LUẬN VĂN:
Vai trò kinh tế của Nhà nước trong
nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta hiện nay
A- Lời mở đầu
Nền kinh tế Việt Nam trước năm 1986 bao gồm những giai đoạn khác nhau, với
những đặc điểm khác nhau, song nhìn một cách tổng quát, cơ chế quản lý là cơ chế quản
lý tập trung quan liêu bao cấp. Cơ chế này được duy trì trong một thời gian dài đã tích
góp những xu hướng tiêu cực, làm nảy sinh sự trì trệ, hình thành cơ chế kìm hãm sự phát
triển kinh tế - xã hội. Vấn đề đặt ra là phải đổi mới sâu sắc cơ chế đó. Phương hướng cơ
bản của sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta đã được Đại hội VI của Đảng xác
định và tiếp tục được Đại hội VII của Đảng khẳng định "Tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước"
(1)
.
Hiện nay, sự vận động của nền kinh tế Việt Nam đã chuyển sang một trạng thái gần
như hoàn toàn mới, vì vậy, quản lý kinh tế theo cơ chế cũ của Nhà nước không còn phù
hợp nữa. Cơ chế kinh tế mới đòi hỏi ở Nhà nước một sự thay đổi căn bản trong hoạt động
điều hành nền kinh tế để làm cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả cao. Nền kinh tế vận
hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN đã đặt ra yêu cầu Nhà nước Việt Nam
phải tăng cường quản lý vĩ mô nhằm định hướng và chỉ đạo sự phát triển của toàn bộ nền
kinh tế quốc dân, tạo môi trường thuận lợi và khung khổ pháp lý cho hoạt động kinh
doanh, phát huy mặt tích cực cũng như ngăn ngừa, khống chế các mặt tiêu cực của cơ chế
thị trường.
Vì vậy, việc nghiên cứu vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN có ý nghĩa thời sự và quan trọng trong tình hình đất nước hiện
nay. Với lý do như vậy, em đã chọn vấn đề "Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay" làm đề tài nghiên cứu.
(1)
Văn kiện Đại hội VII. Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000. NXB Sự thật, Hà
Nội, 1991 trang 23.
B.Nội dung
Phần i
đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta tính tất yêu khách quan vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền
kinh tế
i. Tính tất yếu khách quan vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước Đẩi với nền kinh tế thị
trường
1.Những điều kiện hình thành nền kinh tế hàng hoá & nền kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường (KTHH) là sự phát triển kế tiếp và biến đổi về chất so với nền
kinh tế tự nhiên trên cơ sở phân công lao động xã hội đã phát triển. KTHH là nền kinh tế
hoạt động theo quy luật sản xuất và trao đổi hàng hoá, sản xuất sản phẩm cho người khác
tiêu dùng thông qua trao đổi mua bán, trao đổi hàng-tiền. Nếu sản xuât để tư tiêu dùng thì
không phảI là nền KTHH, mà là nền kinh tế tự nhiến tự cấp tự túc. Ngay cả khi sản xuất
cho người khác tiêu dùng như phân phối dưới dạng hiện vật (hàng đổi hàng) cũng không
gọi là KTHH
Vậy, KTHH hình thành dựa trên sư phát triển của phân công lao động xã hội, của
trao đổi giữa những người sản xuất với nhau. Đó là kiểu tổ chưc kinh tế xã hội, trong đó
quan hệ trao đổi giữa người và người được thực hiện thông qua quan hệ trao đổi hàng hoá
giá trị
KTTT là nền kinh tế vận động theo những quy luật của thị trường trong đó quy
luật giá trị giữ vai trò chi phối và được biểu hiện bằng quan hệ cung cấp trên thị trường.
Các vấn đề về tổ chức sản xuất hàng hoá được giải quyết bằng sự cung ứng hàng hoá,
dịch vụ và nhu cầu tiêu dùng trên thị trường. Các quan hệ hàng hoá phát triển mở rộng,
bao quát trên nhiều lĩnh vực có ý nghĩa phổ biến đối với người sản xuất và tiêu dùng. Các
hoạt động sản xuất, dịch vụ…được quyết định từ thị trường về giá, sản lượng, chất lượng
vì động cơ đạt tới lợi nhuận tối đa.
Nền KTTT là giai đoạn phát triển cao của sản xuất hàn hoá. Nó nằm trong tiến
trình phát triển khách quan về kinh tế trong xã hội loài người.
*Những điều kiện bảo đảm cho nền KTTT hình thành và phát triển
Thứ nhất: Phải có nền KTHH phát triển, điều đó có nghĩa là phải có sự phân công
lao động xã hội phát triển, có các hình thưc, các loạI hình sở hưu khác nhau về tư liệu sản
xuất.
Thư hai: Phải có sự tự do trong trao đổi hàng hoá trên thị trường, tự do lựa chọn
bạn hàng giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh.
Trong một nền kinh tế có nhiều chủ thể cùng sản xuất một loại sản phẩm; và ngượi
lại mỗi chủ thể sản xuất và tiêu dùng cũn cần nhiêu loại hàng hoá khác nhau. Việc tự do
lựa chọn, xây dựng các mối quan hệ bạn hàng là điều kịên không thể thiếu được để các
chu thể kinh tế lựa chọn cho mình những phương án tối ưu. Đó là một điều kiện rất quan
trọng bảo đảm cho nền KTTT phát triển.
Trước đây trong đIều kiện nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, toàn bộ yếu tố đầu
vào, đầu ra, sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu, bằng cách nào và phân phối theo địa chỉ
nào…tất cả đều theo một hệ thống pháp lệnh chi tiết, cụ thể theo kế hoạch. Do vậy các
quan hệ thị trường trao đổi ngang giá không còn đúng nghiã nữa mà biến dạng đi rất
nhiều.
Thứ ba : Sản xuất và trao đổi hàng hoá phải tuân theo những quy luật của thị
trường, theo giá cả thị trường.
+ Quy luật giá trị đòi hỏi: hao phi lao động cá biệt của mỗi đơn vị sản phẩm của
chủ thể sản xuất kinh doanh bất kì phải nhỏ hơn hao phí lao động xã hội để sản xuất ra
đơn vị sản phẩm cùng loại trong cùng một thời gian và không gian nhất định. Đó là điều
kiện tiên quyết cho các chủ thể sản suất kinh doanh tồn tại và phát triển.
+Trong nền KTTT, một sản phẩm hàng hoá trao đổi phải thông qua giá cả thị
trường. Giá cả là hình thái biểu hiện bằng tiền của giá trị, có thể cao hơn hay thấp hơn đối
với một số hàng hoá nào đó.Song giá cả vẫn xoay quanh trục giá trị, xét trên một thời
gian dài tổng giá cả luôn bằng tổng giá trị. Và giá cả thị trường là hạt nhân của cơ chế thị
trường.
