách duy vật khơng chỉ thế giới tự nhiên mà cả xã hội, lịch sử loài

người.
Ngoài ra, C.Mác và Ph.Ăngghen kế thừa có chọn lọc tư tưởng kinh tế
chính trị hợp lý của A.Xmít và Đ.Ricácđơ; tư tưởng chủ nghĩa xã hội khơng
tưởng của XanhXimơng, S.Phuriê và R.Ơoen để xây dựng nên những tư tưởng
triết học duy vật biện chứng của mình.
2.1.4. Nhân tố chủ quan của C.Mác và Ph.Ăngghen
Triết học Mác ra đời ngoài những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, tiền
đề khoa học và tiền đề lý luận cịn có những điều kiện chủ quan. Đó là những
nhân tố thuộc về cá nhân của C.Mác và Ph.Ăngghen.
6

C.Mác và Ph.Ăngghen: Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2002, t.23, tr.35.


Các Mác (5.5.1818 - 14.3.1883), tên đầy đủ Karl Henrich Marx sinh tại
Triơ (Trier), tỉnh Ranh nước Đức trong một gia đình lao động. Ngay từ nhỏ
C.Mác đã nhận được sự giáo dục tốt từ gia đình và chịu ảnh hưởng sâu sắc tinh
thần nhân đạo, yêu thương con người, yêu tự do, niềm say mê nghiên cứu khoa
học. Lớn lên ông chịu ảnh hưởng tư tưởng dân chủ cách mạng của cuộc cách
mạng tư sản Pháp 1789 và sớm có ước mơ giải phóng con người khỏi mọi hình
thức nơ dịch, áp bức, bất cơng. Ơng tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Béclin ngành
triết học và được công nhận tiến sĩ triết học năm 1841 bằng cơng trình tự nghiên
cứu của mình. Những đức tính, phẩm chất, tố chất ấy đã góp phần quan trọng
trong việc hình thành nên học thuyết triết học duy vật, biện chứng, nhân đạo vĩ
đại mang tên C.Mác.
Phridrich Ăngghen (Fridric Engels), sinh 28.11.1820 tại Bácmen nước
Đức, mất ngày 5 tháng 8 năm 1895 tại Ln Đơn nước Anh. Ph.Ăngghen sinh
ra trong một gia đình chủ xưởng dệt. Ơng khơng có cơ hội tốt nghiệp trung học
vì gia đình bắt phải học nghề kinh doanh từ rất sớm và phải tham gia thực hiện
nghĩa vụ quân sự. Tuy nhiên, ông là người thông minh, chăm chỉ, cần cù tự học

và tích cực nghe dự thính các bài giảng của các giáo sư triết học đương thời.
Cũng giống C.Mác ơng có tố chất thơng minh và rất yêu thương người lao động,
từ nhỏ ông đã căm ghét sự chuyên chế, độc đoán nhà nước phong kiến Phổ. Ơng
có cơ hội tham gia phong trào Hiến chương, làm việc, tiếp xúc với đời sống giai
cấp công nhân Anh. Điều này đã giúp Ph.Ăngghen sớm nhận ra tính chất thần bí
của triết học Hêghen; hiểu, thơng cảm với cuộc sống vất vả của những người
cơng nhân. Cũng chính sự tham gia vào đời sống công nhân đã làm nảy sinh tinh
thần dân chủ cách mạng, tư tưởng vô thần, tình u thương, sự đồng cảm với
người cơng nhân và mong muốn giải phóng cơng nhân khỏi nơ dịch, áp bức, bóc
lột.
Chính tình u thương những người cơng nhân, những người lao động,
tinh thần hy sinh không mệt mỏi vì sự nghiệp giải phóng những người lao động,
niềm tin sâu sắc vào lý tưởng cách mạng của giai cấp cơng nhân, cùng sự thơng
minh, trí tuệ un bác của C.Mác và Ph.Ăngghen là những nhân tố chủ quan


đóng vai trị quan trọng nhất cho sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa Mác
nói chung, triết học Mác nói riêng.
2.2. V.I.Lênin phát triển triết học Mác
2.2.1. Hồn cảnh V.I.Lênin phát triển triết học Mác
Về điều kiện chính trị-xã hội, vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX, chủ nghĩa tư bản phát triển, chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa,
nhưng bản chất bóc lột, ăn bám của chúng không đổi. Mâu thuẫn giữa giai cấp
tư sản và vô sản càng gay gắt. Các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân Nga
nổ ra nhiều hơn, đặc biệt là cách mạng dân chủ tư sản (1905-1907); cách mạng
tư sản tháng Hai 1917 và đỉnh cao là cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười
1917. Lúc bấy giờ, chủ nghĩa Mác được truyền bá rộng rãi ở Nga, nhưng xuất
hiện đủ các loại trào lưu tư tưởng phản động như chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán; chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa dân túy... muốn thay thế
chủ nghĩa Mác.

