TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH ĐẮK NƠNG
ĐẢNG
CỘNG
SẢN
VIỆT
NAM
LỚP TC LLCT K92
*
Đắk Nơng, ngày 12 tháng 12
năm 2021
BÀI VIẾT THU HOẠCH
Phần: A.III. Kinh tế chính trị về phương thức sản
xuất TBCN
A.IV. Kinh tế chính trị về thời kỳ quá độ lên CNXH
Lớp: Trung cấp LLCT-HC khóa 92
----Họ và tên: Nguyễn Đức Hồng
Lớp: Trung cấp LLCT khóa 92
Chủ đề 7: Lý luận về hàng hóa sức lao động. Vận dụng vào phát triển
thị trường sức lao động ở nước ta hiện nay
1. MỞ ĐẦU
Trong suốt mấy chục năm tồn tại nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung, ở nước ta, thị trường sức lao động với tư cách là một
bộ phận cấu thành của thị trường, các yếu tố sản xuất đã không
được công nhận. Điều này có nguồn gốc từ các thành kiến mang
tính nhận thức về hàng hóa sức lao động, về việc làm, về thất
nghiệp. Trong đó, quan điểm về sức lao động là hàng hóa, có
thể mua, bán, trao đổi được coi là một điều cấm kỵ. Phân bổ lao
động được thực hiện chủ yếu bằng sự điều động của nhà nước,
thơng qua các biện pháp hành chính, mệnh lệnh, rất ít khi tính
đến các nhu cầu của thị trường. Các quyết định liên quan đến
nguồn lao động, nhất là các quyết định về phân bổ lực lượng lao
động, về luân chuyển lao động, chủ yếu được thực hiện nhằm
mục tiêu giải quyết các vấn đề về công bằng xã hội hơn là chú
trọng đến hiệu quả kinh tế.
Hơn thế, quan điểm cho rằng, chỉ có các hoạt động trong
khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế tập thể mới được
2
coi là có lao động, là có việc làm, trong một thời gian dài đã làm
đóng băng thị trường sức lao động của khu vực phi nhà nước.
Những người làm việc ngoài hệ thống các cơ quan đơn vị kinh tế
nhà nước hay tập thể thường bị coi là không có việc làm, thậm
chí những việc họ làm cịn bị coi là "bất hợp pháp". Những người
đi làm thuê, hoặc những người đứng ra thuê mướn nhân công,
tạo công ăn việc làm cho người lao động ngoài khu vực quốc
doanh và tập thể bị coi là bóc lột, bị hạn chế và phân biệt đối xử
nặng nề.
Công cuộc đổi mới nền kinh tế của nước ta trong 35 năm
qua đã mang lại những thay đổi về chất liên quan đến phân bổ
và sử dụng lực lượng lao động. Thị trường sức lao động đã được
công nhận về mặt pháp luật và bước đầu có những hoạt động
cụ thể. Trên thực tế, sức lao động đã dần được coi là một loại
hàng hóa, thể hiện qua việc cơng nhận quyền tự do tìm việc
làm của người lao động và quyền thuê mướn người lao động
làm việc cho mình của các chủ sử dụng lao động.
Tuy nhiên, đặc trưng chủ yếu của nền kinh tế nước ta hiện
nay là quá trình biến đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
sang kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường đang thoát dần
khỏi những ràng buộc về nhận thức và thực tiễn cũ. Trong
những khó khăn lớn về nhận thức mà chúng ta đang gặp phải
có vấn đề bản chất của lao động và thị trường sức lao động.
Từng quen với quan niệm coi lao động là một giá trị xã hội và
tinh thần cao nhất, một giá trị tự thân, thốt ra ngồi sự trao
đổi, nhiều người khơng khỏi bỡ ngỡ khi thay đổi quan niệm về
lao động, bởi vì từ nay lao động cũng khơng thể nằm bên ngồi
các quan hệ thị trường.
Dù có mang những phẩm chất đặc biệt thế nào đi nữa, sức
lao động vẫn là một thứ hàng hóa để mua bán theo giá trị của
nó trên thị trường, xét trong mối tương quan với các hàng hóa
khác và ngay cả với chính nó. Vì vậy, việc tiếp tục nhận thức,
vận dụng hợp lý lý luận hàng hóa sức lao động, về thị trường
sức lao động là một vấn đề quan trọng trong quá trình phát
triển kinh tế ở nước ta hiện nay.
3
Do vậy em quyết định chọn nội dung “Lý luận về hàng
hóa sức lao động. Vận dụng vào phát triển thị trường sức
lao động ở nước ta hiện nay’’ làm bài thu hoạch.
2. NỘI DUNG
2.1. Sức lao động, hàng hóa sức lao động và các
thuộc tính của hàng hóa sức lao động
2.1.1 Khái niệm sức lao động
Sức lao động theo quan điểm của triết học Mác là toàn bộ
năng lực thể chất, trí tuệ và tinh thần tồn tại trong một cơ thể,
trong một con người đang sống và được người đó có thể mang
ra sử dụng mỗi khi tạo ra một giá trị sử dụng nào đó.