Muốn hình thành và phát triển KTTT, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải
tuân thủ giá cả thị trường. Đương nhiên giá cả thị trường không phảI là yếu tố duy nhất
có tác động quyết định đến người sản xuất. Căn cứ vào yêu cầu phát triển chung của nền
kinh tế, Nhà nước có thể cần phải điều tiết giá cả ở một số mặt hàng thiết yếu quan trọng
có, liên hệ chặt chẽ đến sự ổn định đời sống kinh tế xã hội, có lợi cho quốc kế dân sinh
nhằm hạn chế những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường…
Thứ tư: Trong điều kiện phân công lao động quốc tế đã vượt ra khỏi biên giới
quốc gia, việc tham gia phân công lao động quốc tế, gắn thị trường trong nước với thị
trường quốc tế là một yêu cầu khách quan. Không thể có một nền KTTT nào phát triển
được nếu hoạt động của nó bó hẹp trong khuôn khổ một quốc gia nhất định. Do vậy việc
tham gia phân công lao động quốc tế, mở rộng quan hệ với bên ngoài, gắn thị trường
trong nước với thị trường nước ngoài là điều kiện quan trọng cho sự phát triển kinh tế nói
chung và nền KTTT mang mầu sắc Việt Nam nói chung.
2. Các mô hình kinh tế thị trường.
Trên thực tế thế giới đã tồn tại nhiều mô hình KTTT như sau:
KTTT truyền thông Tây Âu.
KTTT kiển Nhật Bản.
KTTT xã hội Công Hoà Liên Bang Đức.
KTTT xã hội chủ nghĩa Trung Quốc.
KTTT có sự quản lý của Nhà nước.
Trong lịch sử, không ở đâu và không khi nào có hệ thống thị trường thuần tuý. ở
bất kì nền kinh tế nào người ta cũng tìm thấy sự hiện diện vai trò của Nhà nước. Nhà
nước đã và đang thục hiện những điều tiết kinh tế vĩ mô thông qua những công cụ của
mình nhằm đạt được một trật tự nhất đinh trong nền kinh tế xã hội.
Với sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản suất và của lợi ích của giai cấp
thống trị –giai cấp tư sản- đã đòi hỏi sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế càng tăng
lên. ở mỗi nước, đối với bất kỳ loại hình phương thức sản xuất nào, tuỳ theo mô hình và
phương thức tổ chức nền kinh tế hàng hoá, đều có sự can thiệp của Nhà nước. Sự can
thiệp đó chỉ khác nhau ở mức độ, phương thức can thiệp, phạm vi can thiệp và phụ thuộc
vào bản chất của Nhà nước.
ở Mĩ, từ đầu thế kỷ này đã bắt đầu mở rộng sự can thiệp của Nhà nước liên bang
đối với nền kinh tế .Vai trò của chính phủ liên bang biểu hiện trên các mặt sau đây:
-Thứ nhất: Chính phủ liên bang bang chịu trách nhiệm xây dựng và không chế
hoạt động thuộc kết cấu hạn tằng của nền kinh tế như đường xá giao thông, phương tiện
vận chuyển, thông tin liên lạc và năng lượng.
-Thứ hai: Tạo ra môi trường tự do cạnh tranh, xây dựng các đạo luật chống độc
quyền.
-Thứ ba: Kiểm soát các hoạt động kinh tế bằng các công cụ tài chính, tiền tệ, tổ
chức hệ thông ngân hàng hai cấp, ngân hàng trung ương và ngan hàng thương mại. Trong
đó, ngân hàng trung ương vừa làm chức năng dự trữ vữa làm chức năng điều tiết và kiểm
soát lượng tiền tệ được cung ứng thông qua hệ thống ngân hàng thương mại.
ở cộng hoà kiên bang Đức, phạm vi can thiệp của Nhà nước đối với nền kinh tế
hẹp hơn. Sau chiến tranh thế giới lần thứ !! Nhà nước cộng hoà liên bang Đức xxây dựng
nền kinh tế của mình theo mô hình “kinh tế thị trường xã hội”. Theo mô hình này, nền
kinh tế được hình dung như một sân bóng, trong đó mỗi doanh nghiệp là một cầu thủ.
Nhà nước không chơi mà đóng vai trò là người thiết kế luật chơi và dùng luật chơi để
điều khiển làm cho nền kinh tế có thể tránh được khủng hoảng thất nghiệp, lạm phát.
Khác với Mĩ và cộng hoà liên bang Đức, các Nhà nước Bắc Âu hình dung nền
kinh tế như một quá trình vận động từ sản xuất đến tiêu dùng, thông qua mắt khâu trung
gian là phân phối của cải dưới hình thức thu nhập. Bằng qyêfn lực hành chính Nhà nước
có thể can thiệp vào tất cả các mắt khâu hoặc vào một trong những mắt khâu nào đó. Can
thiệp vào đâu đó là tuỳ thuộc vào lợi ích thu được. Các Nhà nước bắc Âu đã lựa chọn
phương thức can thiệp vàokhâu phân phối lại thu nhập bằng công cụ thuế. Thông qua
việc điều chỉnh cơ cấu thuế và chi tiê các chính phủ Bắc Âu hướng nền kinh tế của họđến
các mục tiêu: Thu hẹp khoảng cách giữa người giàu và người nghèo, bằng cách đem lại
cho mọi thành viên trong xã hội một phúc lợi như nhau được tạo ra từ nguồn thu chủ yếu
từ thuế.
Các nước được kể ra trên đã rất thành công trong công việc tổ chức một nền kinh
tế thị trường có cự quản lý của Nhà nước. Mặc dù cách hể hiện vai trò của Nhà nước là
rất khác nhau. Điều này chứng tỏ vai trò điều tiết của Nhà nước là rất quan trọng, thêm
nữa không có mô hình nào là toàn diện và có thể áp dụng trên toàn thế giới, mỗi nước
phải tự tìm cho mình một cách thức riêng để điều tiết nền kinh tế của mình nhằm đạt
được mục tiêu mong muốn.
3. Xét về mặt nội dung của các giai đoạn phát triển của nền KTTT.
*Giai đoạn 1 : Những yêú tố cơ bản nhất của nền KTTT được tạo ra với ưu thế
của bàn tay vô hình của thị trường, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu đòi chế độ
tự quản.v.v Nhưng ngay từ đầu đã có sự can thiệp của bàn tay hữu hình của Nhà nước,
đồng thời phải tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá…
*Giai đoạn 2 : Tạo lập một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh mà ở đó vai trỏ của
Nhà nước ngày càng tăng. Trình độ quản lý kinh tế vĩ mô theo đó được nâng lên bao
hàm một sự biến đổi căn bản trong các hình thức tổ chúc thị trường về cơ cấu quản lý
KTTT. Sự tác động qua lạI và quy định lẫn nhau đó, theo nguyên tác tự dovà được kết
hợp chặt chễ theo khuôn khổ mục tiêu của nền KTTTcó sự qủn lý của Nhà nước.
*Giai đoạn 3: Những yêu tố mới của sự tiến bộ xã hội (khoa học công nghệ, dân
trí, quốc tế hoá…) càng đòi hỏi ở nền KTTT sự phát triển cao, tính xã hội của nền KTTT
càng tăng, vai trò cuả Nhà nước càng lớn và tương ứng với nó là sự thay đổi phương thức
quản lý thích hợp.