Về khoa học tự nhiên, cuối XIX đầu XX đạt được những thành tựu mới,
đặc biệt là vật lý học, đi sâu nghiên cứu thế giới vi mô, phát hiện ra các dạng vật
chất mới như các tia, các hạt, trường, sóng,v.v.. Những phát minh của vật lý này
đã làm cho quan niệm siêu hình đồng nhất vật chất với ngun tử khơng cịn
căn cứ khoa học nữa.Trong bối cảnh ấy, một số nhà khoa học tự nhiên đã cho
rằng “vật chất biến mất, vật chát tiêu tan”, rơi vào duy tâm, tạo ra cuộc khủng
hoảng trong vật lý học. Tất cả những điều kiện này đã thôi thúc V.I.Lênin bổ
sung và phát triển chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng.
2.2.2. Những nội dung chủ yếu V.I.Lênin bổ sung, phát triển triết học
Mác
V.I.Lênin đóng góp vào triêt học Mác, có thể chia làm ba thời kỳ, đáp ứng
ba nhu cầu cơ bản của thực tiễn: thời kỳ từ 1893 - 1907; thời kỳ từ 1907 - 1917;
thời kỳ sau cách mạng Tháng Mười.
Thời kỳ đầu 1893- 1907 là những năm V.I.Lênin tập trung chống phái dân
túy Nga, vạch trần bản chất tư sản, phản động của phái dân túy Nga, bảo vệ lý
luận hình thái kinh tế-xã hội của Mác.


Thời kỳ những năm 1907 - 1917, V.I.Lênin đấu tranh chống chủ nghĩa
duy tâm chủ quan của phái Makhơ, đưa ra định nghĩa nổi tiếng về vật chất cùng
các nguyên tắc của lý luận nhận thức duy vật biện chứng, đồng thời kiên quyết
đấu tranh chống lại chủ nghĩa cơ hội, xét lại.
Thời kỳ sau cách mạng Tháng Mười (1917), V.I.Lênin tiếp tục đấu tranh
chống bệnh ấu trĩ “tả khuynh” cùng các trào lưu tư tưởng sai lầm khác; bàn về
những vấn đề biện chứng của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực;
thực hiện chính sách kinh tế mới; về bản chất chủ nghĩa đế quốc; về nhà nước và
cách mạng; v.v.. Chính những đóng góp to lớn của V.I.Lênin vào sự phát triển lý
luận của triết học Mác mà một giai đoạn mới trong sự phát triển của triết học
Mác được gắn với tên tuổi của Người, đó là triết học Mác-Lênin.
3.


HỘI

VAI TRỊ CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN TRONG ĐỜI SỐNG XÃ

3.1. Vai trò thế giới quan và phương pháp luận
Vai trò thế giới quan
Thế giới quan, theo nghĩa hẹp, là quan niệm hay hệ thống quan niệm của

con người về thế giới. Quan niệm hay hệ thống quan niệm này cũng không phải
nhất thành bất biến mà nó thay đổi theo điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể, phụ
thuộc vào trình độ nhận thức và hoạt động cải tạo thế giới của con người. Nhưng
thế giới quan không tách rời con người. Bởi vậy, theo nghĩa rộng, thế giới quan
là hệ thống những quan niệm của con người về thế giới; về vị trí của con người
trong thế giới đó, về chính bản thân cuộc sống của con người và loài người trong
mỗi giai đoạn lịch sử nhất định.
Thế giới quan đóng vai trị đặc biệt quan trọng trong cuộc sống con người
và xã hội loài người. Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan, nghĩa là triết
học quan niệm về thế giới bằng hệ thống lý luận của mình. Thế giới quan triết
học Mác-Lênin có quan niệm duy vật, biện chứng, khoa học về thế giới, về lịch
sử, xã hội và về tư duy của con người. Do vậy, thế giới quan triết học MácLênin có vai trị định hướng đúng đắn cho hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn của con người. Nghĩa là, trên cơ sở quan niệm của thế giới quan triết