Hay nói cách khác, sức lao động mà khả năng lao động của
mỗi người trong quá trình sản xuất, kinh doanh hay lực lượng
sản xuất sáng tạo chủ yếu của xã hội. Sức lao động là khả năng
lao động còn lao động là sự tiêu dùng sức lao động trong quá
trình làm việc.
2.1.2. Hàng hóa sức lao động
Hàng hóa sức lao động là kết quả của một quá trình lao
động trong một khoảng thời gian nhất định. Hàng hóa sức lao
động được tạo thành khi xảy ra các điều kiện sau:
Thứ nhất, người lao động được tự do về thân thể, tự do chi
phối sức lao động của mình, có quyền bán sức lao động của
mình trong một thời gian nhất định.
Thứ hai, người lao động buộc phải bán sức lao động của
mình khi khơng có đủ tư liệu sản xuất cần thiết để tự tổ chức
sản xuất.
2.1.3. Các thuộc tính của hàng hóa sức lao động
Với tư cách là hàng hóa đặc biệt, hàng hóa sức lao động có
hai thuộc tính:
Thứ nhất, giá trị của hàng hóa sức lao động. Giá trị hàng
hóa sức lao động là lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái
sản xuất sức lao động. Do tính đặc thù của q trình sản xuất
và tái sản xuất sức lao động, giá trị sức lao động được tính
ngang bằng giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất
4
và tái sản xuất sức lao động, bao gồm ba bộ phận: giá trị những
tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động của
người công nhân làm thuê, chi phí đào tạo nâng cao tay nghề
và chi phí ni dưỡng con cái. Giá trị hàng hóa sức lao động
chịu ảnh hưởng lớn của các yếu tố tinh thần và lịch sử.
Điều đó thể hiện ở chỗ: nhu cầu của cơng nhân khơng chỉ
có nhu cầu về vật chất mà còn gồm cả những nhu cầu về tinh
thần (giải trí, học hành,…). Nhu cầu đó, cả về khối lượng lẫn cơ
cấu những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho công nhân không phải
lúc nào và ở đâu cũng giống nhau.
Nó tùy thuộc hồn cảnh lịch sử của từng nước, từng thời kỳ,
phụ thuộc vào trình độ văn minh đã đạt được của mỗi nước,
ngồi ra cịn phụ thuộc vào tập quán, vào điều kiện địa lý và khí
hậu, vào điều kiện hình thành giai cấp cơng nhân.
Nhưng, đối với một nước nhất định và trong một thời kỳ
nhất định thì quy mơ những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho người
lao động là một đại lượng nhất định. Để nêu ra được sự biến đổi
của giá trị sức lao động trong một thời kỳ nhất định, cần nghiên
cứu sự tác động lẫn nhau của hai xu hướng đối lập nhau. Một
mặt là sự tăng nhu cầu trung bình xã hội về hàng hố và dịch
vụ, về học tập và trình độ lành nghề, do đó làm tăng giá trị sức
lao động. Mặt khác là sự tăng năng suất lao động xã hội, do đó
làm giảm giá trị sức lao động. Trong điều kiện tư bản hiện đại,
dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật và
những điều kiện khác, sự khác biệt của cơng nhân về trình độ
lành nghề, về sự phức tạp của lao động và mức độ sử dụng
năng lực trí óc và tinh thần của họ tăng lên.
Tất cả những điều kiện đó khơng thể khơng ảnh hưởng đến
các giá trị sức lao động. Không thể không dẫn đến sự khác biệt
theo ngành và theo lĩnh vực của nền kinh tế bị che lấp đằng sau
đại lượng trung bình của giá trị sức lao động.
Thứ hai, giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động là khả
năng tạo ra giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó, tức là khả
năng tạo ra giá trị thặng dư cho chủ thể mua sức lao động. Giá
trị sử dụng của hàng hóa sức lao động gắn liền với cơ thể của
5
người cơng nhân làm th và khơng tích lũy được, vì vậy người
mua sức lao động buộc phải sử dụng nó.
Giá trị sử dụng của hàng hố sức lao động cũng giống như
các hàng hoá khác chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức
lao động, tức là quá trình người cơng nhân tiến hành lao động
sản xuất. Nhưng tính chất đặc biệt của hàng hố sức lao động
được thể hiện đó là:
- Sự khác biệt của giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động
so với giá trị sử dụng của các hàng hoá khác là ở chỗ, khi tiêu
dùng hàng hố sức lao động, nó tạo ra một giá trị mới lớn hơn
giá trị của thân giá trị sức lao động. Phần lớn hơn đó chính là giá
trị thặng dư. Như vậy, hàng hoá sức lao động có thuộc tính là
nguồn gốc sinh ra giá trị. Đó là đặc điểm cơ bản nhất của giá trị
sử dụng của hàng hoá sức lao động so với các hàng hố khác.
Nó là chìa khố để giải quyết mâu thuẫn của công thức chung
của tư bản. Như vậy, tiền chỉ thành tư bản khi sức lao động trở
thành hàng hoá.