4. Những ưu thế của nền KTTT
a)Những ưu thế của nền KTTT thể hiện:
Thứ nhất: Thúc đẩy sản xuất, gắn sản xuất với tiêu thụ-mục tiêu của sản xuất. Do
đó người ta tìm mọi cách rút ngắn chu kì sản xuất, thục hiện táI sản xuất mở rộng, áp
dụng những thành tựu khoa học công nghệ…nhằm đật được lợi nhuận tối đa
Thư hai: Thúc đẩy và đòi hỏi các nhà sản xuất năng động thích nghi với các đIều
kiện biến động của thị trường. Thay đổi mẫu mã sản xuất,m tìm mặt hàng mới và thị
trường tiêu thị, mở rộng quan hệ trong kinh doanh, tìm cách đạt lợi nhuận tối đa.
Thư ba: Thúc đảy sự tiến bộ của khoa học công nghệ, kích thích tăng năng suất lao
động , nâng cao trình độ xã hội háo sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ gía
thành, đáp ứng yêu cầu nhiều mặt của khách hàng và của thị trường
Thư tư: Thúc đẩy sự tăng trưởng dồi dào của sản phẩm hàng hoá dịch vụ, thúc
đảy và kích thích sản xuất hàng hoá phát triển, đề cao trách nhiệm của nhà kinh doanh
đối với khách hàng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội.
Thứ nam: Thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung tư bản, tập trung dsản xuất. Tích
tụ và tập trung sản xuất là hai con đường để mở rộng quy mô sản xuất. Một mặt, các đơn
xị chủ thể làm ăn giỏi, có hiệu quả cao cho phép mở rộng quy mô sản xuất. Mặt khác, chỉ
những đơn vị làm ăn có hiệu quả thì mới tồn tạI, mới đứng được trên thị trường. Chính
quá trình cạnh tranh kinh tế là động lực thúc đẩy tích tụ và tập trung sản xuất.
a)Những khuyết tật của nền KTTT thể hiện:
Thứ nhất: Nền KTTT mang tính tự phát tìm kiếm lợi nhuận bằng bất kì giá nào,
không đi đúng hướng của kế hoạch nhà nước, mục tiêu về phát triển kinh tế vĩ mô của
nền kinh tế. Tính tự phát của thị trường còn dẫn đến tập trung hoá cao, sinh ra độc quyền,
thủ tiêu cạnh tranh, làm giảm hiệu quả chung.
Thứ hai: KTTT, “cá lớn nuốt cá bé” dẫn đến phân hoá đời sống dân cư, một bộ
phận dẫn đến phá sản, phân hoá giầu nghèo dẫn đến khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp và
số đông người lao động lâm vào cảnh nghèo khó.
Thứ ba: Xã hội phát sinh nhiều tiêu cực, tệ nạn xã hội gắn liền với hiện trạng nền
kinh tế sa sút, gây rối loạn xã hội. Nhà kinh doanh thường tìm đủ thủ đoạn, mánh
khoé_làm hàng giả, buôn lậu, trốn thuế…không từ bỏ một thủ đoạn nào nhằm thu được
lợi nhuận tối đa.
Thứ tư: Vì mục tiêu lợi ích cá nhân, dẫn đến sự sử dụng bừa bãi, tàn phá các
nguồn tài nguyên và huỷ diệt một cách tàn khốc tài nguyên môi trường sinh thái.
Thứ năm: Nền KTTT vận hành theo CCTT, có chế này có thể gây ra sự mất ổn
định thường xuyên, phá cõ cân đối trong nền sản xuất xã hội. Hởu quả tiêu cực của nó
thường đi liền với những vấn đề nan giải.Thực tế phát triển nền KTTT trong mấy chục
năm qua chỉ rõ vấn đề lạm phát, thất nghiệp và chu ky kinh doanh là những căn bênh
kinh niên không thể khắc phục được nếu không có sự can thiệp của Nhà nước.
Thêm nữa, trong nền KTTT thường tồn tại những ngành nghề kinh tế thiếu sự
cạnh tranh vì ở đó có mức lợi nhuận thấp, số vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn rất
chậm nhưng rất càn cho sự ổn định phát triển kinh tế và rất cần cho việc giải quyết những
vấn đề xã hội…
Qua trên ta thấy, nền KTTT có khả năng tập hợp tự động được hành động, trí tuệ
và tiềm lực của hàng triệu con người và hướng đến lợi ích chung của cả xã hội. Nhưng
nền KTTT không phải là một hệ thống được tổ chức hài hoà mà trong hệ thống đó cũng
chứa đựng rất nhiều các yếu tố phức tạp và nan giải. Vì vậy để khắc phục, hạn chế những
tác động tiêu cực của cơ chế thị trường (CCTT) cần thiết phải có sự can thiệp của chính
phủ vào nền kinh tế. Từ đó hình thành khái niệm CCTT có sự quản lý của nhà nước. Đó
là một dạng đặc biệt của loại hình KTTT. Nếu như sự vận động của nền KTTT truyền
thống, cổ điển, hoang dã tuân theo sự điều khiển của “bàn tay vô hình” cung- cầu - giá cả
thì sự vận động của nền KTTT có sự quản lý (điều khiển, điều tiết) của Nhà nước tuân
theo sự điều khiển song hành, tức là sự tác động cùng một lúc của hai yếu tố :Yếu tố tự
vận động bởi quan hệ cung_cầu và yếu tố nhà nước tức là vai trò của Nhà nước trong
việc quản lý nền kinh tế. Theo bản chất của mình, nền KTTT có sự quản lý của nhà nước
không chỉ vận động theo CCTT, cũng không chỉ vận động theo cơ chế chỉ huy mà vận
động bởi sự tác động đồng thời của hai cơ chế ấy. Chính vì vậy người ta gọi đó là cơ chế
hỗn hợp. Như vậy, nền kinh tế hỗn hợp là nền kinh tế vận động theo CCTT có sự quản lý
của Nhà nước.
Trong KTTT, Nhà nước với tư cách là người điều hành, quản lý xã hội, đồng thời
là khách hàng lớn của các chủ thể kinh tế. Nhà nước thường bảo đảm các dịch vụ bưu
điện, thông tin liên lạc, phát thanh, truyền hình, giao thông vận tải…Nhà nước dùng pháp
luật để điều hành; dùng các chính sách như chính sách đối nội, đối ngoại, chính sách kinh
tế và những công cụ khác để tác động, vạch ra kế hoạch phát triển, hạn chế những tiêu
cực do KTTT sinh ra, chống khủng hoảng và thất nghiệp v.v
Sự can thiệp của Nhà nước một mặt nhằm định hướng thị trường, phục vụ tốt các
mục tiêu kinh tế-xã hội trong từng thời kỳ; mặt khác, nhằm sửa chữa, khắc phục những
khuyết tật vốn có của KTTT, tạo ra những công cụ quan trọng điều tiết thị trường mà
không vi phạm cơ chế tự đIều chỉnh ở tầm vĩ mô. Bằng cách đó, Nhà nước kiềm chế sưc
mạnh nguy hiểm của tính tự phát chứa đựng trong lòng thị trường, đồng thời phát huy
được những ưu thế vốn có của KTTT.