học Mác-Lênin về thế giới này mà con người sẽ định hướng đúng đắn cho hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn của mình. Chẳng hạn, nếu một người có
quan niệm duy vật biện chứng về thế giới thì trong nhận thức cũng như hoạt
động thực tiễn, anh ta sẽ hành động theo tinh thần duy vật, biện chứng. Ngược
lại, nếu anh ta có thế giới quan duy tâm về thế giới thì trong nhận thức và hoạt
động thực tiễn, anh ta sẽ thực hiện theo tinh thần duy tâm. Trong triết học có hai

thế giới quan cơ bản đối lập nhau là thế giới quan duy vật và thế giới quan duy
tâm. Thế giới quan triết học Mác-Lênin là đỉnh cao của thế giới quan duy vật và
tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực, đúng đắn.
Vai trị phương pháp luận
Phương pháp có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động của con người, làm
tăng hiệu quả hoạt động của con người, làm cho hoạt động của con người mang
tính sáng tạo, tích cực, tự giác và hiệu quả.
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng phương pháp là những nguyên tắc do lý trí
con người tự ý đặt ra để tiện cho nhận thức và hoạt động thực tiễn. Theo quan
niệm này, phương pháp là phạm trù thuần tuý chủ quan, không phụ thuộc vào
đối tượng nhận thức và đối tượng tác động của con người.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định phương pháp dù là những
nguyên tắc do con người đặt ra và dùng để điều chỉnh hoạt động của mình nhằm
đạt mục đích nhất định, nhưng khơng phải đặt ra một cách hồn tồn chủ quan,
tuỳ tiện, cũng không phải là những nguyên tắc có sẵn bất biến. Phương pháp phụ
thuộc vào đối tượng nghiên cứu và đối tượng tác động, phụ thuộc vào mục đích
đặt ra của chủ thể. Đối tượng tác động và mục đích của con người khơng phải do
con người tạo ra theo ý muốn chủ quan thuần tuý của mình. Muốn tiếp cận đối
tượng và giải quyết nhiệm vụ đặt ra, chủ thể phải nghiên cứu đối tượng và mục
đích cần đạt tới một cách khách quan. Nghĩa là phải vạch rõ đối tượng có tính
chất gì, các yếu tố cấu thành nên đối tượng, giới hạn tồn tại của đối tượng là gì,
v.v.. Từ đó chủ thể nhận thức rõ những quy luật tồn tại và biến đổi của đối
tượng. Chỉ trên cơ sở đó chủ thể mới xác định được phải nghiên cứu và hành
động như thế nào và cần phải sử dụng những phương tiện, công cụ và biện pháp


gì cho thích hợp, cũng như cần phải kết hợp các yếu tố đã cho theo một trình tự
như thế nào cho hợp lý để đạt được mục đích tối ưu.
Theo triết học Mác-Lênin, phương pháp là những cách thức, con đường
thực hiện hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm đạt mục đích đã đặt