- Con người là chủ thể của hàng hoá sức lao động vì vậy,
việc cung ứng sức lao động phụ thuộc vào những đặc điểm về
tâm lý, kinh tế, xã hội của người lao động. Đối với hầu hết các
thị trường khác thì cầu phụ thuộc vào con người với những đặc
điểm của họ, nhưng đối với thị trường sức lao động thì con
người lại có ảnh hưởng quyết định tới cung.
2.2. Thị trường hàng hóa sức lao động
Thị trường sức lao động là nơi diễn ra quan hệ mua bán
hàng hoá sức lao động giữa người sử dụng lao động và người
lao động, là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu về hàng hoá sức lao
động. Sự biến động cung - cầu về hàng hố sức lao động ln
gắn bó chặt chẽ với chu kỳ phát triển cơng nghiệp, với qua trình
hiện đại hố nền kinh tế.
2.2.1. Cung lao động
Cung lao động là khả năng tham gia thị trường sức lao động
(cả về số lượng và thời gian) của những người trong độ tuổi lao
động có khả năng lao động ,và những người ngoài độ tuổi lao
động thực tế có tham gia lao động trên thị trường sức lao động.
6
Cung lao động phụ thuộc vào tốc độ tăng nguồn lao động,
sự biến động về cầu lao động, trình độ đào tạo hướng nghiệp –
dạy nghề và tiền lương (tiền công) trên thị trường sức lao động.
2.2.2. Cầu lao động
Cầu lao động là số lượng lao động cần được thuê mướn trên
thị trường sức lao động; là toàn bộ nhu cầu về sức lao động của
một quốc gia (của một nền kinh tế), hoặc của một ngành, địa
phương hay doanh nghiệp…ở một thời kỳ nhất định, gồm cả
mặt số lượng, chất lượng, cơ cấu và thường được xác định thông
qua chỉ tiêu việc làm. Cầu lao động biểu hiện khả năng thuê lao
động của người sử dụng lao động, của doanh nghiệp và nhà đầu
tư trên thị trường sức lao động.
Trên thị trường sức lao động, trong điều kiện kết cấu của tư
bản khơng thay đổi thì lượng cầu về hàng hố sức lao động tăng
lên cùng với q trình tích luỹ của tư bản. Khi tư bản tăng lên
thì cũng tăng thêm bộ phận cấu thành khả biến của nó, hay bộ
phận được biến thành sức lao động. Do vậy "lượng cầu về lao
động và quỹ sinh hoạt của công nhân sẽ tăng lên một cách tỷ lệ
với tư bản, và tư bản tăng lên càng nhanh bao nhiêu thì lượng
cầu đó cũng càng tăng lên nhanh bấy nhiêu". Nhà tư bản sản
xuất ra giá trị thặng dư và hằng năm giá trị thặng dư này được
cộng vào tư bản đầu tư bản đầu làm tăng thêm số tư bản hiện
đang hoạt động. Khi nhà tư bản mở rộng đột ngột quy mơ tích
luỹ bằng cách chỉ cần thay đổi sự phân chia giá trị thặng dư hay
sản phẩm thặng dư thành tư bản và thu nhập.
2.2.3. Bản chất, đặc trưng của thị trường sức lao
động
Xuất phát từ cả hai phía: lợi ích của người lao động và lợi ích
của xã hội màthị trường sức lao độnghình thành và phát triển.
Thừa nhận sức lao động là hàng hoá là một tất yếu theo xu
hướng vận động khách quan của nền kinh tế hàng hố. Do đóthị
trường sức lao độngthường có những đặc trưng cơ bản như sau:
Một là, hàng hóa trên thị trường sức lao động là loại hàng
hóa đặc biệt, vì khác với hàng hóa thơng thường, hàng hóa sức
lao động gắn chặt với người có sức lao động (không thể tách tời
7
người lao động) cả về số lượng và chất lượng. Dù đã được trao
đổi trên thị trường hay chưa thì nó vẫn địi hỏi phải thường
xun được cung cấp những điều kiện về vật chất, tinh thần để
tồn tại và không ngừng phát triển. Do người lao động vẫn giữa
quyền kiểm soát số lượng và chất lượng sức lao động, được tích
lũy, sáng tạo trong q trình lao động nên việc duy trì, phát
triển các mối quan hệ lao động là rất cần thiết, nhằm nâng cao
năng suất, hiệu quả của quá trình lao động. Người sử dụng lao
động phải xây dựng một cơ chế đãi ngộ, kích thích, tạo động lực
đối với người lao động phù hợp với sự phát triển của doanh
nghiệp và xã hội, trong đó tiền lương, tiền thường,…là các yếu
tố quan trọng đến sự phát triển hàng hóa sức lao động.