Cũng từ những khuyết tật mà ta phân tích ở trên của nền KTTT , ta nhận thấy tính
tất yếu khách quan vai trò của Nhà nước đối với nền KTTT mà không cần thiết phải đi
sâu phân tích quá trình lịch sử rồi mới đi đến kết luận. (đây là suy nghĩ mang tính chất
chủ quan của riêng em, nếu có sai xót em rất mang được sự chỉ bảo từ thầy).
ii. cơ chế thị trường ở nước ta và Các đặc đIểm, đặc trưng của kttt định hướng
XHCN
1.Về đặc điểm của cơ chế thị trường hiện nay
Có nhiều cách tiếp cận, phân tích, lý giải khác nhau khi nhìn vào sự vận động của
nền kinh tế hiện nay. Mục này trình bày những đặc trưng của cơ chế thị trường trên cơ sở
nhìn lại những năm đổi mới, đồng thờicó kiên hệ đến bước đi, những quá trình có tính
quy luật của bước chuyển từ nền kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế thị trường có cự quản lý
của Nhà nước theo định hướng XHCN.
Với cách tiếp cận như trên, những đặc điểm lớn của nền kinh tế thị trường cơ chế
thị trường hiện nay ở nước ta là:
a) Từng bước thực hiện những quá trình mang tính quy luật của bước chuyển
từ nên kinh tế tập trung bao cấp sang CCTT có sự quản lý của Nhà nước, với tự do hoá
thương mại và tự do hoá giá cả là khâu trung tâm đột phá; từng bước chuyển lên CCTT
đích thực.
Cơ chế đó là phát huy vai trò điều tiết của thị trường, hình thành bước đầu một thị
trường canh tranh, làm cho hàng hoá được lưu thông thông suốt, cung cầu được cân đối,
khắc phục tình trạng khủng hoảng thiếu, giá cả ổn định dần, lạm phát được ngăn chặn.
CCTT đã góp phần thúc đẩy việc phải xử lý những vấn đề mấu chốt làm đảo lộn
cả hệ thống tư duy và quan điểm kinh tế cũ như vấn đề sở hữu, với sự thừa nhận và đánh
giá cao chính sách kinh tế nhiều thành phần, chuyển từ thái độ kỳ thị và phân biệt đối xử
với kinh tế tư nhân sang chính sách đối xử binh đẳng; đồng thời cũng xác định được
những biện pháp nâng cao hiệu quả của khu vực kinh tế quốc doanh cho phù hợp với
thực tiễn nước ta.
Cơ chế tài chính, tiền tệ, tín dụng, giá cả, lãi suất… đã từng bước được đổi mới
đặc biệt cơ chế giá và tỉ giá được hình thành thông qua thị trường đã tạo ra bước ngoặt
trong cơ chế kinh tế.
b) CCTT còn thiếu đồng bộ, mang nhiều yếu tố tự phát, rối loạn-sản phẩm
của một nền kinh tế cơ bàn là sản xuất nhỏ, của sự yếu kếm của bộ máy quản lý Nhà
nước, tình trạng quan liêu thiếu hiểu biết, thâm trí trì trệ bảo thủ trước bước ngoặt chuyển
đổi cơ chế quản lý kinh tế.
Trước hết có thể thấy thể chế thị trường chưa tạo môi trường ổn định và an toàn
cho sản xuất kinh doanh, đặc biệt những yêu kém trong thể chế tài chình tín dụng là lực
cản của quá trình chuyển đổi.
CCTT còn thiếu đồng bộ, có sự không ăn khớp giữa hai thị trường: thị trường
hàng hoá thì phát triển khá mạnh mẽ trong khi thị trường các nhân tố sản xuất thì có sự
lạc hậu khá lớn.
Thêm nữa, sự hình thành và vận độnh của nần KTTT còn mang nhiều yêu tó tự
phát, cơ chế vận hanh thô sơ tạo đIều kiện cho làm ăn bất chính; cơ chế quản lý thì đổi
mới thiếu triệt để tạo mội trường thuận lợi cho tệ nạn tham nhũng và các mặt tiêu cực của
thị trường phát sinh, phát triển.
c) CCTT có sự quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế định hướng XHCN là vấn
đề vẫn còn mới mẻ, chưa có tiền lệ trong lịch sử và không có mô hình vạch sẵn. Do vậy
không thể ngay từ đầu hình dung toàn bộ các chi tiết của mô hình thị trường; cũng không
thể vạch ngay được một lịch trình cứng nhắc của bước chuyển mà phải vừa thực hiện
CCTT vừa tổng kết để tiếp tục thực hiện.
d) Chúng ta chủ chương chuyển sang CCTT trên cơ sở ổn định chính trị; lấy ổn
định chính trị làm tiền đề cho ổn định và cải cách kinh tế; mặt khác cũng cũng nhận thức
rõ phải đổi mới mạnh mẽ trong kĩnh vực hành chính, trên cơ sở đổi mới quản lý Nhà
nước, tiếp tục ổn định chính trị đưa cải cách tiến lên một bước tiên mới, kiên định phát
triển kinh tế-chính trị theo con đường XHCN.
Định hướng XHCN là không thay đổi, tuy vậy cũng có những nhận thức mới về
chủ nghĩa xã hội, khẳng định rằng CNXH có thể sử dụng những công cụ phổ biến mà
CNTB đã từng sử dụng như thị trường , các quan hệ hàng hoá-tiền tệ, quy luật giá trị v.v
cho mục tiêu của mình.
Xuất phát từ thực tế thị trường nước ta đang trong thời kì hình thành và phát triển,
trong nó còn tồn tại những yếu tố mất ổn định. Từ chỗ nền kinh tế thực chất từ lâu là nền
kinh tế nhiều thành phần, nên đã không chủ chương tư nhân hoá một cách tràn làn, mà
chủ chương phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần và xây dựng thành phần kinh tế
quốc doanh làm chỗ dựa của Nhà nước ở các khâu và các lĩnh vực then chốt để nhằm ổn
định cho định hướng thị trường.
Đảng ta khảng định vai trò của Nhà nước trong việc bảo đảm chính sách xã hội, xử
lý hài hoà giữa tăng trưởng và ổn đinh; giữa phát triển kinh tế với việc thực hiện những
chính sách xã hội và công bằng xã hội. Thêm nữa để tiếp tự thực hiện phương châm ổn
định để phát triền, Nhà nước ta phải đổi mới hơn nữa, nhận thức rõ vai trò của mình trong
điều kiện mới, phải thay đổi chất lượng, tác phong của bộ máy, chuyển tử tác phong chỉ
huy mệnh lệnh sang tác phong hỗ trợ, tạo môi trường phuận lợi cho thị trường phát
triển…Điều đó nói lên tầm quan trọng đặc biệt của Nhà nước XHCN trong hoạt động của
thị trường nước ta.
2. Đặc trưng cơ bản của nền KTTT theo định hướng XHCN ở Việt Nam
Nền KTTT định hướng XHCN cũng có tính chất chung của nền kinh tế, nên kinh
tế vận động theo những quy luật vốn có của KTTT như quy luật giá trị, quy luật cung
cầu, quy luật cạnh tranh. Thị trường có vai trò quyết định trong việc phân phối các nguồn
lực kinh tế. Giá cả do thị trường quyết định Nhà nước thực hiện điều tiết kinh tế vĩ mô để
giảm bớt những thất bại của thị trường.