ra một cách tối ưu nhất. Phương pháp là một trong những yếu tố quyết định sự
thành công hay thất bại đối với hoạt động của con người. Nếu với những điều
kiện khách quan nhất định như nhau, phương pháp phù hợp thì kết quả đạt được
càng cao và ngược lại phương pháp khơng phù hợp có thể khơng đưa đến kết
quả như mong muốn, hoặc hiệu quả công việc không cao.
Phương pháp luận. Trên thực tế, để giải quyết một công việc đã định
người ta có thể dùng nhiều phương pháp khác nhau. Trong các phương pháp đó
có phương pháp thích hợp đưa lại hiệu quả cao, cũng có phương pháp khơng
thích hợp, đưa lại hiệu quả thấp. Làm thế nào để chọn được một phương pháp
thích hợp nhất trong số rất nhiều phương pháp có thể sử dụng? Trả lời cho vấn
đề này làm nảy sinh nhu cầu tri thức về phương pháp. Từ nhu cầu tri thức về
phương pháp đưa đến sự ra đời khoa học và lý luận về phương pháp. Đó chính
là phương pháp luận. Theo triết học Mác-Lênin, phương pháp luận là lý luận về
phương pháp, là hệ thống quan điểm, nguyên tắc xác định phương pháp, phạm
vi ứng dụng phương pháp, lựa chọn phương pháp, v.v.. cho hoạt động nhận thức
và hoạt động thực tiễn của con người một cách tối ưu nhất. Triết học Mác-Lênin
với các nguyên tắc phương pháp luận của mình như nguyên tắc khách quan, toàn
diện, phát triển, lịch sử - cụ thể, thực tiễn có vai trị phương pháp luận rất to lớn
đối với hoạt động nhận thức và hoạt động hực tiễn của con người.
3.2. Triết học Mác-Lênin với việc nhận thức chủ nghĩa tư bản
Triết học Mác-Lênin chỉ ra rằng, trong điều kiện cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại, chủ nghĩa tư bản với những lợi thế về vốn, khoa học, công
nghệ và thị trường đã tạo cho nó một bộ mặt mới so với thế kỷ XX. Ở những
khía cạnh nào đó, chủ nghĩa tư bản đã đạt được những thành tựu nhất định về
một số lĩnh vực: kinh tế, khoa học, công nghệ, v.v.. Nhưng chính chủ nghĩa tư
bản cũng là kẻ đã gây ra khơng ít tai họa cho con người như chiến tranh, nghèo


đói, bất cơng xã hội, sự nơ dịch áp bức. Chủ nghĩa tư bản vẫn lấy lợi nhuận tối
đa làm phương châm sống và hành động. Do vậy, nó khơng chỉ gây ra mâu

thuẫn giữa con người với con người mà còn gây ra mâu thuẫn giữa con người
với tự nhiên, môi trường, v.v.. Cho nên chủ nghĩa tư bản tự nó khơng thể giải
quyết được những vấn đề nội tại, vốn có của nó. Những tai họa mà nó gây ra chỉ
có thể được giải quyết triệt để trong một xã hội không dựa trên sở hữu tư nhân
về tư liệu sản xuất và khơng cịn người bóc lột người. Chính vì vậy mà Đảng
Cộng sản Việt Nam đã nhận định: “Hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng
phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất cơng.
Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa
tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu
tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng những không được giải quyết mà ngày càng trở
nên sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra” 7. Về bối
cảnh quốc tế đương đại, với phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin nói
chung, triết học Mác-Lênin nói riêng, Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Trong
những năm tới dự báo tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có nhiều thay đổi rất
nhanh, phức tạp, khó lường. Hịa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn,
song cũng đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn, thách thức. Tồn cầu hóa và hội
nhập quốc tế tiếp tục tiến triển, nhưng cũng đang bị đe dọa bởi sự trỗi dậy của
chủ nghĩa dân tộc cực đoan, cạnh tranh chiến lược, cạnh tranh kinh tế, chiến
tranh thương mại diễn ra gay gắt. Do tác động của đại dịch Covid-19, thế giới
rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng nhiều mặt. Cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ tư phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, mang đến cả thời cơ
và thách thức đối với mọi quốc gia. Các nước điều chỉnh chiến lược và phương
thức phát triển nhằm thích ứng với tình hình mới. Khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương tiếp tục có vị trí chiến lược ngày càng quan trọng. Tại Đơng Nam Á,
môi trường an ninh, tranh chấp chủ quyền trên biển Đơng cịn diễn biến phức
tạp. Biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và acsc vấn đề an ninh phi truyền
thống khác, nhất là an ninh mạng, ngày càng tác động mạnh mẽ, nhiều mặt, đe
7

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NxbCTQG,H.2011; tr. 68.