Hai là, tình khơng đồng nhất của hàng hóa sức lao động
trên thị trường sức lao động: Các hàng hóa, dịch vụ đặc bịt là
hàng hóa cơng nghiệp thường được chuẩn hóa cao, đảm bảo
tính đồng nhất về mẫu mã, chất lượng. Những hàng hóa sức lao
động không đồng nhất. Mỗi người lao động khác nhau về tuổi
tác, nguồn gốc, giới tính, trí thơng minh, sự khéo léo, thể lực,
động lực làm việc và chúng đều có ảnh hưởng đến năng suất,
hiệu lực lao động. Đồng thời, người lao động cịn có sự khác
nhau về trình độ văn hóa, trình độ chun mơn kỹ thuật, số
năm kinh doanh công tác. Mỗi người lao động là tổng hợp các
năng lực bẩm sinh, sức lao động tự có cộng với các kỹ năng
chuyên biệt tiếp thu được thông qua giáo dục, đào tạo. Yếu tố
kỹ năng thường được gọi là vốn nhân lực của từng người.
Ba là, giá cả sức lao động trên thị trường sức lao động do
quan hệ cung-cầu lao động xác định: Sự hoạt động của quy luật
cung- cầu lao động trên thị trường xác định giá cả sức lao động,
được biểu hiện thông qua trạng thái quan hệ thỏa thuận giữa
người lao động và người sử dụng lao động về tiền lương, tiền
công. Khi cung lao động lớn hơn cầu lao động, giá cả sức lao
động có thể ở mức thấp. Ngược lại, ở thời điểm cầu lao động lớn
hơn cung lao động, đặc biệt đối với người lao động có trình độ
chun mơn kỷ thuật cao, ở dạng “q hiếm” thì sức lao động
sẽ có giá cao hơn.
8
Bốn là, thị trường sức lao động hoạt động đa dạng với nhiều
phân lớp khác nhau: ngoài thị trường sức lao động chung tồn
quốc, người ta cịn xác định các phân mảng thị trường khác như
thị trường sức lao động theo lãnh thổ địa lý, thị trường sức lao
động theo trình độ kỹ năng, Xuất phát từ đặc điểm cung- cầu
lao động khác nhau theo vùng, khu vực, địa phương, do trình độ
phát triển nguồn nhân lực, phát triển kinh tế của các vùng, khu
vực có sự khác nhau, nên thường tạo ra những ranh giới thị
trường sức lao động. Vì thế trên thị trường sức lao động của một
số nước có thể ở vùng này, vùng khác hoặc khu vực này, khu
vực khác, mức độ hoạt động của quy luật cung- cầu lao động có
thể khác nhau, sơi động hoặc kém sôi động.
Năm là, vị thế yếu hơn của người lao động trong đàm phán
trên thị trường sức lao động. Trong các quan hệ giao dịch hay
đàm phán trên thị trường sức lao động, cán cân thường nghiêng
về phía người sử dụng lao động, vì ở các nước đang phát triển,
số lương những người đi tìm việc làm thường nhiều hơn số lượng
cơ hội việc làm sẵn có (cung thường lớn hơn cầu). Người lao
động đi tìm việc khơng có tự liệu sản xuất, nguồn lực hạn chế
phải bán sức lao động, trong khi đó người sử dụng lao động có
nhiều khả năng chờ đợi và lựa chọn lao động hơn. Trên thị
trường sức lao động với cung lao động dồi dào thì người sử dụng
lao đọng thường ở thế mạnh trong đàm phán với người lao
động, thường có vị trí quyết định về các vấn đề trong quan hệ
lao động. Đối với các loại lao động khan hiếm trên thị trường
sức lao động như lao động lành nghề cao, lao động địi hỏi khả
năng đặc biệt…thì vị thế của người lao động đạt được sự cân
bằng hơn với người sử dụng lao động trong thỏa thuận và đàm
phán về các nội dung hợp đồng lao động.
2.3. Thực trạng thị trường sức lao động ở nước ta
hiện nay
2.3.1. Đặc điểm của thị trường sức lao độngở nước ta
thị trường sức lao động ở Việt Nam quan điểm có tính
ngun tắc của chính sách phát triến thị trường sức lao động là
phải giữ nguyên sự duy trì đầy đủ vai trò lớn lao của Nhà nước
9
đối với nhân dân trong vấn đề điều tiết việc làm. Tuy nhiên, điều
tiết của Nhà nước không phải là sử dụng để trấn áp cơ chế tự
điều chỉnh của thị trường. Điểm khác biệt của nền kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa là định hướng vào việc làm có hiệu suất
cao dựa trên cơ sở tổng hợp những kết quả của nền kinh tế và
xã hội. Trong nền kinh tế đó, việc đầu tư lớn vào con người được
thực sự quan tâm để đảm bảo phát huy hết tài năng của họ và
hướng tới một cuộc sống đầy đủ, ấm no và hạnh phúc. Đảm bảo
việc làm có hiệu suất cao chỉ có thể đạt được trên cơ sở kết hợp
chặt chẽ những hoạt động tích cực của các cơ quan quản lý nhà
nước với sự tự điều tiết của thị trường.