Nhưng bất cứ nền KTTT nào cũng hoạt động trong những điều kiện lịch sử-xã hội
của một nước nhất định nên nó bị chi phối bởi những điệu kiện lịch sử và đặc biệt là chế
độ xã hội của nước đó, và do đó có những đặc điểm riêng phân biệt với nền KTTT của
các nước khác. Nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam có những đặc trưng sau đây.
Thứ nhất : Nền kinh tế dựa trên cơ sở cơ cấu đa dạng về hình thức sỡ hữu.Trong
đó sở hữu Nhà nước làm chủ đạo. Do đó nền kinh tế gồm nhiều thành phần,trong đó kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta, thành phần kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo.Việc xác định thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo là sự khác
biệt có tính chất bản chất giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với KTTT
của các nước khác.Tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở nước ta đã quy
định kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế.
Thứ hai : Trong nền KTTT định hướng XHCN ,thực hiện nhiều hình thức phân
phối thu nhập; phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, phân phối dựa trên
mức đóng góp các nguồn lực vào sản xuất kinh doanh; Phân phối thông qua các quỹ phúc
lợi xã hội, trong đó phân phối theo kết quả lao động giữ vai trò nòng cốt, đi đôi với chính
sách điều tiết thu nhập một cách hợp lý.Chúng ta không coi bình đẳng xã hội như là một
trật tự tự nhiên, là điều kiện của sự tăng trưởng kinh tế, mà thực hiện mỗi bước tăng
trưởng kinh tế gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội.
Như đã biết, mỗi chế độ xã hội có một chế độ phân phối tương ứng với nó. Chế độ
phân phối do quan hệ sản xuất thống trị, trước hết là quan hệ sản xuất quyết định. Phân
phối có liên quan đến chế độ xã hội, chínhtrị. Dưới CNTB, việc phân phối tuân theo
nguyên tắc giá trị; đối với người lao động theo giá trị sức lao động. Như vậy thu nhập của
người lao động chỉ giới hạn ở giá trị sức lao động mà thôi. Chủ nghĩa xã hội có đặc trưng
riêng về sỡ hữu, do đó chế độ phân phối cũng có đặc trưng riêng. Phân phối theo lao
động là đặc trưng riêng của chủ nghĩa xã hội. Thu nhập của người lao động không chỉ
giới hạn ở sức lao động mà nó phải vượt qua đại lượng đó, nó phụ thuộc chủ yếu vào kết
quả lao động và hiệu quả kinh tế.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta gồm nhiều thành
phần kinh tế. Vì vậy cần thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập. Chỉ có như vậy
mới khai thác được khả năng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần kinh tế, huy động được mọi
nguồn lực của đất nước vào phát triển kinh tế.
Thứ ba : ở nước ta, cơ chế vận hành nền kinh tế là CCTT có sự quản lý của nhà
nước theo định hướng XHCN cũng vận động theo những quy luật kinh tế nội tại của nền
kinh tế thị trường nói chung, thị trường có vai trò quyết định đối với việc phân phối
nguồn lực kinh tế. Sự quản lý nhằm hạn chế, nhằm khắc phục những thất bai của thị
trường, thực hiện mục tiêu xã hội nhân đạo mà bản thân thị trường không thể làm được.
Thứ tư : Nền kinh tế thị trường ở nước ta là nền kinh tế mở, hội nhập với kinh tế
thế giới và khu vực, thị trường trong nước gắn với thị trường thế giới, thực hiện những
thông lệ trong quan hệ kinh tế thế giới, nhưng vẫn giữ được độc lập chủ quyền và bảo vệ
được lợi ích quốc gia dân tộc trong quan hệ kinh tế đối ngoai. Thực ra đây không phải là
đặc trưng riêng của kinh tế thị trường định hướng mà là xu hướng chung của nền kinh tế
thế giới hiện nay. Trong điều kiện hiện nay chỉ có mở cửa kinh tế hội nhập vào kinh tế
thế giới và khu vực mới thu hút được vốn, kỹ thuật công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản
lý tiên tiến để khai thác tiềm năng và thế mạnh của nước ta, thực hiện phát triển kinh tế
thị trường theo kiểu rút ngắn. thực hiện mở cửa kinh tế theo hướng đa phương hoá và đa
dạng hoá. Các hình thức kinh tế đối ngoại hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế
nhập khẩu những sản phẩm kỳ mức sản xuất có hiệu quả.
Phần II
Mục tiêu và chức năng quản lý vĩ mô của Nhà nước và
một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới và tăng cường
vai trò kinh tế của Nhà nước ya hiện nay
1. Mục tiêu quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước
1. Mục tiêu
Thông qua tác động đối với nền kinh tế, Nhà nước một mặt kiểm soát và hỗ trợ sự
phát triển của bản thân nền kinh tế và mặt khác điều chỉnh cơ cấu và thúc đẩy tiến bộ xã
hội. Tạo được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định là một thách thức đối với nền
kinh tế Việt Nam hiện nay. Nhưng kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội còn là
một thách thức lớn hơn.
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau đối với vấn đề này. Có ý kiến cho rằng cần tăng
trưởng trước sau đó mới đảm bảo công bằng xã hội. Với cách tiếp cận này, kinh tế sẽ
phải là lĩnh vực mà Nhà nước tập trung chú ý trước hết. Còn ý kiến khác lại cho rằng Nhà
nước cần phải có các chính sách tác động đồng thời tới cả hai mặt kinh tế-xã hội để đảm
bảo một sự phát triển cân đối nhất định và bền vững của toàn xã hội và của các cộng
đồng dân cư khác nhau trong. Quan điểm về việc xây dựng nền kinh tế thị trường có định
hướng XHCN chính là thuộc ý kiến này. Theo quan điểm này, việc đánh giá tác động của
Nhà nước đối với nền kinh tế sẽ không chỉ dựa vào các chỉ tiêu tăng trưởng và hiệu quả
kinh tế, mà còn dựa vào các kết quả về mặt xã hội.
Xét trên phương diện kinh tế học, có thể nói chính phủ có ba chức năng kinh tế
chính trong nền KTTT, đó là: nâng cao tính hiệu quả; khuyến khích công bằng và ổn định
kinh tế vĩ mô.
2.Nhà nước Việt nam cần phải làm gì để hoàn thành chức năng quản lý nền
KTTT.
Quản lý nền kinh tế quốc dân là sử dụng hàng loạt các công cụ, chính sách kinh tế,
pháp chế kinh tế, nhằm can thiệp, đIều tiết các quá trình kinh tế để nhằm đạt được mục
tiêu ổn định và phát triển kinh tế. Trên cơ sở những kinh nghiệm đã đúc kết trong nước
và quốc tế có thể cho rằng vai trò quản lý vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước ta trong nền
kinh tế mới thể hiện ở những điểm sau:
a.Nhà nước cần phải xây dựng các chương trình kế hoạch phát triển kinh tế xã
hội phù hợp vơi điều kiện của nước ta theo các mục tiêu mong muốn.