dọa nghiêm trọng đến sự phát triển ổn định, bền vững của thế giới, khu vực và
đất nước ta”8.
3.3. Triết học Mác-Lênin với việc nhận thức chủ nghĩa xã hội
Triết học Mác-Lênin đã luận chứng tính tất yếu của sự thay thế chủ nghĩa
tư bản bằng chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản đang tạo ra cho chủ nghĩa xã hội
khơng chỉ có tiền đề khoa học, kỹ thuật mà còn cả tiền đề kinh tế, vật chất nữa.
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản trong điều kiện cách mạng khoa học và công
nghệ làm cho những tiền đề của chủ nghĩa xã hội càng thêm chín muồi.
Triết học Mác-Lênin cho chúng ta cơ sở lý luận để khẳng định mặc dù
chủ nghĩa xã hội hiện thực có khủng hoảng, chủ nghĩa tư bản có những điều
chỉnh, thích nghi và có những thành tựu nhất định về kinh tế, khoa học, v.v..
nhưng thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Đúng như Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhiều
lần khẳng đinh: “Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hịa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức,
nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, lồi người
nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”9. Rõ ràng, triển vọng của chủ nghĩa xã
hội thể hiện rất rõ ở cả chủ nghĩa xã hội hiện thực đang đổi mới, phát triển; ở cả
chủ nghĩa tư bản.
C.Mác và Ph.Ăng-ghen ngay từ năm 1845-1846 đã từng lưu ý rằng "...
chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không
phải là lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản
là một phong trào hiện thực, nó xóa bỏ trạng thái hiện nay. Những điều kiện của
phong trào ấy là do những tiền đề hiện đang tồn tại đẻ ra" 10. Điều này cho chúng
ta cơ sở lý luận để thấy rằng sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên xô,
Đông Âu chỉ là sự sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội giáo điều, cứng
nhắc, rập khn, không đổi mới chứ không phải sự dụp đổ của chủ nghĩa xã hội
nói chung, càng khơng phải sự sụp đổ của lý luận Mác-Lênin về chủ nghĩa xã

8

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, NxbCTQGST, H.2021,
tr.30-31.
9
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NxbCTQG,H.2011; tr.69.
10
C. Mác và Ph. Ăng-ghen, Toàn tập, Tập 3, Nxb CTQG, Hà Nội. 1995, tr.51.


hội. Chính vì vậy mà Đảng Cộng sản Việt Nam luôn “kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội;”11.
3.4. Triết học Mác-Lênin với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam
Chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung, triết học Mác-Lênin nói riêng đã, đang
là kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam không chỉ trong các cuộc kháng chiến
chống giặc ngoại xâm, giải phóng dân tộc mà cịn cả trong công cuộc đổi mới
hiện nay. Triết học Mác-Lênin chỉ ra rằng thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội
đã làm nảy sinh hàng loạt vấn đề khơng thể tìm lời giải có sẵn trong di sản kinh
điển của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh. Do vậy, trên cơ sở kiên
trì chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thì chúng ta phải tổng kết thực
tiễn để vận dụng, bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh. Chỉ trên cơ sở đó, chúng ta mới thực hiện đổi mới chủ nghĩa xã hội
thành công. Thực tiễn đã cho thấy sự lạc hậu của nhận thức lý luận về chủ nghĩa
xã hội không chỉ là sự lỗi thời của những hiểu sai, làm sai với lý luận của các
nhà kinh điển Mác-Lênin mà còn là lý luận không được vận dụng, bổ sung, phát
triển sáng tạo phù hợp yêu cầu của thực tiễn. Do vậy, trong đổi mới phải nắm
vững phương pháp luận khoa học của triết học Mác-Lênin như là một tiền đề
quan trọng để đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội; giúp hiểu đúng quan
niệm của các nhà kinh điển Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội, khắc phục những
sai lầm trong nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội; đòi hỏi chúng ta dám từ bỏ

cả những kết luận của chính mình nếu chúng khơng cịn phù hợp, và phát triển
bổ sung lý luận trong tình hình mới, như chính C.Mác, Ph.Ăngghen và
V.I.Lênin, Hồ Chí Minh đã thực hiện. Chính vì vậy, Đảng ta đã khẳng định "tiến
hành đổi mới xuất phát từ thực tiễn và cuộc sống của xã hội Việt Nam, tham
khảo kinh nghiệm tốt của thế giới, khơng sao chép bất cứ một mơ hình có sẵn
nào; đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để với những bước đi, hình thức và cách
làm phù hợp"12. Cũng chính vì vậy mà Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định
quan điểm chỉ đạo thứ nhất đối với qúa trình tiếp tục đổi mới là “Kiên định và
11

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, NxbCTQGST, H.2021,
tr.109.
12
Ðảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG - ST, H.,2001, tr.81.