Thứ nhất, về lực lượng lao động và cơ cấu lực lượng
lao động
Lực lượng lao động của Việt Nam không ngừng tăng lên
cùng với sự gia tăng của dân số. Đến năm 2018, LLLĐ vào
khoảng 55,16 triệu người, chiếm khoảng 60% dân số. Mỗi năm
có khoảng 500-700 nghìn người gia nhập lực lượng lao động.
Đặc điểm dễ nhận thấy là trong những năm gần đây tốc độ tăng
LLLĐ đã giảm nhanh so với trước. Nếu như năm 2000, tốc độ
tăng LLLĐ đạt 3,3%/năm, sau đó duy trì mức tăng gần 3% đến
năm 2006 thì từ năm 2007 tốc độ tăng LLLĐ đã giảm xuống,
duy trì ở mức khoảng 2%/năm cho đến năm 2010 và từ năm
2011 đến nay tốc độ tăng LLLĐ đã giảm nhanh chóng, trong đó
duy trì mức tăng dưới 1% từ năm 2014 (năm 2017, 2018, mức
tăng tương ứng 0,71% và 0,85%). Điều này một phần là do xu
hướng dân số đang già hóa, phần khác là do số năm đi học của
dân số từ 15 tuổi trở lên tăng nên làm chậm lại thời điểm tham
gia thị trường sức lao động, đặc biệt là đối với nữ giới. Theo báo
cáo của Tổng cục Thống kê, số năm đi học bình quân của dân
số nữ từ 15 tuổi trở lên tăng từ 8,05 năm vào năm 2010 lên
8,55 năm vào năm 2018 (tăng 0,5 năm), còn của nam tăng từ
8,8 năm lên 9,08 năm (tăng 0,28 năm) trong cùng giai đoạn.
Biểu đồ biểu thị tốc độ tăng lực lượng lao động Việt
Nam
10
Nguồn: GSO
Xu hướng già hóa dân số cũng khiến cho cơ cấu LLLĐ theo
nhóm tuổi có xu hướng tăng nhanh tỷ trọng của nhóm lao động
trên 50 tuổi trong khi tỷ trọng của lao động trong độ tuổi từ 1524 và 25-50 đều giảm dần. Năm 2000, tỷ lệ lao động trong độ
tuổi 15-24 chiếm 21,5% tổng LLLĐ, lao động từ 25-50 tuổi
chiếm 66,1%, còn lao động trên 50 tuổi chiếm 12,4% tổng LLLĐ.
Năm 2010, các con số tương ứng là 18,3%, 61,4% và 20,3% và
đến năm 2017, tỷ lệ này là 13,8%, 59,5% và 26,7%.
Q trình đơ thị hóa diễn ra mạnh mẽ đã tạo sức hút lao
động từ nông thông ra thành thị. Đây là nguyên nhân chủ yếu
làm tăng nhanh lực lượng lao động thành thị. Từ năm 2010 đến
nay, LLLĐ thành thị đã tăng trung bình 2,5%/năm (từ 2012 đến
nay) trong khi con số tương ứng chỉ là 0,5% ở khu vực nông
thôn.
Phân bổ LLLĐ theo vùng lãnh thổ có những chuyển dịch
theo hướng tích cực song vẫn còn một số bất cập so với tiềm
năng và nhu cầu phát triển. Tỷ trọng LLLĐ ở các vùng Tây Bắc
và Tây Nguyên chiếm trong tổng LLLĐ cả nước tuy có tăng
nhưng nhìn chung tốc độ chậm và cịn thấp so với các vùng
khác, trong khi Đơng Nam Bộ vốn có mật độ dân số cao, LLLĐ
đơng đảo lại có xu thế gia tăng mạnh về cả quy mô và tỷ trọng.
Thứ hai, về chất lượng lao động, việc làm và năng
suất lao động
Nếu như thất nghiệp và thiếu việc làm chưa phải là vấn đề
quá lớn đối với trường hợp Việt Nam thì chất lượng lao động,
việc làm và năng suất lao động đang thực sự là thách thức lớn
11
hiện nay.
Năng suất lao động của Việt Nam ở mức thấp. Mặc dù xét
về tốc độ tăng năng suất lao động, có thể nói Việt Nam đã có sự
tiến bộ trong việc nâng cao năng suất lao động góp phần cải
thiện thứ hạng trong bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh với tốc
độ tăng năng suất lao động giai đoạn 1991-2017 bình quân đạt
4,8%/năm, cao hơn mức tăng NSLĐ của Singapore (2,3%),
Indonesia (3,2%) trong cùng giai đoạn. Tuy nhiên, xét về số
tuyệt đối, so với các nước trong khu vực, NSLĐ của Việt Nam chỉ
nhỉnh hơn Bangladesh, Campuchia và chỉ bằng một nửa các
nước ASEAN, thấp hơn Indonesia 10 lần, Thái Lan 30 lần, Nhật
Bản 135 lần. Nguyên nhân chủ yếu là bởi trình độ nhân lực cịn
thấp, ứng dụng KHCN chưa cao, mức độ tinh vi trong sản xuất
kinh doanh của Việt Nam mới xếp thứ 100/137 nước. Đầu tư cho
công nghệ chỉ chiếm 0,5% doanh thu của doanh nghiệp, rất
thấp so với mức bình quân châu Á là 2,5%. Điều này rất đáng lo
ngại trong bối cảnh CMCN 4.0 đang diễn ra trên diện rộng, đưa
Việt Nam đứng trước nguy cơ nguy cơ tụt hậu ngày càng xa.