Trong nền kinh tế của chúng ta hiên nay, các doanh nghiệp được quyền tư do lựa
chọn hững phương án sản xuất kinh doanh, Nhà nước không can thiệp vào hoạt động của
họ vào việc sản xuất ra cái gì? bằng cách nào? Trong khi lựa chọn các phương thức sản
xuất kinh doanh, các doanh nghiệp lấy lơi nhuận làm thước đo hiệu qủa, đồng thời làm
mục tiêu định hướng cho hành vi của họ. Trong nền kinh tế của ta hiện nay có rất nhiều
các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau và cạnh tranh có thể dẫn tới sự
triệt tiêu các nguồn lực kinh tế, làm cho môi trường kinh doanh bị phá huỷ và nền kinh tế
không thể nào phát triển.
Khác với doanh nghiệp vai trò quản lý kinh tế của nhà nước là ở chỗ, Nhà nước
theo mục tiêu chung của dân tộc là làm cho dân giàu nước mạnh, làm cho nền kinh tế
tăng trưởng một cách ổn định, vững chắc đảm bảo hiệu quả và công bằng xã hội.
Bằng việc định hướng sự phát triển của nền kinh tế, Nhà nước quản lý và can thiệp
vào các doanh nghiệp với mục tiêu làm giàu cho đất nước.Thực chất của sự định hướng
sự phát triển cả nền kinh tế là thông nhất các lợi ích khác nhau, quy tụcác lợi ích khác
nhau về cùng một lợi ích để khi mỗi người theo đuổi lợi ích cá nhân của mình thì cũng
đồng thời góp phần của mình vào việc theo đuổi lợi ích của dân tộc. Chính vì vậy để có
thể hoàn thành chức năng định hướng nền kinh tế nhà nước phải tạo ra công cụ định
hướng để quy tụ hành động của doanh nghiệp và người tiêu dùng cá biệt, để làm được
điều này nhà nước cần phải có:
- Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội dài hạn
Vai trò điều tiến nền kinh tế của nhà nước chính là ở chỗ nhà nước là người hoạch
định các chương trình phát triển kinh tế xã hội, mà mỗi chương trình là một cơ hội đầu tư
mổ rông sản xuất cho doanh nghiệp. Như vậy, bằng cách hoạch định các chương trình
phát triển kinh tế, Nhà nước dẫn dắt các doanh nghiệp, chỉ cho họ thấy chõ nào là có thể
và cần phải đầu tư vào nơi nào là lợi cho mình đồng thời là lợi cho dân tộc. Bằng việc
hoạch định các chiến lược phát triển kinh tế xã hội Nhà nước có thể thực hiện đựơc ý đồ
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành, theo vùng lãnh thổ, khai thác và sử dụng có hiệu
quả tài nguyên, đưa thị trường trong nước hoà nhập với thị trường thế giới làm cho nền
kinh tế phát triển tăng trưởng một cách vững chắc công bằng và hiệu qủa.
- Kế hoạch hoá định hướng
Kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế xã hội do Nhà nước đề ra. Tuy vậy cần
phải có sự phân biệt, không nên nhầm lẫn giữa cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp và
kế hoạch hoá định hướng.
Nội dung kế hoạch và phương thức kế hoạch của nhà nước trong mô hình kinh tế
mới phải thay đổi theo hướng sau:
+Kế hoạch mang tính định hướng.
+Kế hoạch hoá không chỉ là giao chỉ tiêu thực hiện mà cò là đều phối sự thực hiện
theo dự án.
b. Tạo một môi trường thụân lợi cho nền sản xuất hàng hoá nhiều thành phần
phát triển.
Mỗi cơ chế kinh tế thỉ có thể hoạt động khi có môi trường với những điều kiện
kinh tế xã hội cần và đủ. Thực tiễn cho thấy con đường lịch sử tự nhiên của các nước có
nền kinh tế thị trường phát triển rất lâu dài. Ngay nay, nhờ vào những kinh nghiệm của
các nước đI trước, các nước đI sau có thể rut ngắn chặng đường của mình chỉ bằn cách:
Nhà nước chủ động sử dụng kiến trúc thượgn tầng-quyền lực nhà nước để tạo ra môi
trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp yên tâm đàu tư mở rộng, phát triển sản
xuất. đẻ hoàn thành vai trò đó nhà nước cần phải:
-Tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tự do hoá giá cả, thương mại hoá nền kinh
tế.
-Quy định và bảo đảm các quyền của người chủ sở hữu về tư liệu sản xuất
- Đa dạng hoá về chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất.
- Xây dựng hệ thống pháp luật của nền kinh tế thị trường
- ổn định về chính trị xã hội
c) Phân phối quốc dân một cách công bằng, hiệu qủa tạo ra động lực cho sản
xuất.
Trong nền KTTT, thị trường càng mở rộng sự hoạt động của quy luật càng đẫn
đến sự phân hoà thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, chia lẻ đan cư thành các tầng lớp
khác nhau trong quan hệ của họ với quyền kực kinh tế và quyền lực chính trị. Tình trạng
bất bình đẳng khi vượt quá khuôn khổ cho phép sẽ dẫn đên sự phản ứng của dân cư tong
lĩnh vực chính trị xã hội, sự mâu thuẫn gay gắt về lợi ích giữa các giai cấp có thể đe doạ
sự ổn định về mặt chính trị, tạo ra môi trường không lành mạnh cho các doanh nghiệp
làm ăn. Nhà nước phải hoàn thành chức năng phân phối lại thu nhập của các tầng lớp dân
cư sao cho thoả mãn yêu cầu công bằng và hiệu quả.
Trong nền KTTT sự khác nhau về sở hữu của cải, về năng lực sở trường , trình độ
tay nghề và cả may mắn cũng dẫn đến sự khác nhau về thu nhập. Nhà nước phải biết
phân phối lại như thế nào cho hiệu quả trong giới hạn bất bình đẳng cho phép.
Để giải quyết tình trạng bất bình đẳng trong thu nhập, cần thiết phải xây dựng lạI
hệ thống thuế để đIều tiết một phần thu nhập của lớp người giàu có. Đồng thời cần giúp
đỡ những ngường nghèo có cơ hội trở thành giàu có. Nhà nước cần phải giúp đỡ họ tạo
công ăn việc làm, bồi dưỡng nâng cao trinh độ học vấn, trình độ nghiệp vụ, cho vay vốn
ban đầu với chế độ ưu đãi thích đáng. Đòng thời cần phảI hình thành các quỹ trợ cấp bảo
hiểm từ nguồn vốn ngân sách và tư nguồn vốn huy động của dân để giúp đỡ cho những
người tạm thời thất nghiệp, những người già yêu…
Cần chú ý rằng phân phối lại thu nhập, hình thành các quỹ trợ cấp là một trong
những công cụcó hiệu lực nhất để định hướng XHCN của một nền kinh tế. Thể hiện tính
cộng đồnhg dân tộc trong các chương trình phát triển kinh tế xã hội.