19


vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh;
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi
mới của Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa”13.
C. CÂU HỎI ƠN TẬP
1. Tính

tất yếu của sự ra đời triết học Mác?
Câu hỏi thảo luận: Vai trò của triết học Mác-Lênin đối với sự nghiệp đổi

mới ở Việt Nam?
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Trung cấp lý luận chính trị, NxbLLCT, 2014.
2. GS,TS Trần Văn Phịng, PGS,TS Đặng Quang Định: Triết học MácLênin - Hỏi và đáp, Nxb. Lý luận Chính trị, Hà Nội 2017.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII,
NxbCTQGST; H.2021; tập 1.

13

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập1, NxbCTQGST, H;2021;
tr.109.


Bài 2
CHỦ NGHĨA DUY VẬT MÁCXÍT - THẾ GIỚI QUAN KHOA HỌC CHO
NHẬN THỨC VÀ CẢI TẠO HIỆN THỰC
A. MỤC TIÊU
1. Về

kiến thức
Cung cấp cho người học kiến thức cơ bản về chủ nghĩa duy vật mác-xít

với tư cách là thế giới quan khoa học cơ sở cho hoạt động nhận thức và thực tiễn
của cán bộ, đảng viên.
2. Về kỹ năng
Biết vận dụng kiến thức đã học để phân biệt vật chất, ý thức, mối quan hệ
giữa chúng, hiểu được thực chất của quan điểm khách quan.
3. Về tư tưởng
Củng cố niềm tin khoa học vào thế giới quan triết học Mác-Lênin, biết
đấu tranh chống lại những quan điểm sai trái, chủ nghĩa chủ quan cũng như chủ
nghĩa khách quan.
B. NỘI DUNG

1. QUAN

ĐIỂM DUY VẬT MÁC-XÍT VỀ VẬT CHẤT

1.1. Quan niệm của các nhà duy vật trước mác về vật chất
Quan niệm của chủ nghĩa duy vật cổ đại về vật chất
Vào thời cổ đại ở Hy Lạp, các nhà triết học duy vật đã đồng nhất vật chất
nói chung với những dạng cụ thể của nó. Talét coi thực thể của thế giới là nước.
Anaximen coi thực thể đó là khơng khí. Với Hêraclít thực thể đó là lửa, cịn với
Ămpêđơlơ thì thực thể đó bao gồm cả bốn yếu tố: đất, nước, lửa và khơng khí.
Anaximanđrơ cho rằng, thực thể của thế giới là một bản nguyên không xác định
về mặt chất và vô tận về mặt lượng. Bản nguyên này không thể quan sát được và
ông gọi nó là apâyrơn. Sự tương tác giữa các mặt đối lập vốn có trong apâyrơn
tạo nên tồn bộ thế giới. Lơxíp và Đêmơcrít thì cho rằng, thực thể của thế giới là
nguyên tử. Đó là các phần tử cực kỳ nhỏ, cứng, tuyệt đối không thâm nhập
được, không quan sát được… và nói chung là khơng cảm giác được. Nguyên tử


chỉ có thể được nhận biết nhờ tư duy. Đêmơcrít hình dung ngun tử có nhiều
loại: có loại góc cạnh, xấu xí; có loại cong, nhẵn; có loại trịn, hình cầu… Sự kết
hợp hoặc tách rời nguyên tử theo các trật tự khác nhau của khơng gian sẽ tạo nên
tồn bộ thế giới.
Nhìn chung, những quan điểm trên tuy cịn thơ sơ, mang tính trực quan,
cảm tính, họ đồng nhất vật chất nói chung với những vật thể hữu hình, cảm tính
đang tồn tại ở thế giới bên ngồi, nhưng có ưu điểm căn bản là vật chất được coi
là cơ sở đầu tiên của mọi sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan. Điều này
đối lập với quan điểm duy tâm tôn giáo coi cơ sở đầu tiên của thế giới là tinh
thần, ý thức. Học thuyết nguyên tử của Đêmơcrít là một bước phát triển mới trên
con đường hình thành phạm trù vật chất trong triết học, tạo cơ sở triết học mới
cho nhận thức khoa học sau này.