Một khó khăn nữa là do tỷ trọng lao động trong khu vực nơng
nghiệp ở Việt Nam cịn q lớn trong khi năng suất lao động của
khu vực này lại rất thấp, năng suất lao động trong khu vực cơng
nghiệp có cao hơn nhưng không được cải thiện nhiều trong
những năm qua do lao động tập trung chủ yếu ở các ngành chế
biến chế tạo với kỹ năng, trình độ chuyên môn thấp.
Biểu đồ so sánh năng suất lao động của Việt Nam và một
số
nước
châu
Á
Nguồn: WB 2016
12
Chất lượng lao động Việt Nam theo đánh giá của Ngân hàng
Thế giới năm 2016 chỉ đạt 3,79/10 điểm trong khi một số nước
trong khu vực như Malaysia là 5,59/10, Thái Lan là 4,94/10. Việt
Nam đứng thứ 11/12 nước ở châu Á tham gia xếp hạng. Chỉ số
năng lực cạnh tranh nhân tài cũng ở thứ hạng thấp, Việt Nam
chỉ xếp thứ 5 trong khu vực sau Singapore, Malaysia, Thái Lan,
Philippines và xếp thứ 82/109 nước khảo sát (trong đó, chỉ số về
kỹ năng lao động xếp 95/109 nước). Điểm yếu cơ bản của lao
động Việt Nam là tỷ lệ lao động qua đào tạo, nhất là đào tạo
nghề dài hạn và lao động có trình độ cao cịn thấp, chỉ bằng 1/3
các nước và các nền công nghiệp mới như Hàn Quốc, Đài Loan,
Singapore. Bên cạnh đó, kỹ năng tay nghề yếu, đặc biệt là so
với tiêu chuẩn nghề của khu vực và thế giới. Sự phân bố không
hợp lý, chương trình đào tạo cịn nặng lý thuyết, chất lượng đào
tạo, cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo vùng,
miền, địa phương của nguồn nhân lực chưa thực sự phù hợp với
nhu cầu sử dụng của xã hội đã dẫn đến tình trạng thiếu nghiêm
trọng lao động kĩ thật trình độ cao, các nhà quản lý, chuyên gia
giỏi và công nhân lành nghề. Nhiều lao động không đáp ứng
được yêu cầu của nhà tuyển dụng.
Phần lớn lao động của Việt Nam khơng có trình độ chun
mơn kỹ thuật. Theo thống kê hàng năm, tỷ lệ lao động khơng có
trình độ CMKT chiếm khoảng 75-80% tổng lực lượng lao động;
lao động đã qua đào tạo hiện mới chỉ đáp ứng được khoảng 2030% nhu cầu trong giai đoạn 2011 - 2017.
Số lao động có trình độ chun mơn kỹ thuật có khuynh
hướng hiểu biết lý thuyết khá nhưng lại kém về năng lực thực
hành và khả năng thích nghi trong mơi trường cạnh tranh cơng
nghiệp, cần có thời gian bổ sung hoặc đào tạo bồi dưỡng để sử
dụng hiệu quả.
2.3.2. Những tồn tại, hạn chế ở thị trường sức lao
động của nước ta
- Bộ luật Lao động và các văn bản pháp lý khác thể hiện vai
trò can thiệp tích cực của Nhà nước để đảm bảo cho việc phối
hợp hoạt động của các loại thị trường nói chung và hiệu quả
13
hoạt động của thị trường sức lao động nói riêng chưa được hồn
thiện hoặc hồn tồn chưa có.
- Cơ sở hạ tầng xã hội và cơ sở hạ tầng của thị trường sức
lao động đang được hình thành ở Việt Nam vẫn chưa tương
thích với cơ chế thị trường. Thị trường sức lao động vừa mới
được hình thành và đang hoạt động trong điều kiện kém phát
triển của thể chế điều tiết các quan hệ lao động xã hội chỉ mới
vừa được sinh ra và chưa được bao trùm hết tất cả các cấp;
- Những bất cập ngày càng lớn giữa qui mô chung và cấu
trúc “cung-cầu” sức lao động trên thị trường sức lao động. Hiện
nay ở Việt Nam cung về sức lao động đang vượt quá cầu và sẽ
cịn tiếp tục vượt trong tương lai, điều đó tạo ra một áp lực rất
lớn về việc làm cho dân cư. Hàng năm cung sức lao động tăng
từ 3,2% đến 3,5%, như vậy mỗi năm chúng ta sẽ có thêm
khoảng 1,3 đến 1,5 triệu người đến độ tuổi lao động.