d) Can thiệp vào quá trình kinh tế khi cần thiết
Định hướng, tạo môi trường, phân phối thu nhập là những công việc cần thiết thể
hiện vai trò của nhà nước trong một chiến lược dài hạn. Trong quá trình thực hiện các
chiến lược đó, dưới ảnh hưởng của cơ chế cung cầu-giá cả trong thị trường nội địa, đồng
thời dưới ảnh hưởng sủa quan hệ kinh tế quốc tế, chính vì vậy trong quá trình thực hiện
mục tiêu định hướng của các chương trình dài hạn, những cú sốc làm chệch mục tiêu là
điều không tránh khỏi. Trong trường hợp đó, Nhà nước cần phải sử dụng những công cụ
như lãi suất, thuế, khối lượng tiền tệ và chi tiêu ngân sách để làm giảm những trấn động
do cú sốc gây ra, đưa nền kinh tế đi theo định hướng.( Các công cụ như vậy sẽ được em
trình bày kỹ hơn trong phần sau.)
e) Quản lý tài sản quốc gia, phân bố các nguồn lực một cách hợp lý
Trong nền KTTT ở nước ta, nhà nước cùng một lúc phải hoàn thành hai nhiệm vụ
lớn trong lĩnh vực kinh tế:
-Điều khiển sự vận động của một nền kinh tế bằng cách hoạch định các chiến lược
phát triển kinh tế xã hội dài hạn và ngắn hạn, quyết định các phương án phân phối và
phân phối lại thu nhập quốc dân sao cho bình đẳng công bằng, hiệu quả, tạo môi trường
thuận lợi, hướng dẫn các doanh nghiệp làm ăn can thiệp vào nền kinh tế mỗi khi có các
cú sốc, chấn động, để làm giàu và đạt được mục tiêu hiệu quả chung của toàn xã hội.
-Ngoài chức năng điều khiển nền kinh tế, nhà nước còn phải đóng vai trò người
quản lý tài sản quốc gia, phân bố các nguồn lực của sản xuất một cách hợp lý.
Nhà nước là người thay mặt nhân dân quản lý các đặc quyền đặc lợi về kinh tế trên
phương diện quốc gia.Về mặt đối ngoại Nhà nước có trách nhiệm bảo vệ các nguồn lực,
ngăn chặn mọi âm mưu từ bên ngoài và các đặc quyền đặc lợi trong lòng đất, vùng trời
vùng biển….Về mặt đối nội Nhà nước là người sở hữu các nguồn lực này đồng thời có
trách nhiệm phân bổ sử dụng giữa các thành phần kinh tế một cách hợp lý.
Đồng thời Nhà nước còn là chủ sở hữu của khu vực doanh nghiệp nhà nước. Với
tư cách là người quản lý, Nhà nước quan lý trực tiếp và đóng vai trò độc quyền ở các thị
trường quan trọng, quyết định sự tồn tại của thể chế. Với tư cách là người chủ quản lý đất
nước, Nhà nước là người trọng tài, là chủ thể của quá trình phân công lại vai trò của các
thành phần kinh tế.
2.Vai trò của Nhà nước Việt Nam trong thời kì chuyển sang nền kinh tế vận
hành theo cơ chế thị trường.
Nền kinh tế của chúng hiện đang trải qua thời kỳ quá độ, chuyển từ nền kinh tế
kế hoạch hoá tập trung mang nặng tính hiện vật, tự cung tự cấp vận hành theo cơ chế chỉ
huy sang nền KTTT có sự quản lý của nhà nước. Mặc dù sự chuyến biến này đã được
thực hiện từ lâu song cơ chế cũ vẫn chưa hoàn toàn mất đi và cơ chế mới chưa thực sự ra
đời. Chính vì vậy mà vai trò của Nhà nước là vô cùng quan trọng. Lịch sử sự chuyển biến
từ nền kinh tế sản xuất hàng hoá TBCN sang nền KTTT phải mất hàng trăm năm. ở nước
ta, Nhà nước đóng vai trò hết sức quan trong để rút ngắn chặng đường lịch đó. Xuất phát
tư mũ tiêu đó, trong thời kì chuyển biến này, Nhà nước cần thực hện những nhiệm vụ sau
đây:
- Nhà nước sử dụng những quyền lực kinh tế chính trị của mình để tiếp tự
quá trình tự do hoá giá cả, thương mại hoá nền kinh tế với các nội dung cơ bản là:
+ Xoá bỏ tình trạng độc quyền, xây dựng các đạo luật chống độc quyền bằng cách
tạo điều kiện cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp.Thực tế giá cả trên thị trường
nước ta đối với một số mặt hàng vẫn còng trong tình trạng độc quyền, ví dụ như giá điện,
nước hay cước phí đện thoại v.v Việc xoá bỏ độc quyền đối với những mặt hàng phục vụ
đời sống nhân sinh là việc làm cần thiết và có lợi.
+ Tạo ra các điều kiện, các tiên đề kinh tế-pháp lý cho sự hoạt động của các thị
trường cần thết như thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thị trường lao động. Đây là
các loại thị trường hiện đã hình thành và đang phát triển nhưng vẫn còn ở trình độ thấp so
với khu vực và thế giới.
- Nhà nước là người đảm nhận vai trò thiết lập và duy trì quyền sở hữu các
nguồn lực kinh tế theo hướng xác định rõ chủ sở hữu đích thực của công dân, của các
doanh nghiệp tập thể, tư nhân và Nhà nước.
- Nhà nước đóng vai trò “bà đỡ” cho sự ra đời của cơ chế thị trường, các
thành phần kinh tế, hướng dẫn các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau
kinh doanh có hiệu quả. Muốn làm được điều đó Nhà nước cần phải:
+ Xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, tạo môi trường đầu tư hấp dẫn cho các doanh
nghiệp và các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
+ Xây dựng các khuôn khổ pháp lý sao cho thoả mãn các yêu cầu: Một mặt các
doanh nghiệp tự do kinh doanh, mặt khác Nhà nước vẫn có thể kiểm soát nghĩa vụ của
các doanh nghiệp trước Nhà nước .
+ Ban hành các chính sách kinh tế hấp dẫn để khuyến khích các doanh nghiệp
trong và ngoài nước đầu tư mở rộng sản xuất.
- Cải tổ bộ máy hành chính sao cho gọn nhẹ năng động, đơn giản hoá các thủ tục
hành chính. ( Thực tế hiện nay của nước ta, đây là một vần đề hết sức phức tạp. Bộ máy
Nhà nước cồng kềnh, trở thành một cản trở lớn cho Nhà nước thực hiện vai trò của mình;
thủ tục hành chính phức tạp trở thành sự cản trở cho sự phát triển kinh tế nói chung.)
II. Một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới và tăng cường vai trò kinh tế của Nhà
nước.
1. Vì sao phải đổi mới và tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước ta hiện
nay.
Nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN đã đặt ra những nhiệm vụ cụ thể
cho Nhà nước. Chỉ chừng nào hoàn thành được nhiệm vụ đó thì Nhà nước mới hoàn
thành được nhiệm vụ “ định hướng XHCN” nền KTTT ở nước ta.