Quan niệm của chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ XVII - XVIII về vật
chất.
Kế thừa nguyên tử luận cổ đại, các nhà duy vật thời cận đại tiếp tục coi
nguyên tử là những phần tử vật chất nhỏ nhất, không phân chia được, vẫn tách
rời chúng một cách siêu hình với vận động khơng gian và thời gian. Họ chưa
thấy được vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất. Các nhà triết học của thời
kỳ này cịn đồng nhất vật chất với một thuộc tính nào đó của vật chất như đồng
nhất vật chất với khối lượng, năng lượng, v.v..
1.2. Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khi xuất hiện những phát minh mới trong
khoa học tự nhiên, con người mới có được những hiểu biết căn bản hơn và sâu
sắc hơn về nguyên tử. Những phát minh tiêu biểu mang ý nghĩa vạch thời đại
như: Năm 1895, Rơnghen phát hiện ra tia X, một loại sóng điện tử có bước sóng
từ 0,01 đến 100.10-8cm. Năm 1896, Béccơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ.
Với hiện tượng này, người ta hiểu rằng, quan niệm về sự bất biến của ngun tử
là khơng chính xác. Năm 1897, J.Tơmxơn phát hiện ra điện tử và chứng minh
được điện tử là một trong những thành phần cấu tạo nên nguyên tử. Nhờ phát
minh này, lần đầu tiên trong khoa học, sự tồn tại hiện thực của nguyên tử đã


được chứng minh bằng thực nghiệm. Năm 1901, W.Kaufman đã chứng minh
được khối lượng của điện tử không phải là khối lượng tĩnh mà là khối lượng
điện tử tăng khi vận tốc của nó tăng. Như vậy, từ những phát minh trên mâu
thuẫn với quan niệm quy vật chất về nguyên tử hay khối lượng. Chủ nghĩa duy
tâm đã lợi dụng tình hình này và cho rằng: nếu nguyên tử bị phá vỡ thì tức là vật
chất đã tiêu tan, và chủ nghĩa duy vật dựa trên nền tảng là vật chất cũng không
thể đứng vững được nữa.
Trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán”(năm 1908), V.I.Lênin đã phân tích tình hình phức tạp ấy và chỉ rõ những
phát minh có giá trị to lớn của vật lý học cận đại không hề bác bỏ chủ nghĩa duy

vật. Không phải “vật chất tiêu tan” mà chỉ có giới hạn hiểu biết cũ của con
người về vật chất là tiêu tan. Nghĩa là cái mất đi không phải là vật chất mà là
giới hạn của sự nhận thức cũ về vật chất.
Trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc và khái quát những thành tựu của
khoa học tự nhiên. Đồng thời kế thừa những tư tưởng của C.Mác và Ph.
Ăngghen, trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán, V.I Lênin đã đưa ra một định nghĩa toàn diện và khoa học về phạm trù vật
chất: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh, và tồn tại khơng lệ thuộc vào cảm giác”14.
Phân tích định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
Về phương pháp định nghĩa. Theo V.I Lênin, không thể định nghĩa vật
chất bằng phương pháp định nghĩa các khái niệm thông thường. Phương pháp
định nghĩa thông thường là quy khái niệm cần định nghĩa vào một khái niệm
khác rộng hơn, đồng thời chỉ ra đặc điểm riêng của nó. Nhưng phạm trù vật chất
với tư cách là phạm trù triết học - một phạm trù khái qt nhất và rộng cùng cực,
khơng thể có một phạm trù nào rộng hơn, thì duy nhất về mặt phương pháp luận
chỉ có thể định nghĩa vật chất bằng cách đối lập nó với ý thức, xác định nó “là
cái mà khi tác động lên giác quan của chúng ta thì gây ra cảm giác”. V.I.Lênin
14

V.I.Lênin (1980), Tồn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, t.18, tr.151.


khẳng định vật chất khơng có nghĩa gì khác hơn là “thực tại khách quan tồn tại
độc lập đối với ý thức con người, và được ý thức con người phản ánh”.
Nội dung định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
Một là, vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan.
Khi nói vật chất là một phạm trù triết học - nó là sự trừu tượng hóa. Song, sự
trừu tượng này lại chỉ rõ cái đặc trưng nhất, bản chất nhất mà bất kỳ mọi sự vật