- Xoá bỏ sự mất cân đối, bất cập trong cơ cấu lao động cũ
đã tồn tại từ nền kinh tế bao cấp xây dựng một cấu trúc lao
động mới cho phù hợp với cơ cấu nền kinh tế mới diễn ra rất
chậm chạp. Mâu thuẫn giữa lao động và việc làm ngày càng gay
gắt khi chúng ta triệt để tiến hành cải cách, cùng với việc điều
chỉnh cơ cấu kinh tế phải tổ chức lại lao động trên phạm vi toàn
xã hội, chuyển dịch cơ cấu lao động cho phù hợp với cơ cấu mới
của nền kinh tế tất yếu dẫn đến hiện tượng và xu thế đẩy lao
động tách ra khỏi việc làm, và làm cho một bộ phận lớn lao
động trở nên dư thừa, trước hết là trong khu vực quốc doanh.
Trong quá trình dịch chuyển này chúng ta vừa thiếu đội ngũ lao
động có kỹ thuật, cơng nhân lành nghề có khả năng làm việc
trong lĩnh vực cơng nghệ cao, các khu chế xuất và những xí
nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi, lại vừa thừa đội ngũ lao động
phổ thơng khơng có tay nghề chun mơn.
- Mâu thuẫn giữa nhu cầu giải quyết việc làm rất lớn với
trình độ tổ chức quản lý về mặt nhà nước trong lĩnh vực việc
làm chưa phù hợp với cơ chế mới, với hệ thống sự nghiệp giải
quyết việc làmcòn phôi thai, non yếu chưa đáp ứng được yêu
cầu về giải quyết việc làm trong cơ chế thị trường;
14
- Hệ thống dịch vụ giới thiệu việc làm chỉ mới được hình
thành và phân bổ chưa rộng khắp cả nước. Hệ thống này chưa
có một cấu trúc tổ chức thành lập rõ ràng, chưa được đảm bảo
trang bị vật chất cần thiết và đội ngũ cán bộ không đồng bộ.
Đặc biệt, cho đến nay ở Việt Nam chưa hình thành một hệ thống
thông tin về thị trường sức lao động một cách đầy đủ và đồng
bộ, được cập nhật theo thời gian và có các dự báo làm cơ sở cho
việc nghiên cứu, đánh giá các đặc trưng và biến động của quan
hệ cung-cầu sức lao động để phục vụ cho cơng tác kế hoạch
hóa đào tạo chung cho toàn bộ hệ thống cũng như từng cơ sở
đào tạo) nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu nhân lực của
thị trường sức lao động.
- Cấu trúc nguồn nhân lực Việt Nam phân bổ rất bất hợp lý,
có tới gần 80% lực lượng lao động ở nông thôn, mà ở đây việc
làm khơng đầy đủ và thất nghiệp có thể lên tới 30%. Những lao
động này tự do đi đến các thành phố và những khu công nghiệp
mới với mục đích tìm kiếm việc làm, điều đó cịn làm tăng hơn
nữa về cung sức lao động. Nông dân là những người lao động
khơng có chun mơn, vì vậy phải ln sẵn sàng chấp nhận
những việc làm có thu nhập thấp, do vậy lại càng làm tăng
thêm sự cạnh tranh tiêu cực trên thị trường sức lao động.
2.3.3. Các vận dụng vào phát triển thị trường sức lao
độngở nước ta hiện nay
Xuất phát từ thực trạng việc vận dụng lý luận hàng hóa sức
lao động của C.Mác vào phát triển thị trường sức lao động Việt
Nam thời gian qua và những dự báo phát triển trong thời gian
tới, cũng như từ đặc điểm thị trường lao động và mục tiêu phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, việc
tiếp tục vận dụng lý luận hàng hóa sức lao động cần quán triệt
một số quan điểm định hướng có tính ngun tắc sau:
- Đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa khi vận dụng lý
luận hàng hoá sức lao động. Nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đang tồn tại ba hình thức sở hữu cơ
bản về tư liệu sản xuất (sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu
tư nhân) và hình thức sở hữu cá nhân về sức lao động. Để thực
15
hiện được quyền sở hữu cá nhân về sức lao động của mình,
người lao động phải xác lập được quan hệ hợp đồng lao động
với các chủ thể sở hữu tư liệu sản xuất. Xuất phát từ cơ cấu các
hình thức sở hữu, quan hệ hợp đồng ở nước ta cần được tiếp tục
hoàn thiện theo các yêu cầu sau: Một là, tuân thủ theo Bộ luật
lao động; Hai là, bảo đảm tính độc lập, tự chủ của các chủ thể
sở hữu, các bên có quan hệ bình đẳng về mặt pháp và khơng
được áp đặt ý chí của mình lên phía đối tác; Ba là, bảo đảm
quyền tự do bàn bạc, trao đổi, thoả thuận để đi đến sự nhất trí
chung; Bốn là, bảo đảm sự bình đẳng, cùng có lợi trong quan hệ
kinh tế. Việc bảo đảm các yêu cầu này sẽ giúp hạn chế quan hệ
áp bức, bóc lột giữa người với người và tăng cường quan hệ
tương thân tương ái của mọi người; nhờ đó đảm bảo định hướng
XHCN cho nền kinh tế.