Khó khăn đặt ra ở đây là chúng ta xây dựng nền KTTT trong bối cảnh nền kinh tế
kém phát triển, năng suất lao động thấp; sức người, sức của của nền sản xuất nhỏ; sự ảnh
hưởng của nền kinh tế kế hoạch tập trung còn đang tồn tại dai dẳng trong mỗi chủ thể
kinh tế; đồng thời chúng ta lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh gay gắt, nguy cơ
tụt hậu luôn đe doạ.
Về mặt chủ quan, việc chuyển từ thói quen quản lí nền kinh tế kế hoạch tập trung
sang quản lí nền KTTT là một công việc không dễ dàng. Cùng một lúc, Nhà nước phải
bứt ra khỏi những ràng buộc của thói quen quản lí nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, lại
vừa phải tìm phương thức phương pháp quản lý cho bối cảnh kinh tế mới. Thêm nữa,
mặc dù đã chuyển sang nền kinh tế thị trường nhưng chúng ta còn vấp phải những khó
khăn về mặt kinh tế như mức tích luỹ và đầu tư trong nước còn thấp. Nguồn đầu tư trong
nước hạn hẹp phản ánh tình hình thu nhập thấp của Việt Nam và nguồn vốn tích luỹ trong
nước còn rất hạn chế. Bên cạnh đó hệ thống ngân hàng, hệ thống tài chính là công cụ chủ
đạo của Nhà nước trong quản lí vĩ mô nền kinh tế đã được đổi mới nhưng còn chậm,
chưa đáp ứng được yêu cầu. Cải cách hành chính còn chậm, chưa theo kịp yêu cầu đổi
mới kinh tế, bộ máy cồng kềnh, năng lực quản lí yếu kém, thủ tục phiền hà, luật pháp còn
thiếu và chưa đồng bộ.
Về các nhân tố xã hội và môi trường bao gồm hệ thống giáo dục đào tạo, vấn đề
môi sinh và tình trạng thất nghiệp. Hiện nay, hệ thống giáo dục đào tạo của Nhà nước ta
cồn chưa ổn định, cơ chế quản lí còn chưa đồng bộ, thống nhất trong cả nước. ở những
vùng cao “giáo dục đào tạo” còn quá xa vời. Chính sự thiếu hiểu biết là một trong những
nguyên nhân gây ra sự ô nhiễm môi trường. Rừng bị khai thác bừa bãi, khói ô nhiễm
ngày một nhiều. Bên cạnh đó, tỉ lệ thất nghiệp ngày càng gia tăng. Hậu quả của nó là
“sản sinh” ra không biết bao nhiêu tệ nạn xã hội. Đây đều là những vấn đề gây cản trở
nặng đến sự phát triển kinh tế Việt Nam và luôn đòi hỏi sự quan tâm đặc biệt của Nhà
nước.
Tất cả những khó khăn trên đặt Nhà nước trước những thử thách khắc nghiệt. Để
giải quyết tốt những vấn đề này, chúng ta phải không ngừng tăng cường vai trò kinh tế
của Nhà nước để Nhà nước đủ mạnh thực hiện thành công những chức năng của mình.
3. Một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước.
Nhà nước thực hiện sự quản lý của mình đối với nền kinh tế thông qua các công
cụ như pháp luật, chính sách kế hoạch hoá, chính sách tài chính tiền tệ, chính sách thu
nhập-phân phối và chính sách xuất nhập khẩu. Trước những khó khăn còn tồn đọng, để
tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay,
chúng ta cần thực hiện triệt để và có hiệu quả một số giải pháp cơ bản sau:
- Đổi mới công tác kế hoạch hoá theo xu hướng kế hoạch hoá định hướng đồng
thời đổi mới hệ thống các mục tiêu định hướng.
Kế hoạch hoá là công cụ quản lý liên ngành của Nhà nước. vai trò chủ yếu của kế
hoạch hoá ở tầm vĩ mô là thúc đẩy hình thành cơ cấu hợp lí vì vậy cần đảm bảo tính
thống nhất trong cân đói các nguòn lực, lựa chọn phương hướng phát triển đúng đắn và
động viên được sức lực, trí tuệ của toàn xã hội thực hiện thắng lợi những mục tiêu đề ra
- Đổi mới hệ thống pháp chế kinh tế theo hướng dân chủ hoá nền kinh tế.
+ Trong việc hoàn thành hệ thống pháp luật kinh tế, chúng ta đang phải đối mặt
với một khó khăn lớn: phải tạo lập một hệ thống pháp luật trong đó cơ chế pháp lý của nó
phải phản ánh sự đa dạng của chủ thể kinh doanh và lợi ích kinh doanh nhưng lại phải
theo định hướng XHCN. Việc hoàn thiện pháp luật kinh tế phải được tiến hành từng bước
vững chắc, có chương trình, có trật tự ưu tiên. Thêm nữa, để giúp cho việc sửa đổi bổ
sung, kịp thời đáp ứng hoạt động kinh doanh có hiệu quả, chúng ta phải hành thường
xuyên việc tổ chức kiểm nghiệm lại hiệu lực thi hành của các văn bản pháp luật đã ban
hành.
+ Trong nền kinh tế thị trường, quyền tự do kinh doanh là trung tâm. Tuy nhiên, tự
do kinh doanh không có nghĩa là vô chính phủ, là vô hạn. Quan điểm cơ bản chi phối và
quyết định việc xây dựng hệ thống pháp luật quản lý kinh tế theo cơ chế mới là quan
điểm quản lý kinh tế bằng pháp luật. Để hoàn thiện nội dung này chúng ta cũng cần phải
ưu tiên xây dựng khung pháp luật kinh doanh của CCTT.
- Công bằng xã hội là mục tiêu mà chúng ta muốn đạt tới, xã hội không thể không
công bằng khi phân phối chưa công bằng. Nhưng trong cơ chế thị trường vấn đề phân
phối lại được thực hiện trong thị trường nhân tố sản xuất bằng sự cạnh tranh giá cả của
các yếu tố sản xuất. Để thực hiện tốt công tác phân phối, Nhà nước cần phải có những
chính sách giá cả đối với từng loại thị trường.
+ Trên thị trường cạnh tranh: Nhà nước quy định giá giới hạn đối với các hàng hoá
dịch vụ cạnh tranh như giá đất, giá thuê phòng khách san …
+ Trên thị trường độc quyền: quy định giá chuẩn đối với hàng hoá dịch vụ độc
quyền như giá điện, cước thư, cước điện thoại trong nước
+ Bên cạnh đó, chế độ tiền lương cũng cần phải thực hiện theo nguyên tắc phân
phối XHCN nghĩa là hưởng theo tài năng, khuyến khích sáng tạo trong lao động, làm
việc bằng thành quả lao động…
- Hoàn thiện và đổi mới quản lý Nhà nước về tiền tệ-tín dụng và ngân hàng.
Chính sách tài chính-tiền tệ trong năm nay và những năm tới cần được xem xét là
lĩnh vực hàng đầu của chính sách kinh tế vĩ mô, là đòn bẩy hàng đầu để điều tiết nề kinh
tế vận hành theo CCTT.