hiện tượng vật chất cụ thể nào cũng có đó là: tồn tại khách quan và độc lập với ý
thức của con người. Đặc tính này là tiêu chuẩn cơ bản duy nhất để phân biệt cái
gì là vật chất, cái gì khơng phải là vật chất.
Hai là, vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người ta trong cảm giác,.., và tồn tại không lệ thuộc vào cảm
giác. Với nội dung này, V.I Lênin muốn chỉ rõ thực tại khách quan (tức vật chất)
là cái có trước ý thức, khơng phụ thuộc vào ý thức, cịn cảm giác (tức ý thức)
của con người có sau vật chất, phụ thuộc vào vật chất. Vật chất là nội dung, là
nguồn gốc khách quan của ý thức, là nguyên nhân phát sinh ra ý thức, khơng có
cái bị phản ánh là vật chất thì sẽ khơng có cái phản ánh là ý thức.
Ba là, thực tại khách quan được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh, nghĩa là con người bằng các giác quan có thể nhận thức được vật chất.
Điều này cũng có nghĩa là cảm giác, ý thức của con người có thể nhận thức được
thực tại khách quan, được vật chất. Vì vậy, về nguyên tắc, khơng có đối tượng
nào khơng thể nhận biết được, chỉ có đối tượng chưa nhận thức được mà thơi.
Ý nghĩa định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
Định nghĩa về vật chất của V.I Lênin đã khắc phục triệt để sai lầm cơ bản
của chủ nghĩa duy vật trước Mác quy vật chất vào một dạng cụ thể và đã đưa
học thuyết duy vật tiến lên một bước mới, đáp ứng được những đòi hỏi mới do
những phát minh mới của khoa học tự nhiên tạo ra. Đây cũng là cơ sở khoa học
để nhận thức vật chất dưới dạng xã hội, đó là những quan hệ sản xuất, tổng hợp
các quan hệ sản xuất là cơ sở hạ tầng, tạo thành quan hệ vật chất, và từ đây làm
nảy sinh quan hệ tư tưởng, đó là kiến trúc thượng tầng… điều mà các nhà duy
vật trước C.Mác cũng chưa đạt tới.


Định nghĩa của V.I Lênin giúp cho các nhà khoa học có cơ sở lý luận để
giải thích những ngun nhân cuối cùng của các biến cố xã hội, những nguyên
nhân thuộc về sự vận động của phương thức sản xuất; trên cơ sở đó, người ta có
thể tìm ra phương án tối ưu để hoạt động thúc đẩy xã hội phát triển.

Nội dung “dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người
ta trong cảm giác và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác” chống lại mọi luận
điệu sai lầm của cả chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ
quan - cố luận giải tinh thần là cái quyết định mọi sự vật hiện tượng trong thế
giới xung quanh.
Nội dung thực tại khách quan được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp
lại, phản ánh đã bác bỏ hoàn toàn thuyết không thể biết. Đồng thời cổ vũ động
viên các nhà khoa học đi sâu vào nghiên cứu thế giới vật chất, phát hiện ra
những kết cấu mới, những thuộc tính mới cũng như những quy luật vận động và
phát triển của thế giới để làm giàu thêm kho tàng tri thức của nhân loại.
2. QUAN

ĐIỂM DUY VẬT MÁC-XÍT VỀ Ý THỨC

2.1. Nguồn gốc ý thức
Theo triết học Mác-Lênin, ý thức có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã
hội.

Nguồn gốc tự nhiên
Chủ nghĩa duy vật mácxít khẳng định ý thức có nguồn gốc tự nhiên và

nguồn gốc xã hội. Nguồn gốc tự nhiên thể hiện ở chỗ ý thức là thuộc tính phản
ánh của bộ óc người. Phản ánh là thuộc tính chung của mọi dạng vật chất. Đó
là năng lực giữ lại và tái hiện lại của hệ thống vật chất này những đặc điểm của
hệ thống vật chất khác, khi hai hệ thống vật chất đó tác động lẫn nhau. Cùng
với sự phát triển của thế giới vật chất, thuộc tính phản ánh của nó cũng phát
triển từ thấp lên cao (phản ánh cơ học, phản ánh vật lý, phản ánh hóa học, phản
ánh sinh vật với các hình thức như kích thích, cảm ứng; phản ánh tâm lý động
vật; phản ánh ý thức của con người). Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất
sống có tổ chức cao là bộ óc người (có khoảng 14 tỷ-16 tỷ tế bào thần kinh).

Chính bộ óc người và sự tác động của thế giới khách quan lên bộ óc người là
nguồn gốc tự


×