- Vai trò chủ thể của người lao động trong quá trình lao động
sản xuất phải được coi trọng trong khi vận dụng lý luận hàng
hố sức lao động. Vai trị chủ thể của người lao động chỉ thật sự
được phát huy khi quyền lao động của người lao động được bảo
đảm. Vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động của C.Mác, Nhà
nước ta đã thực hiện được các biểu hiện của quyền lao động và
đã tạo ra một động lực nhất định giúp người lao động phát huy
được vai trò chủ thể trong q trình lao động sản xuất. Chính vì
vậy, vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động của C.Mác vào
phát triển thị trường lao động trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở nước ta, Nhà nước cần tiếp tục quan tâm phát
huy vai trò chủ thể của người lao động.
- Vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động phải gắn liền với
q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Ngày nay, khu vực hố
và tồn cầu hoá kinh tế đang là một xu thế của thời đại. Việc
phát triển thị trường sức lao động của nước ta khơng nằm ngồi
xu thế đó. Do vậy, việc giải quyết mối quan hệ cung - cầu - sức
lao động khơng chỉ nhằm thúc đẩy trực tiếp q trình chuyển
dịch cơ cấu nền kinh tế quốc dân, mà còn phải tính đến xuất
khẩu sức lao động ra các nước. Phải coi xuất khẩu sức lao động
ra các nước, nhất là các nước có nền cơng nghiệp phát triển là
16
một hướng phát triển thị trường sức lao động. Hướng này không
chỉ nhằm vào giải quyết thu nhập trước mắt cho người lao động
và tạo vốn tích luỹ cho nền kinh tế, mà còn nhằm nâng cao giá
trị sử dụng của hàng hoá sức lao động, chuẩn bị lượng cung sức
lao động cho đẩy mạnh Cơng nghiệp hóa – Hiện đại hóa trong
tương lai và q trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động của C.Mác vào phát
triển thị trường lao động ở nước ta phải theo hướng thúc đẩy
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và tiếp cận kinh tế tri thức.
Việc mở rộng thị trường sức lao động trong nước và ngoài nước,
Nhà nước đã tạo điều kiện cho người lao động nơi làm việc phù
hợp, có cơ hội thăng tiến cao nhất và tích luỹ được kiến thức
nhiều nhất. Đồng thời, nhờ phát triển thị trường sức lao động,
nước ta có thể thu hút lực lượng lao động chất lượng cao ở bên
ngoài vào đầu tư ở các ngành cơng nghệ mới cịn non yếu và
thiếu chun gia để có thể kết hợp nội lực với ngoại lực phát
triển nhanh các ngành kinh tế trụ cột. Vận dụng lý luận hàng
hoá sức lao động theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế và tiếp
cận kinh tế tri thức, Nhà nước ta sẽ nâng cao được khả năng
cạnh tranh của hàng hoá sức lao động và sẽ xây dựng được lực
lượng lao động chất lượng cao. Nhờ đó, nước ta có thể tự tin
bước vào giai đoạn phát triển của nền kinh tế tri thức, góp phần
xây dựng thành cơng Chủ nghĩa xã hội.
3. KẾT LUẬN
Có thể nói thị trường sức lao động ở Việt Nam là thị trường
lao động cịn khá nhỏ lẻ ở những khu cơng nghiệp hoặc ở những
thành phố lớn. Đây là cơ hội và cũng là thách thức lớn đối với
Việt Nam. Vì vậy, để tồn tại và phát triển, trong thị trường thế
giới đầy khắc nghiệt, các nhà kinh tế Việt Nam cần có những
chiến lược cụ thể nhằm nâng cao sức cạnh trạnh của hàng hóa,
đặc biệt là hàng hóa sức lao động. Do vây, cần áp dụng triệt để
lý luận về hàng hóa sức lao động của C. Mác vào thực tế Việt
Nam một cách có hiệu quả để mang lại nguồn nhân lực có chất
lượng tay nghề, phẩm chất tốt để phục vụ cho sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước trong thời đại mới.
17
Từ những đánh giá và kết luận trên đây chúng ta có thể
nhận thấy rằng, thị trường sức lao động đang được hình thành ở
Việt Nam đang cần những chính sách đồng bộ và thống nhất
trong các vấn đề hình thành giá cả, tiền lương, thu nhập, thuế
khoá phù hợp với việc tính tốn quyền lợi cho các chủ thể khác
nhau của thị trường sức lao động, thực sự giảm vai trị của cơng
cụ điều tiết và tự điều tiết khi hình thành cơ chế phân chia và
phân chia lại sức lao động dựa trên cơ sở những quan hệ giá
trị./.
18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình
Những nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê Nin (hệ TCLL),
Nxb Lý luận Chính trị, H, 2021.
2. Bộ Giáo dục – Đào tạo: Giáo trình Kinh tế - Chính trị MácLênin, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2019.
3. />4. />5.
/>